Giáo trình Pháp luật

Quyền của người tiêu dùng Theo Điều 8, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (2010), người tiêu dùng có các quyền sau: – Được bảo đảm an toàn tính mạng, sức khoẻ, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác khi tham gia giao dịch, sử dụng hàng hoá, dịch vụ do tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ cung cấp; – Được cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ về tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ; Nội dung giao dịch hàng hóa, dịch vụ; Nguồn gốc, xuất xứ hàng hoá; Được cung cấp hoá đơn, chứng từ, tài liệu liên quan đến giao dịch và thông tin cần thiết khác về hàng hóa, dịch vụ mà người tiêu dùng đã mua, sử dụng; – Lựa chọn hàng hoá, dịch vụ, tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ theo nhu cầu, điều kiện thực tế của mình; Quyết định tham gia hoặc không tham gia giao dịch và các nội dung thoả thuận khi tham gia giao dịch với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ; – Góp ý kiến với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ về giá cả, chất lượng hàng hoá, dịch vụ, phong cách phục vụ, phương thức giao dịch và nội dung khác liên quan đến giao dịch giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ; – Tham gia xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; – Yêu cầu bồi thường thiệt hại khi hàng hoá, dịch vụ không đúng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng, số lượng, tính năng, công dụng, giá cả hoặc nội dung khác mà tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đã công bố, niêm yết, quảng cáo hoặc cam kết;

pdf80 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 289 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Pháp luật, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
̣p thể lao động tại cơ sở; – Người lao động phải có mặt và có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa; trường hợp là người dưới 18 tuổi thì phải có sự tham gia của cha, mẹ hoặc người đại diện theo pháp luật; – Việc xử lý kỷ luật lao động phải được lập thành biên bản. Nguyên tắc xử lý kỷ luật lao động (Khoản 2,3,4,5 Điều 123, Bộ luật Lao động 2012) – Không được áp dụng nhiều hình thức xử lý kỷ luật lao động đối với một hành vi vi phạm kỷ luật lao động; – Khi một người lao động đồng thời có nhiều hành vi vi phạm kỷ luật lao động thì chỉ áp dụng hình thức kỷ luật cao nhất tương ứng với hành vi vi phạm nặng nhất; – Không được xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động đang trong thời gian sau đây: Nghỉ ốm đau, điều dưỡng; Nghỉ việc được sự đồng ý của người sử dụng lao động; Đang bị tạm giữ, tạm giam; Đang chờ kết quả của cơ quan có thẩm quyền điều tra xác minh và kết luận đối với hành vi vi phạm được quy định tại Khoản 1, Điều 126, Bộ luật Lao động 2012; Lao động nữ có thai, nghỉ thai sản; Người lao động nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi; – Không xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động vi phạm kỷ luật lao động trong khi mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình. Hình thức xử lý kỷ luật lao động (Điều 125, Bộ luật Lao động 2012): – Khiển trách; – Kéo dài thời hạn nâng lương không quá 06 tháng; cách chức; – Sa thải. 52 3.8. Tranh chấp lao động Tranh chấp lao động là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ và lợi ích phát sinh giữa các bên trong quan hệ lao động. Tranh chấp lao động bao gồm tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao động với người sử dụng lao động và tranh chấp lao động tập thể giữa tập thể lao động với người sử dụng lao động. 3.8.1. Tranh chấp lao động cá nhân Thẩm quyền giải quyết: Theo quy định tại Điều 200, Bộ luật Lao động 2012 quy định cơ quan, cá nhân có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động cá nhân gồm: a) Hoà giải viên lao động. b) Toà án nhân dân. Trình tự giải quyết Bước 1: Tranh chấp lao động cá nhân phải thông qua thủ tục hòa giải của hòa giải viên lao động trước khi yêu cầu tòa án giải quyết. Tuy nhiên, theo quy định tại Khoản 1, Điều 201, Bộ luật Lao động 2012, đối với một số tranh chấp lao động cá nhân sau đây không bắt buộc phải qua thủ tục hòa giải, bao gồm: – Về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải hoặc tranh chấp về trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động; – Về bồi thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động; – Giữa người giúp việc gia đình với người sử dụng lao động; – Về bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, về bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật về bảo hiểm y tế; – Về bồi thường thiệt hại giữa người lao động với doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu hoà giải, hòa giải viên lao động phải kết thúc việc hòa giải. Tại phiên họp hoà giải phải có mặt hai bên tranh chấp. Các bên tranh chấp có thể uỷ quyền cho người khác tham gia phiên họp hoà giải. 53 Hoà giải viên lao động có trách nhiệm hướng dẫn các bên thương lượng. Trường hợp hai bên thỏa thuận được, hòa giải viên lao động lập biên bản hòa giải thành. Trường hợp hai bên không thỏa thuận được, hòa giải viên lao động đưa ra phương án hoà giải để hai bên xem xét. Trường hợp hai bên chấp nhận phương án hoà giải, hoà giải viên lao động lập biên bản hoà giải thành. Trường hợp hai bên không chấp nhận phương án hoà giải hoặc một bên tranh chấp đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng, thì hoà giải viên lao động lập biên bản hoà giải không thành. Bước 2: Trong trường hợp hoà giải không thành hoặc một trong hai bên không thực hiện các thỏa thuận trong biên bản hòa giải thành hoặc hết thời hạn giải quyết theo quy định tại khoản 2 Điều 201 mà hoà giải viên lao động không tiến hành hoà giải thì mỗi bên tranh chấp có quyền yêu cầu Toà án giải quyết. 3.8.2. Tranh chấp lao động tập thể Thẩm quyền giải quyết: – Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động tập thể về quyền bao gồm (Khoản 1, Điều 203, Bộ luật Lao động 2012). + Hoà giải viên lao động; + Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện). + Toà án nhân dân. – Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động tập thể về lợi ích bao gồm (Khoản 2, Điều 203, Bộ luật Lao động 2012): + Hoà giải viên lao động; + Hội đồng trọng tài lao động. Trình tự giải quyết ( Điều 204, Bộ luật Lao động 2012) Bước 1: Trình tự hoà giải tranh chấp lao động tập thể được thực hiện theo quy định tại Điều 201, Điều 204 của Bộ luật Lao động 2012. Bước 2: Trong trường hợp hoà giải không thành hoặc một trong hai bên không thực hiện các thỏa thuận trong biên bản hòa giải thành thì các bên có quyền yêu cầu Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện giải quyết đối với tranh chấp lao 54 động tập thể về quyền hoặc yêu cầu Hội đồng trọng tài lao động giải quyết đối với tranh chấp lao động tập thể về lợi ích. 3.9. Công đoàn 3.9.1. Vai trò của tổ chức công đoàn trong quan hệ lao động – Công đoàn cơ sở thực hiện vai trò đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên công đoàn, người lao động; Tham gia, thương lượng, ký kết và giám sát việc thực hiện thỏa ước lao động tập thể, thang lương, bảng lương, định mức lao động, quy chế trả lương, quy chế thưởng, nội quy lao động, quy chế dân chủ ở doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức; Tham gia, hỗ trợ giải quyết tranh chấp lao động; Đối thoại, hợp tác với người sử dụng lao động xây dựng quan hệ lao động hài hoà, ổn định, tiến bộ tại doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức (Khoản 1, Điều 188, Bộ luật Lao động 2012); – Công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở có trách nhiệm hỗ trợ công đoàn cơ sở thực hiện các chức năng, nhiệm vụ theo quy định tại khoản 1, Điều 188 của Bộ luật Lao động 2012; Tuyên truyền giáo dục, nâng cao hiểu biết về pháp luật về lao động, pháp luật về công đoàn cho người lao động; – Ở những nơi chưa thành lập tổ chức công đoàn cơ sở, công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở thực hiện trách nhiệm như quy định tại khoản 1, Điều 188 của Bộ luật Lao động 2012; – Tổ chức công đoàn các cấp tham gia với cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp và tổ chức đại diện người sử dụng lao động để trao đổi, giải quyết các vấn đề về lao động (Khoản 4, Điều 188, Bộ luật Lao động 2012). 3.9.2. Thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn tại doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức – Người lao động làm việc trong doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức có quyền thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn theo quy định của Luật công đoàn; – Công đoàn cấp trên cơ sở có quyền và trách nhiệm vận động người lao động gia nhập công đoàn, thành lập công đoàn cơ sở tại doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức; Có quyền yêu cầu người sử dụng lao động và cơ quan quản lý nhà nước về lao động địa phương tạo điều kiện và hỗ trợ việc thành lập công đoàn cơ sở; – Khi công đoàn cơ sở được thành lập theo đúng quy định của Luật công đoàn thì người sử dụng lao động phải thừa nhận và tạo điều kiện thuận lợi để công đoàn cơ sở hoạt động. 55 3.9.3. Các hành vi bị nghiêm cấm đối với người sử dụng lao động liên quan đến thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn – Cản trở, gây khó khăn cho việc thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn của người lao động; – Ép buộc người lao động thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn; – Yêu cầu người lao động không tham gia hoặc rời khỏi tổ chức công đoàn. Phân biệt đối xử về tiền lương, thời giờ làm việc và các quyền và nghĩa vụ khác trong quan hệ lao động nhằm cản trở việc thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn của người lao động. 3.9.4. Quyền của cán bộ công đoàn cơ sở trong quan hệ lao động – Gặp người sử dụng lao động để đối thoại, trao đổi, thương lượng về những vấn đề lao động và sử dụng lao động; – Đến các nơi làm việc để gặp gỡ người lao động trong phạm vi trách nhiệm mà mình đại diện; – Những nơi chưa thành lập tổ chức công đoàn cơ sở, cán bộ công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở được thực hiện các quyền hạn quy định tại Điều 191 của Bộ Luật Lao động 2012. 3.9.5. Trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với tổ chức công đoàn – Tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn; – Phối hợp và tạo điều kiện thuận lợi cho công đoàn cấp trên cơ sở tuyên truyền, vận động phát triển đoàn viên, thành lập công đoàn cơ sở, bố trí cán bộ công đoàn chuyên trách tại doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức; – Bảo đảm các điều kiện để công đoàn cơ sở hoạt động theo quy định tại Điều 193, Bộ luật Lao động 2012; – Phối hợp với công đoàn cơ sở xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ, quy chế phối hợp hoạt động phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của mỗi bên; – Tham khảo ý kiến Ban chấp hành công đoàn cơ sở trước khi ban hành các quy định có liên quan đến quyền, nghĩa vụ, chế độ chính sách đối với người lao động; – Khi người lao động là cán bộ công đoàn không chuyên trách đang trong nhiệm kỳ công đoàn mà hết hạn hợp đồng lao động thì được gia hạn hợp đồng lao động đã giao kết đến hết nhiệm kỳ;. 56 – Khi người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, chuyển làm công việc khác, kỷ luật sa thải đối với người lao động là cán bộ công đoàn không chuyên trách thì phải thỏa thuận bằng văn bản với Ban chấp hành công đoàn cơ sở hoặc Ban chấp hành cấp trên trực tiếp cơ sở; Trong trường hợp không thỏa thuận được, hai bên phải báo cáo với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Sau 30 ngày, kể từ ngày báo cho cơ quan quản lý nhà nước về lao động địa phương biết, người sử dụng lao động mới có quyền quyết định và phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình; Trường hợp không nhất trí với quyết định của người sử dụng lao động, Ban chấp hành công đoàn cơ sở và người lao động có quyền yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động theo thủ tục, trình tự do pháp luật quy định. 3.9.6. Bảo đảm điều kiện hoạt động công đoàn tại doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức – Công đoàn cơ sở được người sử dụng lao động bố trí nơi làm việc và được cung cấp thông tin, bảo đảm các điều kiện cần thiết cho hoạt động công đoàn. – Cán bộ công đoàn không chuyên trách được sử dụng thời gian trong giờ làm việc để hoạt động công đoàn theo quy định của Luật công đoàn và được người sử dụng lao động trả lương. – Cán bộ công đoàn chuyên trách tại doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức do công đoàn trả lương, được người sử dụng lao động bảo đảm phúc lợi tập thể như người lao động làm việc trong doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức theo thoả ước lao động tập thể hoặc quy chế của người sử dụng lao động. CÂU HỎI Câu 1: Anh (chị) hãy trình bày khái niệm, nguyên tắc của Luật Lao động? Câu 2: Anh (chị) hãy nêu quyền và nghĩa vụ cơ bản của người lao động, người sử dụng lao động? Câu 3: Anh (chị) hãy nêu các quy định của pháp luật về hợp đồng lao động? Câu 4: Anh (chị) hãy nêu các quy định về chế độ tiền lương và bảo hiểm xã hội? Câu 5: Anh (chị) hãy nêu thời gian làm việc, thời gian nghỉ ngơi được quy định trong Bộ luật Lao động? 57 BÀI 4: PHÁP LUẬT PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG 1. Khái niệm tham nhũng Khái niệm tham nhũng được quy định tại Luật Phòng, chống tham nhũng 2018. Theo đó, “tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi”. (Khoản 1, Điều 3) Tham nhũng có những đặc điểm cơ bản sau: – Chủ thể tham nhũng là người có chức vụ, quyền hạn. Người có chức vụ, quyền hạn bao gồm: Cán bộ, công chức, viên chức; Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; Sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật, công nhân công an trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân; Người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp; Người giữ chức danh, chức vụ quản lý trong doanh nghiệp, tổ chức; Những người khác được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ và có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó (Khoản 2, Điều 3, Luật Phòng, chống tham nhũng 2018) – Chủ thể tham nhũng lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao. Đây là đặc điểm cơ bản đề xác định hành vi tham nhũng. Chủ thể tham nhũng phải sử dụng chức vụ, quyền hạn của mình như một phương tiện để mang lại lợi ích cho mình, cho gia đình mình hoặc cho người khác. Tuy nhiên, không phải mọi hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó đều được coi là hành vi tham nhũng. Ở đây có sự giao thoa giữa hành vi này với các hành vi tội phạm khác nên cần lưu ý khi phân biệt hành vi tham nhũng với các hành vi vi phạm pháp luật khác. – Mục đích của tham nhũng là vụ lợi. Hành vi tham nhũng là hành vi cố ý và mục đích của hành vi tham nhũng là vụ lợi. Nếu chủ thể thực hiện hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn mà không xuất phát từ động cơ vụ lợi thì hành vi đó không phải là hành vi tham nhũng. Vụ lợi ở đây được hiểu là lợi ích vật chất hoặc lợi ích tinh thần mà người có chức vụ, quyền hạn đã đạt được hoặc có thể đạt được thông qua hành vi tham nhũng. Pháp luật Việt Nam hiện nay quy định việc đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi tham nhũng chủ yếu dựa trên căn cứ xác định những lợi ích vật chất mà kẻ tham nhũng đạt được để từ đó quyết định mức độ xử lý. Lợi ích vật chất hiện nay trong cơ chế thị trường thể hiện ở rất nhiều dạng khác nhau, nếu chỉ căn 58 cứ vào những tài sản phát hiện hoặc thu hồi được để đánh giá lợi ích mà kẻ tham nhũng đạt được thì sẽ là không đầy đủ. Thêm nữa, các lợi ích vật chất và tinh thần đan xen rất khó phân biệt. Điều 2, Luật Phòng chống tham nhũng 2018 quy định cụ thể về những hành vi sau đây thuộc hành vi tham nhũng: – Tham ô tài sản; – Nhận hối lộ; – Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản; – Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; – Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; – Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi; – Giả mạo trong công tác vì vụ lợi; – Đưa hối lộ, môi giới hối lộ để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi; – Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản công vì vụ lợi; – Nhũng nhiễu vì vụ lợi; – Không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; – Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm pháp luật vì vụ lợi; Cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi. Trong 12 hành vi tham nhũng nêu trên, có 7 hành vi đã được quy định trong Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017) bao gồm: – Tôi tham ô tài sản (Điều 353). – Tội nhận hối lộ (Điều 354). – Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản (Điều 355). – Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ (Điều 356). – Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ (Điều 357). 59 – Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi (Điều 358). – Tội giả mạo trong công tác (Điều 358). 2. Nguyên nhân, hậu quả của tham nhũng 2.1. Nguyên nhân tham nhũng 2.1.1. Nguyên nhân khách quan Một là, Việt Nam là nước đang phát triển, trình độ quản lý còn lạc hậu, mức sống thấp, pháp luật chưa hoàn thiện. Thực tế cho thấy, tham nhũng thường xuất hiện ở những nước chậm phát triển hoặc đang phát triển do trình độ quản lý hạn chế, dân trí thấp. Sau hơn 30 năm đổi mới, mặc dù chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng kể nhưng trình độ quản lý còn lạc hậu, mức sống thấp.Vì vậy, nạn tham nhũng có điều kiện xảy ra phổ biến trong nhiều lĩnh vực, nhiều ngành, nhiều cấp nhất là trong các lĩnh vực đầu tư, xây dựng cơ bản, thu – chi ngân sách nhà nước, quản lý sử dụng đất đai, tài sản công, doanh nghiệp nhà nước, trong sản xuất, lưu thông, giáo dục – đào tạo, y tế, văn hóa, thể dục thể thao, trong hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật: điều tra, truy tố, xét xử. Hai là, quá trình chuyển đổi cơ chế, tồn tại và đan xen giữa cái mới và cái cũ. Quá trình chuyển đổi cơ chế đòi hỏi phải có thời gian, vừa làm vừa rút kinh nghiệm để tiếp tục hoàn thiện. Cơ chế cũ bị thay thế nhưng nếp nghĩ, thói quen vẫn tồn tại. Trong khi đó, cơ chế mới hình thành còn sơ khai ngay trong nhận thức nên quá trình thực hiện không tránh khỏi lúng túng, các chuẩn mực đánh giá không rõ ràng. Vì thế, không ít đối tượng lợi dụng danh nghĩa đổi mới, năng động, sáng tạo để chiếm đoạt tài sản của Nhà nước, lợi dụng chủ trương xã hội hoá một số lĩnh vực để "thương mại hoá", thu lợi ích tối đa cho cá nhân hoặc một nhóm người hoặc có thể là một cơ quan, đơn vị hay một địa phương. Tình trạng không rõ ràng trong cơ chế quản lý trên một số lĩnh vực là điều kiện cho nạn tham nhũng phát triển. Không ít cá nhân, tập thể có lúc được biểu dương như điển hình của sự năng động, dám nghĩ dám làm, thậm chí được tôn vinh, nhưng sau một thời gian lại bị phát hiện và xử lý vì có hành vi tiêu cực trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, lợi dụng sơ hở của cơ chế quản lý để tham nhũng, vụ lợi cá nhân. Ba là, ảnh hưởng của mặt trái cơ chế thị trường. 60 Trong quá trình đổi mới, chúng ta đã chuyển đổi mô hình kinh tế từ tập trung quan liêu, bao cấp sang mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đã đạt được những thành tựu nhất định. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, cơ chế thị trường đã bộc lộ nhiều nhược điểm. Đó là sự cạnh tranh khốc liệt, sự chi phối của lợi ích vật chất làm cho người sản xuất, kinh doanh có xu hướng tối đa hoá lợi nhuận bằng mọi giá, tìm cách hối lộ công chức nhà nước để tạo lợi thế trong kinh doanh. Trong xã hội, sự phân hoá giàu nghèo ngày càng rõ rệt, nhiều giá trị xã hội bị đảo lộn. Việc kiếm thật nhiều tiền đôi lúc đã trở thành sức ép, làm xuất hiện tâm lý mọi việc đều có thể trao đổi, mua bán. Bốn là, ảnh hưởng của tập quán văn hoá. Tập quán văn hoá của người Á Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng có rất nhiều điều kiện khiến cho tham nhũng, mà biểu hiện tập trung nhất là nạn quà cáp hối lộ có cơ sở tồn tại và phát triển. Chuyện biếu quà được coi là một nét văn hoá của người Việt Nam nhưng hiện nay nhiều nét văn hoá của người Việt như “miếng trầu là đầu câu chuyện”, “ăn quả nhớ người trồng cây”... đã và đang bị lợi dụng để thực hiện hành vi tham nhũng. 2.1.2. Nguyên nhân chủ quan Một là, phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên bị suy thoái; Công tác quản lý, giáo dục cán bộ, đảng viên còn yếu kém. Trước tác động của mặt trái của cơ chế thị trường, nhiều cán bộ, đảng viên do không tự giác rèn luyện, tu dưỡng đã dẫn đến tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên nói và làm không nhất quán, không đúng đường lối, quan điểm, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, phụ họa theo các quan điểm lệch lạc; Xa rời mục tiêu, lý tưởng của Đảng, xa dân, vô cảm trước những khó khăn, bức xúc và yêu cầu, đòi hỏi chính đáng của nhân dân. Xuất hiện lối sống vị kỷ, vụ lợi, buông thả, hưởng thụ, thiếu lý tưởng, thiếu ý chí phấn đấu hành động cơ hội. Hai là, chính sách pháp luật chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, thiếu nhất quán. Sự nghiệp đổi mới mà trọng tâm là đổi mới quản lý kinh tế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã đặt ra yêu cầu hết sức quan trọng là phải xây dựng một hệ thống cơ chế, chính sách, pháp luật hoàn thiện. Trong những năm qua, hệ thống pháp luật của nước ta không ngừng được bổ sung, bao quát tương đối đầy đủ các lĩnh vực của đời sống xã hội, bảo đảm sự cân đối, đồng bộ giữa kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường, quyền con 61 người, quyền công dân phù hợp với yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế của đất nước. Tuy nhiên, trên thực tế, cơ chế, chính sách, pháp luật trong thời kỳ đổi mới còn thiếu đồng bộ, nhiều sơ hở và thậm chí có những vấn đề thiếu nhất quán, thiếu những quy tắc xử sự cụ thể mà chủ thể phải thực hiện. Ở nhiều lĩnh vực quan hệ xã hội, xây dựng pháp luật chưa gắn với quản lý thi hành pháp luật, do đó, khó tránh khỏi hậu quả pháp luật xa rời thực tiễn, không những không phản ánh đầy đủ thực tại, mà còn khó có khả năng dự báo, đi trước sự phát triển của quan hệ xã hội. Có quá nhiều loại văn bản được nhiều cấp ban hành, nhưng lại thiếu cơ chế cân nhắc toàn diện các lĩnh vực pháp luật khác nhau, nên mâu thuẫn và chồng chéo là khó tránh khỏi. Tính cồng kềnh, sự tồn tại các bất cập và mâu thuẫn làm giảm tính minh bạch của pháp luật, khiến cho pháp luật trở nên phức tạp, khó hiểu, khó áp dụng và vì thế kém hiệu lực. Ba là, cải cách hành chính vẫn còn chậm và lúng túng, cơ chế “xin – cho” trong hoạt động công vụ còn phổ biến; thủ tục hành chính phiền hà, nặng nề, bất hợp lý. Cơ chế “xin – cho” được nhìn nhận là một trong những nguy cơ của tệ tham nhũng, hối lộ mà cho đến nay vẫn chưa có cách khắc phục. Chế độ công vụ của cán bộ, công chức mới bắt đầu được quan tâm xây dựng, hiện tại còn thiếu cơ chế kiểm tra, giám sát có hiệu quả. Chế độ, trách nhiệm của cán bộ, công chức chưa rõ ràng, cụ thể, đặc biệt là trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo đối với những sai phạm, tiêu cực xảy ra trong cơ quan, đơn vị mình. Chế độ tiền lương đối với đội ngũ cán bộ, công chức còn bất hợp lý, chậm được cải cách. Cơ chế quản lý tài chính công, mua sắm công, quản lý đầu tư xây dựng cơ bản phải trải qua nhiều khâu, nhiều "cửa". Trình tự, thủ tục này tưởng như chặt chẽ nhưng trên thực tế, cơ chế kiểm soát lại rất lỏng lẻo, tạo điều kiện cho tiêu cực, tham nhũng, lãng phí, thất thoát. Việc đổi mới phương thức thanh toán còn chậm làm cho việc kiểm soát và phát hiện được các giao dịch phi pháp gặp nhiều khó khăn. Việc kiểm soát và minh bạch hóa thu nhập và tài sản của cán bộ, công chức còn mang tính hình thức. Bên cạnh đó, việc không có cơ quan chủ trì, tổng hợp, kiểm tra, xử lý, và không có các quy định về trách nhiệm của cán bộ, công chức trong vấn đề kê khai tài sản đã dẫn đến sự thực thi không triệt để các quy định về kê khai tài sản, mặc dù đây là một chủ trương đúng đắn, tích cực được xã hội đồng tình, ủng hộ. Bốn là, sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác phòng, chống tham nhũng trong một số trường hợp chưa chặt chẽ, sâu sát, thường xuyên; Xử lý chưa nghiêm đối với hành vi tham nhũng. Mặc dù Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều nghị 62 quyết, chỉ thị, văn bản quy phạm pháp luật về đấu tranh chống tham nhũng trong thời gian qua nhưng việc thực hiện trên thực tế còn nhiều hạn chế. Nhiều cấp ủy, tổ chức Đảng và cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp chưa đề cao trách nhiệm của người đứng đầu, chưa có kế hoạch, giải pháp để tích cực phòng, chống tham nhũng trong cơ quan, ngành mình. Công tác ngăn ngừa, phát hiện hành vi tham nhũng tuy đã đạt được một số kết quả nhất định nhưng chưa đáp ứng nhu cầu. Một số vụ án tham nhũng lớn đã được phát hiện và đưa ra xét xử nghiêm minh tạo nên sự tin tưởng của nhân dân song dư luận vẫn băn khoăn đối với đối tượng cần xử lý. Đây là vấn đề làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả, hiệu lực của cuộc đấu tranh chống tham nhũng trong thời gian tới. Năm là, thiếu các công cụ phát hiện và xử lý tham nhũng hữu hiệu. Những năm qua, hoạt động điều tra, thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, giám sát đã thu được một số kết quả tích cực nhưng trên thực tế vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Cơ chế phối hợp của các cơ quan nói trên còn có những hạn chế, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của từng cơ quan trong cuộc đấu tranh chung còn chưa rõ ràng, cụ thể dẫn đến tình trạng lẫn lộn, chồng chéo, thiếu hiệu quả trong hoạt động phát hiện và xử lý tham nhũng. Về pháp luật, chúng ta chưa có những quy định cho phép các cơ quan chức năng áp dụng các biện pháp đặc biệt để có thể phát hiện các hành vi tham nhũng. Tham nhũng là một loại tội phạm đặc biệt vì chủ thể của nó là những người có chức vụ, quyền hạn, có trình độ thực hiện hành vi tham nhũng rất tinh vi, khó phát hiện và trong nhiều trường hợp kẻ vi phạm dùng nhiều thủ đoạn, kể cả dưới danh nghĩa nhà nước để cản trở việc điều tra và truy cứu trách nhiệm. Hơn nữa, việc thu thập chứng cứ để chứng minh hành vi phạm tội tham nhũng là cực kỳ khó khăn, nhất là đối với hành vi nhận hối lộ nên cơ quan tố tụng khó khăn trong việc quy trách nhiệm. Sáu là, việc huy động lực lượng đông đảo của nhân dân cũng như sự tham gia của lực lượng báo chí vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng còn chưa được quan tâm đúng mức. Báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng đóng một vai trò rất quan trọng trong việc phát hiện và đấu tranh chống những hành vi vi phạm trong hoạt động của bộ máy nhà nước, nhất là tệ tham nhũng. Báo chí vừa có tác dụng cảnh báo những nơi có nguy cơ tham nhũng, vừa tham gia phát hiện và đặc biệt là tạo nên dư luận mạnh mẽ đòi xử lý tham nhũng. Trong những năm qua, báo chí ở nước ta đã phát huy vai trò nhất định của mình trong đấu tranh chống tham nhũng nhưng nhìn chung sự đóng góp của báo 63 chí đối với công tác đấu tranh chống tham nhũng vẫn còn nhiều hạn chế. Nguyên nhân bắt nguồn từ phía các cơ quan quản lý nhà nước và từ bản thân cơ quan báo chí, nhất là sự phối hợp giữa hai cơ quan này. Vì những lý do khác nhau mà một số cơ quan nhà nước còn e ngại trước sự tham gia của báo chí, hoặc là vì bản thân sự thông tin đôi khi không chính xác hoặc không đúng thời điểm đã gây khó khăn cho việc phát hiện và xử lý triệt để các vụ việc tham nhũng. Hơn nữa, báo chí mới chỉ đấu tranh chống tham nhũng bằng việc phê phán những hành vi tiêu cực mà chưa coi trọng việc truyền đạt kịp thời những chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, những gương người tốt, việc tốt, sáng kiến hay, những hoạt động lành mạnh, những thông tin tích cực, biểu dương và cổ vũ, động viên đến toàn xã hội để tạo môi trường tốt cho sự phát triển, để cái tốt lấn át cái xấu, để tham nhũng dần dần không có chỗ trong các tiêu chí chuẩn mực và trong các quan hệ xã hội. Đây có thể coi là một hạn chế không nhỏ trong hoạt động báo chí hiện nay với tư cách là công cụ của Đảng và nhân dân trong đấu tranh chống tham nhũng. Công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của xã hội về tham nhũng và đấu tranh chống tham nhũng mặc dù đã nhận được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước nhưng chưa tạo ra một sự chuyển biến tích cực trong ý thức xã hội trong việc phản ứng với tệ nạn tham nhũng cũng như đề cao ý thức trách nhiệm của người dân trong việc tham gia vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng. 2.2. Hậu quả của tham nhũng 2.2.1. Hậu quả về chính trị Công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Những điều chỉnh đúng đắn về chiến lược và sách lược phát triển kinh tế – xã hội đã phát huy tác dụng tạo ra những chuyển biến nhất định. Tuy nhiên nhiều đối tượng đã lợi dụng sự thông thoáng của cơ chế, chính sách để thực hiện hành vi tham nhũng, trục lợi. Tham nhũng là trở lực lớn đối với quá trình đổi mới đất nước và làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, với hệ thống chính trị và chế độ chính trị mà chúng ta đang xây dựng. Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 tiếp tục khẳng định: Tình hình tham nhũng vẫn diễn biến phức tạp trên nhiều lĩnh vực, nhất là trong quản lý, sử dụng đất đai, đầu tư xây dựng, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước, gây hậu quả xấu về nhiều mặt, làm giảm sút lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, tiềm ẩn các xung đột lợi ích, phản kháng về xã hội, làm tăng thêm khoảng 64 cách giàu nghèo. Tham nhũng trở thành vật cản lớn cho thành công của công cuộc đổi mới, cho sức chiến đấu của Đảng, đe dọa sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng. 2.2.2. Hậu quả về kinh tế Tham nhũng gây thiệt hại rất lớn về tài sản của Nhà nước, của tập thể và của công dân. Với động cơ vụ lợi, một số người đã lợi dụng vị trí của mình trong bộ máy nhà nước hoặc lợi dụng những quyền hạn nhất định được pháp luật hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao cho để thực hiện các hành vi nhằm chiếm đoạt tài sản hoặc các lợi ích khác của Nhà nước, của tập thể hoặc cá nhân. Trong đó, những sai phạm trong lĩnh vực đất đai chiếm một số lượng đáng kể. Tham nhũng làm thất thoát những khoản tiền lớn trong xây dựng cơ bản do phải chi phí cho việc đấu thầu, việc cấp vốn, việc thanh tra, kiểm toán và hàng loạt các chi phí khác. Tham nhũng gây tổn thất lớn cho nguồn thu của ngân sách nhà nước thông qua thuế. Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước. Tuy nhiên do tệ tham nhũng, hối lộ mà một số doanh nghiệp chỉ phải nộp khoản thuế ít hơn nhiều so với khoản thuế thực tế phải nộp. Điều này đã làm thất thoát một lượng tiền rất lớn hàng năm. Hối lộ cũng dẫn đến những thất thoát lớn trong việc hoàn thuế, xét miễn giảm thuế Tham nhũng gây ảnh hưởng lớn đến môi trường kinh doanh, làm giảm đáng kể năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, làm chậm tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, làm mất lòng tin của các doanh nghiệp làm ăn chính đáng trong cạnh tranh lành mạnh dẫn đến nhiều hậu quả xấu khác như chất lượng công trình kém, làm suy thoái phẩm chất của một số cán bộ, công chức, viên chức Trong khi thi hành công vụ, một số cán bộ, công chức quan liêu, sách nhiễu, lạm dụng quyền hạn đối với nhân dân dẫn đến tình trạng thủ tục hành chính bị kéo dài, gây mất thời gian, tiền của của người dân, làm đình trệ các hoạt động sản xuất, kinh doanh. 2.2.3. Hậu quả về xã hội Tham nhũng làm thay đổi, đảo lộn những chuẩn mực đạo đức xã hội, tha hoá đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước. Trước những lợi ích bất chính đã hoặc sẽ có được khi thực hiện hành vi tham nhũng, nhiều cán bộ, công chức đã không giữ được phẩm chất đạo đức của người cán bộ cách mạng. Cán bộ, công chức khi thực hiện hành vi tham nhũng đã không còn làm việc vì mục đích phục vụ sự nghiệp cách mạng, phục vụ nhân dân mà hướng tới việc thu được các lợi ích bất 65 chính, bất chấp việc vi phạm pháp luật, làm trái công vụ, trái lương tâm, đạo đức nghề nghiệp Vì vậy, tham nhũng không chỉ phát sinh ở trong các lĩnh vực kinh tế, tài chính, ngân hàng, đầu tư, xây dựng cơ bản, quản lý đất đai mà còn có xu hướng lan sang các lĩnh vực mà từ trước tới nay ít có khả năng xảy ra tham nhũng như: văn hoá, y tế, giáo dục, thể dục, thể thao 3. Ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác phòng, chống tham nhũng Tham nhũng là hiện tượng xã hội tiêu cực gây thiệt hại nghiêm trọng đến các nguồn lực công, xâm hại đến hoạt động đúng đắn của bộ máy nhà nước, làm sai lệch công lý, công bằng xã hội, làm suy giảm niềm tin, cản trở các nỗ lực giảm nghèo và phát triển đất nước, xã hội. Công tác phòng, chống tham nhũng được Đảng, Nhà nước ta xác định là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, có ý nghĩa vô cùng to lớn, vừa cấp bách, vừa khó khăn, phức tạp, lâu dài. Phòng, chống tham nhũng là điều kiện quyết định đối với sự ổn định và phát triển đất nước, đối với sự tồn vong của chế độ xã hội mà nhân dân Việt Nam đang xây dựng. Một khi không ngăn chặn, đẩy lùi được tham nhũng, lãng phí, chúng ta không thể đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng, hiệu quả, sức cạnh tranh, sự phát triển bền vững của nền kinh tế đất nước. Không thể tận dụng được thời cơ, vượt qua được những thách thức to lớn trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Không ngăn chặn, đẩy lùi được tệ tham nhũng, lãng phí, chúng ta không thể giữ vững ổn định chính trị xã hội, không thể củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân vào Đảng ta, chế độ ta. Phòng, chống tham nhũng còn là điều kiện đảm bảo sự ổn định trật tự và công bằng xã hội, dân chủ, trật tự kỷ cương, phát huy sự năng động, sáng tạo, cống hiến trí tuệ của người lao động. Phòng, chống tham nhũng góp phần quan trọng trong việc bảo vệ các giá trị đạo đức, bảo vệ nền tảng tinh thần của xã hội, phát huy được truyền thống đoàn kết dân tộc tạo sức mạnh nội lực để thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới đất nước. 4. Trách nhiệm của công dân trong phòng, chống tham nhũng 4.1. Trách nhiệm của công dân tham gia phòng, chống tham nhũng Công dân là chủ thể của quyền lực nhà nước, thực hiện việc giám sát các mặt của đời sống xã hội, trong đó có tổ chức và hoạt động của các cơ quan công quyền, của cán bộ, công chức. Trong đấu tranh chống tham nhũng, cần lấy người dân và xã 66 hội công dân làm trung tâm, phát huy sức mạnh cộng đồng trong phản biện, giám sát tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, làm cho người dân nhận thức được đấu tranh chống tham nhũng là trách nhiệm của bản thân mình. Công dân có trách nhiệm chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật về phòng, chống tham nhũng; Lên án, đấu tranh với những hành vi tham nhũng; Phản ánh với ban thanh tra nhân dân tổ chức mình là thành viên về hành vi tham nhũng, vụ việc tham nhũng để ban thanh tra nhân dân, tổ chức có kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, giải quyết theo qui định của pháp luật; Cộng tác với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc xác minh vụ việc tham nhũng khi được yêu cầu. Kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cơ chế chính sách pháp luật về phòng chống tham nhũng; góp ý kiến với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc xây dựng các văn bản pháp luật về phòng, chống tham nhũng. Luật Phòng, chống tham nhũng 2018 quy định: Cá nhân, tổ chức có quyền phản ánh về hành vi tham nhũng, cá nhân có quyền tố cáo về hành vi tham nhũng theo quy định của pháp luật (Khoản 1, Điều 65). Khi tố cáo hành vi tham nhũng với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền, người tố cáo phải tố cáo trung thực, nêu rõ họ, tên, địa chỉ, cung cấp thông tin, tài liệu mà mình có và hợp tác với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết tố cáo. Người phản ánh, báo cáo về hành vi tham nhũng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính trung thực của nội dung phản ánh, báo cáo và người tố cáo hành vi tham nhũng phải chịu trách nhiệm về việc tố cáo của mình theo quy định của Luật Tố cáo (Điều 69, Luật Phòng, chống tham nhũng 2018). Việc bảo vệ người tố cáo hành vi tham nhũng được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố cáo. Người phản ánh, báo cáo về hành vi tham nhũng được áp dụng các biện pháp bảo vệ như bảo vệ người tố cáo (Điều 67, Luật Phòng, chống tham nhũng 2018). 4.2. Tham gia phòng chống tham nhũng thông qua ban thanh tra nhân dân tổ chức mà mình là thành viên Hình thức tham gia của công dân trong phòng, chống tham nhũng được quy định trong điều 77 của Luật Phòng, chống tham nhũng 2018: Công dân tự mình hoặc thông qua Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng hoặc thông qua tổ chức mà mình là thành viên tham gia phòng, chống tham nhũng; Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng. 67 5. Giới thiệu Luật Phòng, chống tham nhũng Luật phòng, chống tham nhũng đầu tiên được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2005 có hiệu lực từ ngày 1/6/2006 và sửa đổi, bổ sung năm 2007 và 2012. Ngày 20 tháng 11 năm 2018, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật số 36/2018/QH14 Luật Phòng, chống tham nhũng mới, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 07 năm 2019. Luật Phòng, chống tham nhũng số 55/2005/QH11 được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 01/2007/QH12 và Luật số 27/2012/QH13 hết hiệu lực kể từ ngày Luật Phòng, chống tham nhũng 2018 có hiệu lực thi hành. Luật Phòng, chống tham nhũng 2018 gồm 10 chương 96 điều. Chương 1: Những quy định chung (từ Điều 1 đến Điều 8) Chương 2: Phòng ngừa tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị (từ Điều 9 đến Điều 54) Chương 3: Phát hiện tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị (từ Điều 55 đến Điều 69) Chương 4: Chế độ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong phòng, chống tham nhũng (từ Điều 70 đến Điều 73) Chương 5: Trách nhiệm xã hội trong phòng, chống tham nhũng (từ Điều 74 đến Điều 77) Chương 6: Phòng, chống tham nhũng trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước (từ Điều 78 đến Điều 82) Chương 7: Trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong phòng, chống tham nhũng (từ Điều 83 đến Điều 88) Chương 8: Họp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng (từ Điều 89 đến Điều 91) Chương 9: Xử lý tham nhũng và hành vi khác vi phạm pháp luật về phòng, chống tham nhũng (từ Điều 91 đến Điều 95) Chương 10: Điều khoản thi hành (Điều 96). CÂU HỎI ÔN TẬP: Câu 1: Thế nào là tham nhũng? Trình bày những đặc điểm của tham nhũng? 68 Câu 2: Theo anh (chị), nguyên nhân nào dẫn đến tham nhũng ở nước ta hiện nay? Anh (chị) hãy đề xuất một số giải pháp để công tác phòng, chống tham nhũng được tiến hành một cách hiệu quả? Câu 3: Nêu những tác hại của tham nhũng và ý nghĩa của việc phòng, chống tham nhũng hiện nay. Liên hệ thực tế địa phương anh (chị) về công tác phòng, chống tham nhũng? Câu 4: Công dân có trách nhiệm gì trong phòng, chống tham nhũng? 69 BÀI 5: PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG 1. Quyền và nghĩa vụ của người tiêu dùng Người tiêu dùng là lực lượng đông đảo trong xã hội nên có vị trí quan trọng trong nền kinh tế và là mục tiêu hướng đến của mọi doanh nghiệp. Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mình, người tiêu dùng ngoài việc quan tâm đến sản phẩm, dịch vụ, người tiêu dùng nên trang bị cho mình những kiến thức cơ bản về quyền lợi, nghĩa vụ của mình. 1.1. Quyền của người tiêu dùng Theo Điều 8, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (2010), người tiêu dùng có các quyền sau: – Được bảo đảm an toàn tính mạng, sức khoẻ, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác khi tham gia giao dịch, sử dụng hàng hoá, dịch vụ do tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ cung cấp; – Được cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ về tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ; Nội dung giao dịch hàng hóa, dịch vụ; Nguồn gốc, xuất xứ hàng hoá; Được cung cấp hoá đơn, chứng từ, tài liệu liên quan đến giao dịch và thông tin cần thiết khác về hàng hóa, dịch vụ mà người tiêu dùng đã mua, sử dụng; – Lựa chọn hàng hoá, dịch vụ, tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ theo nhu cầu, điều kiện thực tế của mình; Quyết định tham gia hoặc không tham gia giao dịch và các nội dung thoả thuận khi tham gia giao dịch với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ; – Góp ý kiến với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ về giá cả, chất lượng hàng hoá, dịch vụ, phong cách phục vụ, phương thức giao dịch và nội dung khác liên quan đến giao dịch giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ; – Tham gia xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; – Yêu cầu bồi thường thiệt hại khi hàng hoá, dịch vụ không đúng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng, số lượng, tính năng, công dụng, giá cả hoặc nội dung khác mà tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đã công bố, niêm yết, quảng cáo hoặc cam kết; 70 – Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện hoặc đề nghị tổ chức xã hội khởi kiện để bảo vệ quyền lợi của mình theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan; – Được tư vấn, hỗ trợ, hướng dẫn kiến thức về tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ. 1.2. Nghĩa vụ của người tiêu dùng Theo Điều 9, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (2010), người tiêu dùng có các nghĩa vụ sau: – Kiểm tra hàng hoá trước khi nhận; Lựa chọn tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng, không làm tổn hại đến môi trường, trái với thuần phong mỹ tục và đạo đức xã hội, không gây nguy hại đến tính mạng, sức khỏe của mình và của người khác; Thực hiện chính xác, đầy đủ hướng dẫn sử dụng hàng hóa, dịch vụ; – Thông tin cho cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân có liên quan khi phát hiện hàng hóa, dịch vụ lưu hành trên thị trường không bảo đảm an toàn, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản của người tiêu dùng; hành vi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng. 2. Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân đối với người tiêu dùng và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (2010) đã quy định tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa có các trách nhiệm sau đối với người tiêu dùng: – Trách nhiệm cung cấp thông tin về hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng; – Giải thích hợp đồng giao kết với người tiêu dùng; – Cung cấp bằng chứng giao dịch; – Bảo hành hàng hàng hóa, linh kiện, phụ kiện; – Thu hồi hàng hóa hàng hóa có khuyết tật; – Bồi thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra. 71 2.1. Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đối với người tiêu dùng Theo Điều 12, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (2010), tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có các trách nhiệm sau đối với người tiêu dùng: a) Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ trong việc cung cấp thông tin về hàng hoá, dịch vụ cho người tiêu dùng – Ghi nhãn hàng hóa theo quy định của pháp luật. – Niêm yết công khai giá hàng hoá, dịch vụ tại địa điểm kinh doanh, văn phòng dịch vụ. – Cảnh báo khả năng hàng hoá, dịch vụ có ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ, tính mạng, tài sản của người tiêu dùng và các biện pháp phòng ngừa. – Cung cấp thông tin về khả năng cung ứng linh kiện, phụ kiện thay thế của hàng hoá. – Cung cấp hướng dẫn sử dụng; điều kiện, thời hạn, địa điểm, thủ tục bảo hành trong trường hợp hàng hoá, dịch vụ có bảo hành. – Thông báo chính xác, đầy đủ cho người tiêu dùng về hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung trước khi giao dịch. b) Trách nhiệm của bên thứ ba trong việc cung cấp thông tin về hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng Theo Điều 13, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (2010), bên thứ ba có các trách nhiệm sau ba trong việc cung cấp thông tin về hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng: Trường hợp tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ cung cấp thông tin cho người tiêu dùng thông qua bên thứ ba thì bên thứ ba có trách nhiệm: – Bảo đảm cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ về hàng hoá, dịch vụ được cung cấp; – Yêu cầu tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ cung cấp chứng cứ chứng minh tính chính xác, đầy đủ của thông tin về hàng hoá, dịch vụ; – Chịu trách nhiệm liên đới về việc cung cấp thông tin không chính xác hoặc không đầy đủ, trừ trường hợp chứng minh đã thực hiện tất cả biện pháp theo 72 quy định của pháp luật để kiểm tra tính chính xác, đầy đủ của thông tin về hàng hóa, dịch vụ; – Tuân thủ các quy định của pháp luật về báo chí, pháp luật về quảng cáo. Trường hợp tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ cung cấp thông tin cho người tiêu dùng thông qua phương tiện truyền thông thì chủ phương tiện truyền thông, nhà cung cấp dịch vụ truyền thông có trách nhiệm: – Thực hiện theo quy định như trường hợp trên; – Xây dựng, phát triển giải pháp kỹ thuật ngăn chặn việc phương tiện, dịch vụ do mình quản lý bị sử dụng vào mục đích quấy rối người tiêu dùng; – Từ chối cho tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ sử dụng phương tiện, dịch vụ do mình quản lý nếu việc sử dụng có khả năng dẫn đến quấy rối người tiêu dùng; – Ngừng cho tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ sử dụng phương tiện, dịch vụ do mình quản lý để thực hiện hành vi quấy rối người tiêu dùng theo yêu cầu của người tiêu dùng hoặc yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. 2.2. Trách nhiệm của tổ chức xã hội trong việc tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, ngoài trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ còn có trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong việc tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. 2.2.1. Tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Theo Điều 27, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (2010), tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được quy định như sau: Tổ chức xã hội thành lập theo quy định của pháp luật và hoạt động theo điều lệ được tham gia hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của tổ chức xã hội phải theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan. 2.2.2. Nội dung tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của tổ chức xã hội Theo Điều 28, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (2010), tổ chức xã hội tham gia bảo vệ người tiêu dùng bằng các hoạt động sau đây: 73 – Hướng dẫn, giúp đỡ, tư vấn người tiêu dùng khi có yêu cầu; – Đại diện người tiêu dùng khởi kiện hoặc tự mình khởi kiện vì lợi ích công cộng; – Cung cấp cho cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thông tin về hành vi vi phạm pháp luật của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ; – Độc lập khảo sát, thử nghiệm; công bố kết quả khảo sát, thử nghiệm chất lượng hàng hóa, dịch vụ do mình thực hiện; thông tin, cảnh báo cho người tiêu dùng về hàng hóa, dịch vụ và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thông tin, cảnh báo của mình; kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; – Tham gia xây dựng pháp luật, chủ trương, chính sách, phương hướng, kế hoạch và biện pháp về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; – Thực hiện nhiệm vụ được cơ quan nhà nước giao theo quy định tại Điều 29 Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; – Tham gia tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và kiến thức tiêu dùng. Chính phủ quy định điều kiện để tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thực hiện quyền khởi kiện vì lợi ích công cộng quy định tại điểm b, khoản 1, Điều 29. CÂU HỎI Câu 1: Trình bày phạm vi điều chỉnh và Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng? Câu 2: Trình bày nguyên tắc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng? Câu 3: Trình bày quyền và nghĩa vụ của người tiêu dùng? Câu 4: Trình bày trách nhiệm của tổ chức, cá nhân đối với người tiêu dùng và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng? 74 75 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 2013; 2. Luật Ban hành văn bản Quy phạm pháp luật, 2015; 3. Bộ luật Dân sự 2015. 4. Bộ Luật Lao động 2012. 5. Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. 6. Bộ luật tố tụng dân sự 2015. 7. Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010. 8. Luật Phòng, chống tham nhũng 2018. 9. Luật xử lý vi phạm hành chính, 2012. 10. Quyết định số 1309/QĐ–TTg ngày 05/9/2017 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Đề án đưa nội dung quyền con người vào chương trình giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân. 11. Quyết định số 1997/QĐ–TTg ngày 18/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Chương trình phát triển các hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng giai đoạn 2016 – 2020. 12. Chỉ thị số 10/CT– TTg ngày 12/06/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc đưa nội dung phòng, chống tham nhũng vào giảng dạy tại các cơ sở giáo dục, đào tạo từ năm học 2013–2014. 13. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình pháp luật đại cương, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm, 2017. 14. Thông tư số 08/2014/TT–BLĐTBXH ngày 22/04/2014 về việc Ban hành chương trình, giáo trình môn học pháp luật dùng trong đào tạo trung cấp nghề, trình độ cao đẳng nghề. 15. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014), Giáo trình Pháp luật (Dùng cho trình độ Trung cấp chuyên nghiệp). 16. Bộ Giáo dục và Đào tạo(2013), Giáo trình Pháp luật đại cương. 17. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2016), Giáo trình pháp luật đại cương (GS.TS. Mai Hồng Quỳ chủ biên), Nhà xuất bản Đại học Sư phạm. 18. Viện chính sách công và pháp luật (2014), Bình luận khoa học Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, NXB Lao động xã hội. 76 19. Trường Đại học Luật Hà Nội (2016), Giáo trình Lý luận Nhà nước và Pháp luật, Nhà xuất bản Tư pháp. 20. Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nhà xuất bản Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam. 21. Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2010), Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Nhà xuất bản Đại học quốc gia TP. Hồ Chí Minh. 22. Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2011), Giáo trình luật lao động, Nhà xuất bản Đại học quốc gia TP. Hồ Chí Minh. 23. Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, NXB Công an nhân dân. 24. Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình Luật Hiến pháp, NXB Công an nhân dân. 25. Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật. NXB Tư pháp. 26. Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam. NXB Công an nhân dân. 27. Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình Luật Lao động Việt Nam. NXB Công an nhân dân. 28. Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (phần chung). NXB Công an nhân dân./.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfgiao_trinh_phap_luat.pdf
Tài liệu liên quan