Về xử lý vi phạm
Khoản 1 Điều 210 Dự thảo Luật quy
định: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân vi phạm quy
định của Luật này thì tùy theo tính chất và
mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt
vi phạm hành chính, trường hợp gây thiệt hại
thì phải bồi thường, cá nhân có thể bị truy
cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của
pháp luật”10. Quy định này đã bỏ sót trường
hợp xử lý doanh nghiệp là pháp nhân thương
mại. Theo quy định tại Điều 2 và Điều 76
BLHS, pháp nhân thương mại phạm tội phải
chịu trách nhiệm hình sự nếu phạm một hoặc
nhiều tội sau đây: Điều 188. Tội buôn lậu;
Điều 189. Tội vận chuyển trái phép hàng hóa,
tiền tệ qua biên giới; Điều 190. Tội sản xuất,
buôn bán hàng cấm; Điều 191. Tội tàng trữ,
vận chuyển hàng cấm; Điều 192. Tội sản
xuất, buôn bán hàng giả; Điều 193. Tội sản
xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực
phẩm, phụ gia thực phẩm; Điều 194. Tội sản
xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh,
thuốc phòng bệnh; Điều 195. Tội sản xuất,
buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn
nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực
vật, giống cây trồng, giống vật nuôi; Điều
196. Tội đầu cơ; Điều 200. Tội trốn thuế;
Điều 203. Tội in, phát hành, mua bán trái
phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách
nhà nước; Điều 209. Tội cố ý công bố thông
tin sai lệch hoặc che giấu thông tin trong hoạt
động chứng khoán; Điều 210. Tội sử dụng
thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán;
Điều 211. Tội thao túng thị trường chứng
khoán; Điều 213. Tội gian lận trong kinh
doanh bảo hiểm; Điều 216. Tội trốn đóng bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất
nghiệp cho người lao động; Điều 217. Tội vi
phạm quy định về cạnh tranh; Điều 225. Tội
xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan;
Điều 226. Tội xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp; Điều 227. Tội vi phạm quy định về
nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên;
Điều 232. Tội vi phạm quy định về khai thác,
bảo vệ rừng và lâm sản; Điều 234. Tội vi
phạm quy định về bảo vệ động vật hoang dã;
Điều 235. Tội gây ô nhiễm môi trường; Điều
237. Tội vi phạm quy định về phòng ngừa,
ứng phó, khắc phục sự cố môi trường; Điều
238. Tội vi phạm quy định về bảo vệ an toàn
công trình thủy lợi, đê điều và phòng, chống
thiên tai; vi phạm quy định về bảo vệ bờ, bãi
sông; Điều 239. Tội đưa chất thải vào lãnh
thổ Việt Nam; Điều 242. Tội hủy hoại nguồn
lợi thủy sản; Điều 243. Tội hủy hoại rừng;
Điều 244. Tội vi phạm quy định về bảo vệ
động vật nguy cấp, quý, hiếm; Điều 245. Tội
vi phạm quy định về quản lý khu bảo tồn
thiên nhiên; Điều 246. Tội nhập khẩu, phát
tán các loài ngoại lai xâm hại; Điều 300. Tội
tài trợ khủng bố; Điều 324. Tội rửa tiền. Vì
vậy, cơ quan soạn thảo cần cân nhắc bổ sung
quy định tại khoản 1 Điều 210 Dự thảo Luật
theo hướng: Cơ quan, tổ chức, cá nhân vi
phạm quy định của Luật này thì tùy theo tính
chất và mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật,
xử phạt vi phạm hành chính, trường hợp gây
thiệt hại thì phải bồi thường, cá nhân hoặc
doanh nghiệp là pháp nhân thương mại có
thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy
định của pháp luật.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 212 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Góp ý sửa đổi luật tổ chức quốc hội năm 2014, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 2+3(402+403) - T1+2/202056 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
1 Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật Tổ chức Quốc hội kèm theo Tờ trình số 442/TTr-
UBTVQH14 ngày 26/9/2019 của Ủy ban thường vụ Quốc hội (phạm vi sửa đổi, bổ sung tập trung vào
15/102 điều của Luật Tổ chức Quốc hội hiện hành; các nội dung sửa đổi, bổ sung được bố cục trong 2
điều, Điều 1 sửa đổi, bổ sung 15 điều của Luật Tổ chức Quốc hội; Điều 2 là hiệu lực thi hành).
2 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014.
gÓp Ý sỬa đổi luẬt tổ cHỨc quốc HỘi năm 2014
Thạch Phước Bình
ThS. Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Trà Vinh.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Đại biểu Quốc hội; Đoàn đại biểu
Quốc hội; Ban Tổ chức Quốc hội; Ban Dân
nguyện của Quốc hội; Luật Tổ chức Quốc hội.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 30/12/2019
Biên tập : 08/01/2020
Duyệt bài : 10/01/2020
Article Infomation:
Keywords: National Assembly deputies;
National Assembly deputies’ delegation;
Committee of National Assembly Organization;
Board of People Petition of National Assembly;
Law on Organization of National Assembly.
Article History:
Received : 30 Dec. 2019
Edited : 08 Jan. 2020
Approved : 10 Jan. 2020
Tóm tắt:
Qua hơn 03 năm thực hiện, Luật Tổ chức Quốc hội năm
2014 về cơ bản đã phát huy tác dụng tốt, chưa có vướng
mắc lớn. Tuy nhiên, một số quy định của Luật này cần
được sửa đổi, bổ sung trên cơ sở kiểm nghiệm, đánh giá
hiệu quả trên thực tế nhằm góp phần nâng cao hiệu lực,
hiệu quả hoạt động của Quốc hội. Việc tiếp tục hoàn thiện
Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 là hết sức cần thiết.
Abstract:
After more than 03 years of enforcement, the Law on
Organization of the National Assembly of 2014 has
basically brought into good effect, without major
problems. However, a number of provisions of this Law
need to be reviewed based on practical enforcement in
order to improve the effectiveness and efficiency of the
National Assembly. The Law on Organization of the
National Assembly of 2014 is required to be reviewed for
further improvements.
Qua nghiên cứu về phạm vi sửa đổi,bổ sung Luật Tổ chức Quốc hội, tácgiả cho rằng, phạm vi sửa đổi, bổ
sung như Dự thảo Luật1 còn hẹp, chủ yếu tập
trung vào cụ thể hóa các nội dung trong Nghị
quyết số 18/NQ-TW để tinh gọn bộ máy mà
chưa tập trung vào việc nâng cao chất
lượng,hiệu lực, hiệu quảhoạt động của Quốc
hội; chưa thể hiện được vai trò trung tâm của
đại biểu Quốc hội (ĐBQH) trong hoạt động
của Quốc hội; chưa khắc phục được những
hạn chế, vướng mắc trong việc tổ chức thực
hiện Luật thời gian qua; chưa tính đến đặc thù
của cơ quan lập pháp cũng như khối lượng
công việc ngày càng tăng của Quốc hội hiện
nay. Do đó, tác giả cho rằng, Dự thảo Luật
cần làm rõ một số nội dung như sau:
Thứ nhất, làm rõ địa vị pháp lý của
ĐBQH hoạt động chuyên trách (Điều 21)2.
57Số 2+3(402+403) - T1+2/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
Trong những năm qua, Quốc hội nước
ta đã có nhiều đổi mới về tổ chức và hoạt
động, góp phần vào thành công chung của
công cuộc đổi mới đất nước. Từ khóa XI đến
nay, thực hiện Luật Tổ chức Quốc hội năm
2011 và năm 2014, số lượng ĐBQH hoạt
động chuyên trách ngày càng tăng lên từ
25% tại Quốc hội khóa XI (2002-2007) lên
35% khóa XIV (2016-2021)3, bao gồm cả
ĐBQH chuyên trách ở Trung ương và
chuyên trách ở địa phương. Chính ĐBQH
chuyên trách đã làm thay đổi đáng kể diện
mạo về mặt tổ chức và cũng làm tăng hiệu
quả hoạt động của Quốc hội, các cơ quan
Quốc hội và các Đoàn ĐBQH ở các địa
phương. Tuy nhiên, khung pháp lý cho hoạt
động của ĐBQH chuyên trách chưa đầy đủ.
ĐBQH chuyên trách vẫn cùng chung nhiệm
vụ, quyền hạn, địa vị pháp lý như ĐBQH nói
chung ngoài thời gian thực hiện nhiệm vụ
ĐBQH4. Mặc dù Quy chế hoạt động của
ĐBQH và Đoàn ĐBQH quy định, ĐBQH
chuyên trách được mời dự các hội nghị, lớp
học, tập huấn theo chức danh lãnh đạo địa
phương. Tuy nhiên, nhìn chung, vị trí pháp
lý của ĐBQH chuyên trách còn chưa cụ thể,
đặc biệt là vị trí của ĐBQH chuyên trách
trong hệ thống chính trị ở địa phương; mối
quan hệ của Trưởng, Phó Trưởng đoàn
chuyên trách với ĐBQH trong Đoàn; vấn
đề đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ, chế độ
khen thưởng đối với ĐBQH chuyên trách
Hiện nay, ĐBQH chuyên trách hầu
như phải “tự bơi”, tự nỗ lực trong hoạt động
do thiếu chuyên gia, đội ngũ giúp việc;bộ
máy giúp việc của Văn phòng Đoàn ĐBQH
chưa đủ đáp ứng yêu cầu phục vụ cho các
hoạt động chung của Đoàn và của ĐBQH
chuyên trách; ĐBQH chuyên trách ở địa
phương ngoài lương và chế độ phụ cấp, các
chế độ còn lại trong hoạt động của (tiếp công
dân, tiếp xúc cử tri, xây dựng pháp luật,
giám sát, chế độ tham dự kỳ họp Quốc hội...)
không có gì khác so với đại biểu kiêm nhiệm
và còn rất thấp so với nghị sĩ các nước5. Do
đó, tác giả cho rằng, Dự thảo Luật cần bổ
sung xác định rõ vị trí pháp lý của ĐBQH
chuyên trách nhằm tạo điều kiện cho ĐBQH
chuyên trách tiếp tục phát huy vai trò, hiệu
quả trong hoạt động của Quốc hội, các cơ
quan của Quốc hội và Đoàn ĐBQH6.
Thứ hai, bổ sung tiêu chuẩn của đại
biểu Quốc hội chuyên trách (Điều 22)7.
Tác giả cho rằng, để nâng cao chất
lượng ĐBQH, ngoài những tiêu chuẩn
chung của ĐBQH theo quy định tại Điều
228, cần bổ sung quy định về tiêu chuẩn đối
với ĐBQH chuyên trách theo hướng hoặc
quy định về nguyên tắc cho UBTVQH quy
định cụ thể hoặc quy định cụ thể tiêu chuẩn
về năng lực, trình độ văn hóa, trình độ
chuyên môn, điều kiện về quy hoạch các
chức danh lãnh đạo Quốc hội, Hội đồng Dân
3 Viện Nghiên cứu lập pháp (2016), Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam kế thừa, đổi mới và phát
triển. Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, tr.24.
4 Điều 24 quy định: “1. ĐBQH hoạt động chuyên trách dành toàn bộ thời gian làm việc để thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn của đại biểu... 2. ĐBQH hoạt động không chuyên trách phải dành ít nhất một phần ba thời
gian làm việc trong năm để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của ĐBQH”.
5 Nghị sĩ Campuchia là 2.000 USD/tháng (Nguồn: Nguyễn Đức Lam (2002), Quốc hội Việt Nam những
vấn đề lý luận và thực tiễn - Để tiến tới chuyên nghiệp, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp tháng 6/2002).
6 Điều 21 quy định: “1. ĐBQH là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân ở đơn vị bầu cử ra
mình và của Nhân dân cả nước 2. ĐBQH chịu trách nhiệm trước cử tri và trước Quốc hội về việc thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn đại biểu của mình. 3. ĐBQH bình đẳng trong thảo luận và quyết định các vấn
đề thuộc nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội”.
7 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014.
8 Điều 22 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 quy định: “1. Trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và Hiến
pháp 2. Có phẩm chất đạo đức tốt, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư 3. Có trình độ văn hóa,
chuyên môn, có đủ năng lực, sức khỏe, kinh nghiệm công tác và uy tín để thực hiện nhiệm vụ đại biểu
Quốc hội. 4. Liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến của Nhân dân, được Nhân dân tín nhiệm.
5. Có điều kiện tham gia các hoạt động của Quốc hội”.
Số 2+3(402+403) - T1+2/202058 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
tộc, các Ủy ban của Quốc hội (đối với
ĐBQH chuyên trách Trung ương), lãnh đạo
sở ngành hoặc tương đương, lãnh đạo
HĐND, UBND cấp tỉnh trở lên (đối với
ĐBQH chuyên trách địa phương). Điều này
phù hợp với các quy định về công tác cán
bộ của Đảng9.
Thứ ba, nâng cao tỷ lệ ĐBQH hoạt
động chuyên trách (Điều 23)10.
Tác giả cho rằng, để tạo cơ sở và tiền
đề cho việc xây dựng Đề án bầu cử đại biểu
Quốc hội các khóa tiếp theo (cụ thể là bầu
cử Quốc hội khóa XV nhiệm kỳ 2021-2026),
cần nâng tỷ lệ hoạt động chuyên trách lên
mức cao hơn (trên 45%). Qua nghiên cứu tổ
chức và hoạt động của nghị viện các nước
cho thấy, đa số nghị viện các nước hoạt động
chuyên nghiệp, tất cả nghị sĩ là hoạt động
chuyên trách. Bên cạnh đa số nghị viện hoạt
động chuyên nghiệp, vẫn còn một số ít nghị
viện hoạt động chưa thường xuyên, đa số đại
biểu chưa phải là chính khách chuyên nghiệp
mà hoạt động kiêm nhiệm. Ví dụ: Lào, Việt
Nam, Trung Quốc
Thứ tư, về đánh giá hoạt động của
ĐBQH và chuyển sinh hoạt của ĐBQH
trong trường hợp chuyển công tác (Điều
38)11 và khoản 2 Điều 1 Dự thảo Luật sửa
đổi, bổ sung một số Điều của Luật Tổ chức
Quốc hội12.
Tác giả cho rằng, cần bổ sung quy
định về nhiệm vụ đánh giá hoạt động của
ĐBQH nói chung và đánh giá hoạt động của
ĐBQH chuyên trách nói riêng, tạo cơ sở cho
việc phối hợp giữa các cơ quan trong công
tác đánh giá hoạt động của ĐBQH.
Đối với ĐBQH chuyển công tác, tác
giả đề nghị giữ như quy định hiện hành: nếu
ĐBQH chuyển công tác đến tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương thì được chuyển sinh
hoạt đến Đoàn ĐBQH nơi mình nhận công
tác nhằm đáp ứng yêu cầu thực tế, tạo điều
kiện thuận lợi cho ĐBQH hoạt động và phù
hợp với công tác cán bộ của Đảng, Nhà nước.
Thứ năm, về địa vị pháp lý của Đoàn
ĐBQH (khoản 1 Điều 43)13.
Hiện nay, Luật Tổ chức Quốc hội chưa
quy định cụ thể địa vị pháp lý của Đoàn
ĐBQH. Luật Tổ chức chính quyền địa
phương cũng không quy định về vấn đề này.
Vì vậy, để làm rõ địa vị pháp lý, vai trò của
Đoàn ĐBQH trong hệ thống chính trị ở địa
phương, tác giả cho rằng, không nên xác
định Đoàn ĐBQH chỉ là hình thức tổ chức
hoạt động cho ĐBQH, cần xác định đây là
một cơ cấu của Quốc hội tại địa phương, là
cánh tay nối dài của Quốc hội ở địa phương.
Vì vậy, cần sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều
43 như sau: “Đoàn ĐBQH là tổ chức có tư
cách pháp nhân, có con dấu, có trụ sở và
kinh phí hoạt động do ngân sách nhà nước
bảo đảm theo quy định của pháp luật”. Bên
cạnh đó, để bảo đảm hiệu quả hoạt động của
Đoàn ĐBQH, mở rộng phạm vi hoạt động
của ĐBQH và khẳng định vị thế của Đoàn
ĐBQH, cần đổi tên gọi “Đoàn ĐBQH
tỉnh...” bằng “Đoàn ĐBQH tại tỉnh...”.
9 Hướng dẫn số 38-HD/BTCTW ngày 31/01/2016 của Ban Tổ chức Trung ương về hướng dẫn nhân sự
ĐBQH khóa XIV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021 quy định: “Người ứng cử làm ĐBQH
chuyên trách ở các cơ quan của Quốc hội và UBTVQH công tác ở cơ quan đảng, nhà nước, đoàn thể chính
trị - xã hội, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước ở Trung ương giữ chức cục trưởng, vụ trưởng hoặc
tương đương trở lên, nói chung có quy hoạch làm ĐBQH chuyên trách hoặc có quy hoạch chức danh Tổng
cục trưởng và tương đương trở lên... Người ứng cử ĐBQH làm phó trưởng đoàn chuyên trách ở địa phương
giữ chức giám đốc sở hoặc tương đương trở lên là tỉnh ủy viên, nói chung có quy hoạch một trong các
chức danh sau: ủy viên ban thường vụ tỉnh ủy, thành ủy, phó chủ tịch HĐND, phó chủ tịch UBND tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương hoặc tương đương trở lên”.
10 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014.
11 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014.
12 Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật Tổ chức Quốc hội kèm theo Tờ trình số 442/TTr-
UBTVQH14 ngày 26/9/2019 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
13 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014.
59Số 2+3(402+403) - T1+2/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
Thứ sáu, về việc thực hiện nhiệm vụ
của đại biểu Quốc hội.
Nhằm đảm bảo cho ĐBQH thực hiện
có hiệu quả nhiệm vụ được giao, tác giả cho
rằng, cần bổ sung quy định chặt chẽ hơn việc
thực hiện nhiệm vụ của ĐBQH; giao cho
Quốc hội hoặc UBTVQH thẩm quyền cho
thôi làm nhiệm vụ ĐBQH nếu Quốc hội
hoặc UBTVQH nhận thấy ĐBQH không thể
hoặc không có điều kiện thực hiện nhiệm vụ
của ĐBQH trong thời gian dài do nguyên
nhân ốm đau hoặc một số lý do bất khả
kháng khác mà không cần phải có đơn xin
thôi của ĐBQH. Ngoài ra, cần bổ sung quy
định về xử lý kỷ luật đối với ĐBQH và đại
biểu dân cử nói chung; bổ sung quy định
việc cho thôi, miễn nhiệm, bãi nhiệm đối với
ĐBQH là cán bộ, công chức (CBCC) bị xử
lý kỷ luật theo quy định của Luật CBCC theo
hướng, nếu bị kỷ luật từ hình thức cảnh cáo
trở lên thì bãi nhiệm; bổ sung quy định về
việc xử lý kỷ luật tương ứng đối với ĐBQH
không phải là CBCC; bổ sung quy định về
nguyên tắc việc cho thôi làm nhiệm vụ hoặc
miễn nhiệm chỉ áp dụng đối với trường hợp
vì lý do sức khỏe hoặc điều trị bệnh dài hạn,
có quyết định của cơ quan có thẩm quyền
điều động ra nước ngoài công tác dài hạn,
hoặc các lý do khác mà ĐBQH có đơn xin
thôi và không áp dụng cho thôi hoặc miễn
nhiệm đối với các trường hợp bị kỷ luật từ
cảnh cáo trở lên.
Thứ bảy, về phụ cấp và các chế độ
khác của ĐBQH (Điều 41)14.
Để bảo đảm sự thống nhất của hệ
thống pháp luật, tác giả cho rằng, cần sửa đổi
tên gọi của Điều 41 về phụ cấp và các chế
độ khác của ĐBQH15 thành tiền lương, phụ
cấp và các chế độ khác của ĐBQH; bổ sung
quy định theo hướng phân biệt rõ tiền lương,
phụ cấp chế độ khác của ĐBQH nói chung
và ĐBQH chuyên trách nói riêng. Theo đó,
tiền lương, phụ cấp và các chế độ khác của
ĐBQH chuyên trách và phụ cấp của ĐBQH
không hưởng lương từ ngân sách từ NSNN
do UBTVQH quy định.
Thứ tám, về trách nhiệm và quyền của
đại biểu Quốc hội (từ Điều 26 đến 37)16.
Để nâng cao chất lượng hoạt động của
Quốc hội, tác giả cho rằng, Dự thảo cần bổ
sung vào Điều 24 Luật Tổ chức Quốc hội
năm 2014 quy định ĐBQH chuyên trách họp
01 năm 02 lần trước các kỳ họp Quốc hội.
Bên cạnh đó, cần bổ sung quy định về trách
nhiệm và quyền của ĐBQH chuyên trách (từ
Điều 26 đến Điều 37)17.
Thứ chín, bổ sung quy định về thành
lập mới hai cơ quan của Quốc hội (Ban Tổ
chức Quốc hội và Ban Dân nguyện của
Quốc hội).
Ban Công tác đại biểu và Ban Dân
nguyện là 02 cơ quan thuộc UBTVQH được
thành lập từ năm 2003, qua 16 năm hình
thành và phát triển đã khẳng định được vai
trò, vị thế và trách nhiệm của mình trong
hoạt động của Quốc hội. Tuy nhiên, vị trí
pháp lý của 02 cơ quan này chưa được cụ thể
hóa trong Luật Tổ chức Quốc hội năm
201418. Tác giả cho rằng, Dự thảo Luật cần
cụ thể hóa Kết luận số 64-KL/TWngày
28/5/2013 của Hội nghị lần thứ bảy, Ban
Chấp hành Trung ương (khóa XI) “Một số
vấn đề về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ
thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở”
14 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014.
15 Điều 41 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 quy định về phụ cấp và các chế độ khác của ĐBQH quy định:
“1. Phụ cấp và các chế độ khác của ĐBQH chuyên trách, phụ cấp của ĐBQH không hưởng lương từ ngân
sách nhà nước do UBTVQH quy định...”.
16 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014.
17 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014.
18 Các cơ quan của Quốc hội và Văn phòng Quốc hội đã được quy định trong Luật Tổ chức Quốc hội năm
2014, Viện Nghiên cứu lập pháp cũng được quy định trong Luật Ban hành văn bản pháp luật năm 2015
(Nguồn: Văn bản số 744/BCTĐB-CTĐB ngày 24/9/2019 của Ban Công tác đại biểu về một số nội dung
trong dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật Tổ chức Quốc hội).
TàI lIệu ThAM khảo
1. Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung
ương (khóa XII) “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống
chính trị tin gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”.
2. Kết luận số 64-KL/TWngày 28/5/2013 của Hội nghị lần thứ bảyBan Chấp hành Trung ương
Đảng (khóa XI) “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung
ương đến cơ sở”.
3. Nam Bình (2010), Đại biểu chuyên trách, những vấn đề có vấn đề của hiện tại, phải giải
quyết ở hiện thực tương lai, truy cập ngày 26/12/2019.
4. Nguyễn Đức Lam (2002),Quốc hội Việt Nam những vấn đề lý luận và thực tiễn – Để tiến tới
chuyên nghiệp, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp tháng 6/2002.
5. Hoàng Văn Lợi, Điều kiện để đại biểu chuyên trách hoạt động hiệu quả,
truy cập ngày 26/12/2019.
6. Bùi Ngọc Thanh (2018), Mấy vấn đề về chính sách tiền lương với đại biểu Quốc hội hoạt
động chuyên trách, truy cập ngày 26/12/2019.
7. Huỳnh Thành Lập, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn để xác định địa vị pháp lý của Đoàn
đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách trong giai đoạn hiện nay,
truy cập ngày 26/12/2019.
8. Văn Duẩn, Nguyễn Hưởng, Kiến nghị tăng đại biểu Quốc hội chuyên trách,
https://nld.com.vn, truy cập ngày 26/12/2019.
Số 2+3(402+403) - T1+2/202060 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
(chuyển một số Ban của UBTVQH thành
Ban của Quốc hội và việc lập chức danh
Tổng Thư ký của Quốc hội). Việc bổ sung
02 cơ quan này là cơ quan do Quốc hội thành
lập nhằm nâng cao chất lượng tham mưu
giúp việc cho Quốc hội.
Cùng với việc nâng cấp 02 cơ quan,
cần điều chỉnh tên gọi của các cơ quan này
cho phù hợp với địa vị pháp lý mới. Cụ thể,
Ban Công tác đại biểu đổi thành Ban Tổ
chức Quốc hội, Ban Dân nguyện thành Ban
Dân nguyện của Quốc hội. Bên cạnh đó cần
bổ sung quy định về cơ cấu tổ chức, chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Ban Tổ chức
Quốc hội và Ban Dân nguyện của Quốc hội.
Thứ mười, bộ máy giúp việc cho Đoàn
đại biểu Quốc hội (khoản 4 Điều 43)19 và
kinh phí hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc
hội (Điều 99 và Điều 101)20.
Ngày 4/10/2014, UBTVQH đã ban
hành Nghị quyết số 580/2018/UBTVQH14
về việc thí điểm hợp nhất 03 Văn phòng tại
12 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
làm cơ sở cho việc tổng kết, xác định mô
hình phù hợp phục vụ việc sửa đổi nội dung
liên quan trong Luật Tổ chức Quốc hội và
Luật Tổ chức chính quyền địa phương. Để
bảo đảm yêu cầu về tiến độ đã nêu trong Kế
hoạch số 07-KH/TW của Trung ương, tạo cơ
sở pháp lý cho việc hợp nhất các Văn phòng
ở tất cả các tỉnh, thành phố trên cả nước, tác
giả cho rằng, Dự thảo Luật chỉ nên quy định
khái quát về bộ phận giúp việc cho Đoàn
ĐBQH ở các địa phương, không quy định
Văn phòng Đoàn ĐBQH với tính chất là một
đơn vị độc lập giúp việc cho Đoàn ĐBQH
như Luật hiện hành. Ngoài ra, nhằm đảm
bảo cho hoạt động của Đoàn ĐBQH các
tỉnh, thành phố, Dự thảo Luật cần tiếp tục
xác định Văn phòng Quốc hội đảm bảo kinh
phí hoạt động của Đoàn ĐBQH các tỉnh,
thành phố n
19 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014.
20 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014.
61Số 2+3(402+403) - T1+2/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
1. Người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp
Khoản 5 Điều 13 Dự thảo Luật1 quy
định: “Trừ trường hợp quy định tại khoản 6
Điều này, trường hợp doanh nghiệp chỉ có
một người đại diện theo pháp luật và người
này vắng mặt tại Việt Nam quá 30 ngày mà
không ủy quyền cho người khác thực hiện
các quyền và nghĩa vụ của người đại diện
theo pháp luật của doanh nghiệp hoặc bị
chết, mất tích, tạm giam, kết án tù, trốn khỏi
nơi cư trú, bị hạn chế hoặc mất năng lực
hành vi dân sự hoặc bị Tòa án tước quyền
hành nghề vì phạm tội buôn lậu, làm hàng
Hoàn tHiện DỰ tHẢo luẬt DoanH ngHiệp (sỬa đổi)
Đỗ Đức hồng hà*
lê Thị hương Giang**
* TS. Ủy viên thường trực Ủy ban Tư pháp của Quốc hội.
** ThS. Trường Cao đẳng Lào Cai.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Luật Doanh nghiệp; Người đại
diện theo pháp luật của doanh nghiệp;
con dấu của doanh nghiệp; xử lý vi
phạm.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 19/11/2019
Biên tập : 05/12/2019
Duyệt bài : 08/12/2019
Article Infomation:
Keywords: The Law on Enterprises;
legal representatives of enterprises; seal
of enterprises and handling of
violations.
Article History:
Received : 19 Nov. 2019
Edited : 05 Dec. 2019
Approved : 18 Dec. 2019
Tóm tắt:
Dự thảo Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) đã được Quốc hội khóa
XIV cho ý kiến. Tuy nhiên, để bảo đảm tính khả thi, tính thống
nhất trong hệ thống pháp luật, Dự thảo Luật cần được tiếp tục
chỉnh lý, sửa đổi một số quy định về người đại diện theo pháp
luật của doanh nghiệp; trách nhiệm của người đại diện theo
pháp luật của doanh nghiệp; con dấu của doanh nghiệp và xử
lý vi phạm.
Abstract:
The Law on Enterprises (amendments) was reviewed by the
Eighth Meeting Session of the National Assembly XIV.
However, in order to ensure the feasibility and consistency in
the legal system, the draft law needs to be further reviewed
and amended a number of provisions on the legal
representatives of enterprises; responsibilities of the legal
representative of the enterprise; the seal of the enterprise and
handling of violations.
1 Dự thảo Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) trình Quốc hội khóa XIV cho ý kiến tại kỳ họp thứ Tám, tháng 11/2019
(Dự thảo Luật).
Số 2+3(402+403) - T1+2/202062 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
giả, kinh doanh trái phép, trốn thuế, lừa dối
khách hàng và tội khác theo quy định của
Bộ luật Hình sự thì chủ sở hữu công ty, Hội
đồng thành viên, Hội đồng quản trị cử người
khác làm người đại diện theo pháp luật của
công ty”2.
Chúng tôi cho rằng, quy định tại khoản
5 Điều 13 Dự thảo Luật chưa rõ, chưa đầy
đủ, chưa thống nhất với Bộ luật Hình sự năm
2015 (BLHS), Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015 (Bộ luật TTHS), Luật Thi hành án hình
sự năm 2019 (Luật THAHS) ở các điểm sau:
Thứ nhất: quy định “người đại diện
theo pháp luật của doanh nghiệp bị kết án
tù hoặc bị Tòa án tước quyền hành nghề vì
phạm tội buôn lậu..., trốn thuế, lừa dối
khách hàng và tội khác” là chưa rõ. Bởi lẽ,
theo quy định của BLHS và Luật THAHS,
người bị kết án tù có thể là người đang chấp
hành án phạt tù; nhưng cũng có thể là người
được hưởng án treo, được tha tù trước thời
hạn có điều kiện, được hoãn hoặc tạm đình
chỉ chấp hành hình phạt tù. Bên cạnh đó,
BLHS xác định rất cụ thể các loại tội phạm
và không có quy định về “tội khác” Vì vậy,
Dự thảo Luật cần được chỉnh sửa, “người
đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp bị
kết án tù” là tất cả 05 trường hợp trên hay
chỉ là 01 trường hợp đang chấp hành án phạt
tù và “tội khác” ở đây là những tội gì để bảo
đảm tính cụ thể, minh bạch của pháp luật,
bảo đảm nhận thức và áp dụng thống nhất.
Thứ hai, quy định không thống nhất
so với quy định của các văn bản pháp luật
khác, cụ thể:
- Quy định “người đại diện theo pháp
luật của doanh nghiệp trốn khỏi nơi cư trú”
không thống nhất với Bộ luật TTHS. Bởi lẽ,
Bộ luật TTHS không quy định về trường hợp
“trốn khỏi nơi cư trú” mà quy định trường
hợp “đi khỏi nơi cư trú mà không được cơ
quan đã ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú cho
phép”;
- Quy định “người đại diện theo pháp
luật của doanh nghiệp bị tước quyền hành
nghề vì phạm tội buôn lậu, làm hàng giả,
kinh doanh trái phép” không thống nhất với
quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính
năm 2012 (Luật Xử lý VPHC), BLHS và Bộ
luật TTHS. Bởi lẽ, Luật Xử lý VPHC chỉ
quy định hình thức xử phạt là “Tước quyền
sử dụng giấy phép”; BLHS chỉ quy định
hình phạt bổ sung “cấm hành nghề hoặc làm
công việc nhất định”; Bộ luật TTHS cũng
không quy định “tước quyền hành nghề” là
biện pháp ngăn chặn. Bên cạnh đó, BLHS
đã bỏ tội “kinh doanh trái phép” và chỉ quy
định tội “sản xuất hàng giả”.
Vì vậy, Dự thảo Luật cần được chỉnh
sửa những quy định trên để bảo đảm sự
thống nhất trong hệ thống pháp luật.
Thứ ba, mâu thuẫn, bỏ sót và thu hẹp
phạm vi điều chỉnh của quy định có liên
quan trong Bộ luật TTHS, đó là:
- Đoạn 1, khoản 1 Điều 434 Bộ luật
TTHS về người đại diện theo pháp luật của
pháp nhân tham gia tố tụng quy định:
“Trường hợp người đại diện theo pháp luật
của pháp nhân bị khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử... thì pháp nhân phải cử người khác
làm người đại diện theo pháp luật của mình
tham gia tố tụng...”3. Tuy nhiên, theo quy
định tại khoản 5 Điều 13 Dự thảo Luật thì
dù người đại diện theo pháp luật của pháp
nhân đã bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
nhưng nếu họ không bị tạm giam, không bị
kết án tù, không trốn khỏi nơi cư trú hoặc
không bị Tòa án tước quyền hành nghề vì
phạm tội4 “thì chủ sở hữu công ty, Hội đồng
thành viên, Hội đồng quản trị (không phải)
2 Dự thảo Luật.
3 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
63Số 2+3(402+403) - T1+2/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
cử người khác làm người đại diện theo pháp
luật của công ty”5. Để bảo đảm tính thống
nhất của hệ thống pháp luật, khoản 5 Điều
13 Dự thảo Luật cần được sửa đổi cho phù
hợp với quy định của Bộ luật TTHS.
2. Về con dấu của doanh nghiệp
Khoản 1 Điều 44 Dự thảo Luật quy
định con dấu của doanh nghiệp như sau:
“Doanh nghiệp có quyền quyết định có
hoặc không có con dấu; quyết định số
lượng, hình thức và nội dung con dấu của
doanh nghiệp, dấu của chi nhánh, văn phòng
đại diện và đơn vị khác của doanh nghiệp.
Việc quản lý, sử dụng và lưu giữ con dấu
thực hiện theo quy định của Điều lệ công
ty hoặc quy chế do công ty, đơn vị khác của
doanh nghiệp ban hành”6. Quy định này là
mâu thuẫn với quy định về hình thức và nội
dung đơn khởi kiện tại khoản 3 Điều 189 Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015 (Bộ luật
TTDS): “Cơ quan, tổ chức là người khởi
kiện thì người đại diện hợp pháp của cơ
quan, tổ chức đó có thể tự mình hoặc nhờ
người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án...
trường hợp tổ chức khởi kiện là doanh
nghiệp thì việc sử dụng con dấu theo quy
định của Luật Doanh nghiệp”7 (tức là bắt
buộc doanh nghiệp phải có con dấu và phải
đóng dấu vào đơn khởi kiện).
Mặt khác, khoản 3 Điều 189 Bộ luật
TTDS còn quy định “việc sử dụng con dấu
theo quy định của Luật Doanh nghiệp”8.
Tuy nhiên, Dự thảo Luật lại không trực tiếp
quy định “việc sử dụng con dấu” mà chỉ quy
định gián tiếp “Việc... sử dụng... con dấu
thực hiện theo quy định của Điều lệ công
ty hoặc quy chế do công ty, đơn vị khác của
doanh nghiệp ban hành”9. Để bảo đảm tính
thống nhất của hệ thống pháp luật, Dự thảo
Luật cần được chỉnh sửa cho phù hợp với
quy định của Bộ luật TTDS.
3. Về xử lý vi phạm
Khoản 1 Điều 210 Dự thảo Luật quy
định: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân vi phạm quy
định của Luật này thì tùy theo tính chất và
mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt
vi phạm hành chính, trường hợp gây thiệt hại
thì phải bồi thường, cá nhân có thể bị truy
cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của
pháp luật”10. Quy định này đã bỏ sót trường
hợp xử lý doanh nghiệp là pháp nhân thương
mại. Theo quy định tại Điều 2 và Điều 76
BLHS, pháp nhân thương mại phạm tội phải
chịu trách nhiệm hình sự nếu phạm một hoặc
nhiều tội sau đây: Điều 188. Tội buôn lậu;
Điều 189. Tội vận chuyển trái phép hàng hóa,
tiền tệ qua biên giới; Điều 190. Tội sản xuất,
buôn bán hàng cấm; Điều 191. Tội tàng trữ,
vận chuyển hàng cấm; Điều 192. Tội sản
xuất, buôn bán hàng giả; Điều 193. Tội sản
xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực
phẩm, phụ gia thực phẩm; Điều 194. Tội sản
xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh,
thuốc phòng bệnh; Điều 195. Tội sản xuất,
buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn
nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực
vật, giống cây trồng, giống vật nuôi; Điều
196. Tội đầu cơ; Điều 200. Tội trốn thuế;
Điều 203. Tội in, phát hành, mua bán trái
phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách
nhà nước; Điều 209. Tội cố ý công bố thông
tin sai lệch hoặc che giấu thông tin trong hoạt
4 Dự thảo Luật.
5 Dự thảo Luật.
6 Dự thảo Luật.
7 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
8 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
9 Dự thảo Luật.
10 Dự thảo Luật.
Số 2+3(402+403) - T1+2/202064 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
động chứng khoán; Điều 210. Tội sử dụng
thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán;
Điều 211. Tội thao túng thị trường chứng
khoán; Điều 213. Tội gian lận trong kinh
doanh bảo hiểm; Điều 216. Tội trốn đóng bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất
nghiệp cho người lao động; Điều 217. Tội vi
phạm quy định về cạnh tranh; Điều 225. Tội
xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan;
Điều 226. Tội xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp; Điều 227. Tội vi phạm quy định về
nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên;
Điều 232. Tội vi phạm quy định về khai thác,
bảo vệ rừng và lâm sản; Điều 234. Tội vi
phạm quy định về bảo vệ động vật hoang dã;
Điều 235. Tội gây ô nhiễm môi trường; Điều
237. Tội vi phạm quy định về phòng ngừa,
ứng phó, khắc phục sự cố môi trường; Điều
238. Tội vi phạm quy định về bảo vệ an toàn
công trình thủy lợi, đê điều và phòng, chống
thiên tai; vi phạm quy định về bảo vệ bờ, bãi
sông; Điều 239. Tội đưa chất thải vào lãnh
thổ Việt Nam; Điều 242. Tội hủy hoại nguồn
lợi thủy sản; Điều 243. Tội hủy hoại rừng;
Điều 244. Tội vi phạm quy định về bảo vệ
động vật nguy cấp, quý, hiếm; Điều 245. Tội
vi phạm quy định về quản lý khu bảo tồn
thiên nhiên; Điều 246. Tội nhập khẩu, phát
tán các loài ngoại lai xâm hại; Điều 300. Tội
tài trợ khủng bố; Điều 324. Tội rửa tiền. Vì
vậy, cơ quan soạn thảo cần cân nhắc bổ sung
quy định tại khoản 1 Điều 210 Dự thảo Luật
theo hướng: Cơ quan, tổ chức, cá nhân vi
phạm quy định của Luật này thì tùy theo tính
chất và mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật,
xử phạt vi phạm hành chính, trường hợp gây
thiệt hại thì phải bồi thường, cá nhân hoặc
doanh nghiệp là pháp nhân thương mại có
thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy
định của pháp luật.
Trên đây là một số góp ý hoàn thiện
dự thảo Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) nhằm
bảo đảm tính minh bạch, rõ ràng và thống
nhất của hệ thống pháp luật n
cHÍnH sÁcH, pHÁp luẬt... (Tiếp theo trang 93)
TàI lIệu ThAM khảo
1. Vũ Thành (2012), Quản lý, sử dụng đất tại các nông, lâm trường quốc doanh,
https://www.nhandan.com.vn/kinhte/item/689302-.html, truy cập ngày 26/07/2019.
2. Việt Hùng, Hải Ngọc (2018 ), Phát huy nguồn lực đất đai để phát triển Tây Nguyên toàn
diện, bền vững – Trang thông tin Bộ TN&MT,
huy-nguon-luc-dat-dai-de-phat-trien-tay-nguyen-toan-dien,-ben-vung.aspx, truy cập ngày
08/12/2019.
3. Quang Huy (2014), Chuyển đổi các công ty lâm nghiệp ở Tây Nguyên: Còn nhiều bất
cập.https://baotintuc.vn/bao-giay/chuyen-doi-cac-cong-ty-lam-nghiep-o-tay-nguyen-con-
nhieu-bat-cap-20140313105831477.htm, truy cập ngày 3/9/2019.
4. Bất cập trong sắp xếp, đổi mới các công ty lâm nghiệp ở Tây Nguyên, https://www.thi-
ennhien.net/2013/01/18/bat-cap-trong-sap-xep-doi-moi-cac-cong-ty-lam-nghiep-o-tay-
nguyen/.
5. Anh Dũng – Ngọc Minh (2018), Hội nghị công tác quản lý, sử dụng đất đai tại 5 tỉnh
Tây Nguyên, https://dantocmiennui.vn/chinh-sach/hoi-nghi-cong-tac-quan-ly-su-dung-
dat-dai-tai-5-tinh-tay-nguyen/169774.html, truy cập ngày 6/12/2019.
6. Hội nghị Đánh giá thực trạng công tác quản lý, sử dụng đất đai tại 5 tỉnh Tây Nguyên
(Đắk Nông, 19/1/2018), https://dantocmiennui.vn/chinh-sach/hoi-nghi-cong-tac-quan-
ly-su-dung-dat-dai-tai-5-tinh-tay-nguyen/169774.html.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- gop_y_sua_doi_luat_to_chuc_quoc_hoi_nam_2014.pdf