Góp ý về trình tự, thủ tục tố cáo và giải quyết tố cáo trong dự thảo luật tố cáo (Sửa đổi)

“Điều 21. Rút tố cáo và hậu quả của việc rút tố cáo 1. Người tố cáo có thể rút tố cáo vào bất cứ thời điểm nào trong quá trình tố cáo và giải quyết tố cáo; 2. Khi có yêu cầu rút đơn tố cáo, người tố cáo phải gửi đơn rút tố cáo cho cơ quan, tổ chức đã thụ lý, giải quyết tố cáo. Đơn rút tố cáo phải ghi rõ ngày, tháng, năm rút tố cáo; họ, tên, địa chỉ của người rút tố cáo; lý do rút tố cáo. Đơn tố cáo phải do người tố cáo ký tên hoặc điểm chỉ; trường hợp rút đơn được thực hiện bằng miệng thì sau đó phải được thể hiện bằng văn bản có chữ ký hoặc điểm chỉ của người rút đơn; 3. Sau khi nhận được đơn xin rút tố cáo, người có thẩm quyền giải quyết tố cáo ra quyết định đình chỉ giải quyết tố cáo đối với người tố cáo và thông báo bằng văn bản cho người rút tố cáo và người bị tố cáo trước đây biết việc đình chỉ giải quyết tố cáo; 4. Trong trường hợp người tố cáo rút đơn tố cáo nhưng có căn cứ cho rằng vẫn có hành vi VPPL chưa được ngăn chặn và người vi phạm thuộc quyền quản lý chưa bị xử lý thì tiến hành kiểm tra, thanh tra theo chức năng, nhiệm vụ, quản lý của mình theo quy định của pháp luật. 5. Trường hợp có căn cứ cho rằng việc rút đơn tố cáo do người tố cáo bị đe dọa, ép buộc, mua chuộc thì người giải quyết tố cáo phải áp dụng các biện pháp để bảo vệ người tố cáo, xử lý nghiêm đối với người đe dọa, ép buộc người tố cáo, đồng thời phải xem xét, giải quyết tố cáo theo quy định của pháp luật. 6. Người rút tố cáo có thể chịu hậu quả sau đây: a) Người rút đơn không được trả lại hồ sơ tố cáo đã nộp cho cơ quan, tổ chức đã thụ lý và giải quyết tố cáo; b) Trường hợp người tố cáo lợi dụng quyền tố cáo để tố cáo trái pháp luật, vu cáo, vu khống, làm mất danh dự, nhân phẩm, xúc phạm người khác hoặc vì mục đích vụ lợi khác thì người rút tố cáo vẫn phải chịu trách nhiệm về những hậu quả do hành vi tố cáo trái pháp luật gây ra và bị xử lý theo quy định của pháp luật tùy theo tính chất, mức độ vi phạm”.

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 246 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Góp ý về trình tự, thủ tục tố cáo và giải quyết tố cáo trong dự thảo luật tố cáo (Sửa đổi), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
GOÙP YÙ VEÀ TRÌNH TÖÏ, THUÛ TUÏC TOÁ CAÙO VAØ GIAÛI QUYEÁT TOÁ CAÙO TRONG DÖÏ THAÛO LUAÄT TOÁ CAÙO (SÖÛA ÑOÅI) Trần Huy Liệu* Tóm tắt: Bài viết phân tích những bất cập về trình tự, thủ tục tố cáo và giải quyết tố cáo quy định trong trong dự thảo Luật Tố cáo (sửa đổi) và kiến nghị sửa đổi, bổ sung nhằm góp phần hoàn thiện dự thảo Luật1. Abstract: This article provides analysis the inadequacies of the procedure, the denunciations and the settlement of denunciations as set out in the Bill on Denunciation (amended) and recommendations for amendments and supplements to improve the Bill. Thông tin bài viết: Từ khóa: tố cáo; trình tự, thủ tục tố cáo; giải quyết tố cáo; Luật Tố cáo. Lịch sử bài viết Nhận bài: 04/05/2017 Biên tập: 11/05/2017 Duyệt bài: 18/05/2017 Article Infomation: Keywords: Denunciations, Denunciation Procedure, Denunciation Settlement, Law on Denunciation Article History: Received: 04 May 2007 Edited: 11 May 2007 Appproved: 18 May 2007 Cũng như bất kỳ một hoạt động nào khác, giải quyết tố cáo được thực hiện bằng một loạt các hoạt động nối tiếp nhau theo một trình tự, thủ tục nhất định. Mỗi loại hình hoạt động giải quyết tố cáo có một trình tự, thủ tục riêng, nhưng chúng cũng có những thủ tục chung. Cụ thể, thực hiện bất kỳ hình thức tố cáo và giải quyết tố cáo nào đều phải tuân theo quy trình: tố cáo - thụ lý (tiếp nhận hồ sơ tố cáo) - phân công người xác minh nội dung tố cáo - giải quyết tố cáo - xử lý vi phạm pháp luật (VPPL) - lập và lưu trữ hồ sơ giải quyết tố cáo. Như vậy, trình tự, thủ tục tố cáo và giải quyết tố cáo là tổng thể các hoạt động mang tính thủ tục được thực hiện liên tục, kế tiếp nhau trong quá trình thực hiện tố cáo và giải quyết tố cáo, trong phạm vi không gian, thời gian với những điều kiện, thứ tự xác định, bắt đầu từ khi người tố cáo yêu cầu cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền giải quyết tố cáo và kết thúc khi yêu cầu đó được đáp ứng. 1. Tên gọi của Chương III, IV và Mục II Chương III dự thảo Luật Tố cáo (sửa đổi) Tên của Chương III với tiêu đề: "Giải quyết tố cáo...". Tuy nhiên, nội dung của Mục II Chương III lại bao hàm một số quy định về hoạt động tố cáo, thủ tục thực hiện quyền tố cáo của người tố cáo như: hình 1 Bài viết góp ý cho Dự thảo cuối cùng lấy ý kiến thẩm tra của Ủy ban Pháp luật của Quốc hội và trình Quốc hội cho ý kiến trong Kỳ họp thứ ba Quốc hội khóa XIV, khai mạc ngày 22/5/2017 và dự kiến bế mạc vào ngày 20/6/2017. * TS, LS. Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội. BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT 26 Số 11(339) T6/2017 thức tố cáo, rút tố cáo, tố cáo tiếp... là chưa phù hợp với tên gọi của Chương. Bên cạnh đó, cách thể hiện nội dung của Mục II chưa logic và khoa học, bởi lẽ, hoạt động tố cáo, hình thức tố cáo, rút tố cáo, tố cáo tiếp... là quyền của người tố cáo, do người tố cáo thực hiện, là cơ sở, tiền đề để cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố cáo, chứ không thuộc phạm vi hoạt động giải quyết tố cáo của người có thẩm quyền. Để bảo đảm tính logic và khoa học, chúng tôi cho rằng, hoặc là phải thiết kế một chương riêng quy định về hoạt động tố cáo, trong đó quy định cụ thể về căn cứ tố cáo; hình thức tố cáo; trình tự, thủ tục tố cáo lần đầu; căn cứ, trình tự, thủ tục tố cáo tiếp theo; rút tố cáo; hoặc sửa lại tên Chương III, IV theo hướng thêm cụm từ "tố cáo và" vào trước cụm từ "giải quyết tố cáo..." và sửa tên Mục II Chương III thành "Trình tự, thủ tục tố cáo và giải quyết tố cáo" cho phù hợp. 2. Hình thức tố cáo (Điều 20 dự thảo Luật) Quy định của Điều 20 dự thảo Luật còn có điểm bất cập sau đây: Thứ nhất, khoản 1 Điều 20 quy định hai hình thức tố cáo “bằng đơn và trực tiếp”; khoản 3 quy định: người tố cáo trực tiếp đến cơ quan có thẩm quyền tố cáo sẽ được hướng dẫn viết đơn hoặc trình bày để người tiếp nhận ghi lại nội dung tố cáo. Cách thể hiện này có sự nhầm lẫn giữa hình thức tố cáo và cách thức thực hiện tố cáo... Bởi lẽ, đơn tố cáo là loại hình văn bản do người tố cáo viết dù ở bất kỳ đâu, ở nhà, ở cơ quan làm việc hay trực tiếp ở cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố cáo, hoặc nhờ người khác viết hộ... suy cho cùng đều là hình thức tố cáo bằng văn bản (bằng đơn). Trường hợp người tố cáo không viết đơn hoặc không thể viết đơn (do không biết chữ hoặc bệnh tật), trực tiếp đến cơ quan có thẩm quyền trình bày (bằng miệng) nội dung tố cáo để người tiếp nhận vụ việc tố cáo ghi lại thường được gọi là hình thức tố cáo bằng miệng (bằng lời nói). Mặt khác, theo quan niệm chung, “trực tiếp” đến cơ quan có thẩm quyền nộp đơn hoặc viết đơn tố cáo hoặc “gián tiếp” gửi đơn tố cáo thông qua bưu chính, thư điện tử hay fax; qua điện thoại... là phương thức, cách thức thực hiện tố cáo, chứ không phải là hình thức tố cáo. Vì vậy, không thể coi việc người tố cáo thực hiện tố cáo bằng cách trực tiếp đến cơ quan có thẩm quyền viết đơn hoặc trình bày nội dung tố cáo là một loại hình tố cáo trực tiếp được. Về mặt hình thức thì hình thức tố cáo cơ bản cũng giống như hình thức hợp đồng dân sự hay hình thức của di chúc được Bộ luật Dân sự điều chỉnh, trong đó quy định có hai loại hình thức là văn bản và bằng lời nói. Để bảo đảm tính đồng bộ với Bộ luật Dân sự, khoản 1 Điều 20 cần sửa lại theo hướng quy định có hai hình thức tố cáo là tố cáo bằng văn bản (đơn tố cáo) và tố cáo bằng miệng (bằng lời nói). Thứ hai, nội dung Điều 20 dự thảo Luật chỉ quy định chung chung, chủ yếu là giải thích thế nào là hình thức tố cáo bằng đơn (khoản 2) và thế nào là tố cáo trực tiếp (khoản 3), mà không quy định rõ ràng, cụ thể trình tự, thủ tục tố cáo, cách xử sự của người tố cáo. Để tạo điều kiện thuận lợi cho người tố cáo, cần bổ sung quy định cụ thể về trình tự, thủ tục tố cáo (hồ sơ tố cáo gồm các loại giấy tờ gì..); phải nộp hồ sơ tố cáo cho ai... để người tố cáo biết phải làm gì và làm như thế nào khi thực hiện quyền tố cáo của mình. Thứ ba, Điều 20 dự thảo Luật chưa tạo điều kiện thuận lợi cho người dân thực hiện quyền tố cáo do không quy định phương thức, cách thức thực hiện tố cáo để người tố cáo biết, lựa chọn để thực hiện tố cáo có hiệu quả, phù hợp với điều kiện, khả năng của mình. Để thực hiện quyền tố cáo, người tố cáo có quyền lựa chọn các phương thức, phương tiện khác nhau để chuyển tải đơn tố cáo, nội dung tố cáo đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố cáo. Họ có thể hoặc tự mình trực tiếp đến nộp đơn tố cáo (văn bản) hoặc trình bày nội dung tố cáo bằng miệng cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố cáo hoặc gửi đơn tố cáo gián tiếp qua đường bưu điện hoặc qua thư điện tử và fax hoặc tố cáo bằng miệng thông qua điện thoại hoặc BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT 27Số 11(339) T6/2017 băng ghi âm... Việc gửi đơn tố cáo, nội dung tố cáo gián tiếp thông qua đường bưu điện, thư điện tử và fax hoặc thông qua điện thoại, băng ghi âm... là phương thức, phương tiện thực hiện tố cáo thuận lợi và tiết kiệm nhất cho người tố cáo. Vì vậy, cần bổ sung vào Điều 20 dự thảo Luật các phương thức thực hiện tố cáo trên đây. Thứ tư, khoản 2 Điều 20 quy định người tố cáo phải ký tên trực tiếp vào đơn là chưa hợp lý bởi những lý do sau: - Thuật ngữ “trực tiếp” ký tên được hiểu ở theo hai nghĩa: thứ nhất, nếu hiểu ký tên trực tiếp là việc người tố cáo trực tiếp ký tên vào đơn trước mặt người tiếp nhận đơn tố cáo thì rất không khả thi, không phù hợp với thực tiễn, làm vô hiệu hóa phương thức gửi đơn tố cáo gián tiếp qua đường bưu điện, qua thư điện tử hoặc fax, qua điện thoại...; thứ hai, nếu hiểu ký tên trực tiếp là chữ ký gốc, hoặc đơn có chữ ký gốc (còn gọi là bản chính) thì cần quy định rõ là đơn tố cáo bản chính hoặc đơn tố cáo có chữ ký gốc. Tuy nhiên, cách hiểu này cũng gây khó khăn, hạn chế quyền tố cáo của người dân khi người dân thực hiện tố cáo thông qua thư điện tử hoặc fax... Để tạo điều kiện thuận lợi cho người tố cáo, khoản 2 Điều 20 dự thảo Luật cần quy định “đơn tố cáo phải do người tố cáo ký tên hoặc điểm chỉ”. Với những phân tích nêu trên, chúng tôi đề nghị Điều 20 dự thảo luật nên được viết lại như sau: “Điều 20. Hình thức, thủ tục tố cáo 1.Việc tố cáo được thực hiện bằng văn bản (đơn tố cáo) hoặc tố cáo bằng miệng (bằng lời nói); 2. Khi thực hiện quyền tố cáo, người tố cáo phải nộp cho cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền giải quyết tố cáo 01 bộ hồ sơ gồm: Đơn tố cáo và các giấy tờ, tài liệu, bằng chứng có liên quan đến vụ việc tố cáo (nếu có). Đơn tố cáo phải ghi rõ ngày, tháng, năm tố cáo; họ, tên, địa chỉ của người tố cáo; họ, tên, địa chỉ của người bị tố cáo; nội dung tố cáo về các hành vi VPPL, về người vi phạm. Đơn tố cáo phải do người tố cáo ký tên hoặc điểm chỉ. Trường hợp nhiều người cùng tố cáo chung một đơn thì trong đơn phải ghi rõ họ, tên, địa chỉ của từng người tố cáo, có chữ ký hoặc điểm chỉ của những người tố cáo; họ, tên người đại diện cho những người tố cáo để phối hợp khi có yêu cầu của người giải quyết tố cáo. Hồ sơ tố cáo được nộp trực tiếp tại trụ sở của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết tố cáo hoặc gửi qua dịch vụ bưu chính hoặc qua thư điện tử, fax hoặc các phương thức khác. 3. Trường hợp người tố cáo không thể tự mình viết đơn tố cáo hoặc tố cáo bằng miệng trực tiếp thì người tố cáo phải trình bày rõ ràng với người tiếp nhận tố cáo về họ, tên, địa chỉ của mình, những thông tin, nội dung tố cáo ghi trong đơn tố cáo theo quy định tại khoản 2 Điều này để người tiếp nhận tố cáo ghi lại và cung cấp những tài liệu, bằng chứng, chứng cứ chứng minh hành vi VPPL của người bị tố cáo cho cơ quan có thẩm quyền”. 3. Tiếp nhận, xử lý ban đầu thông tin tố cáo Điều 22 dự thảo Luật có những bất cập sau đây: Thứ nhất, dự thảo Luật chưa quy định rõ trình tự, thủ tục để thụ lý vụ việc tố cáo, cụ thể là chưa quy định rõ người được giao tiếp nhận vụ việc tố cáo phải làm gì và làm như thế nào, với thủ tục gì cho phù hợp với từng loại hình tố cáo (tố cáo bằng văn bản và tố cáo bằng miệng) và phù hợp với phương thức thực hiện tố cáo (gửi hồ sơ tố cáo trực tiếp hoặc gián tiếp qua bưu điện, thư điện tử, fax...), nên chưa tạo khuôn khổ pháp lý thuận lợi cho người dân thực hiện quyền tố cáo của mình; Thứ hai, quy định thời hạn 10 - 15 ngày (điểm a khoản 1) để xem xét quyết định thụ lý hay không thụ lý vụ việc tố cáo là quá quan liêu, không phù hợp với nền hành chính hiện đại và Chính phủ kiến tạo, phục vụ nhân dân. Chúng tôi cho rằng, Luật Tố cáo không BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT 28 Số 11(339) T6/2017 cần quy định thời hạn thụ lý hay không thụ lý vụ việc tố cáo mà cần quy định cụ thể những điều kiện cần và đủ để vụ việc tố cáo được thụ lý. Sau khi kiểm tra, xem xét vụ việc tố cáo, nếu vụ việc tố cáo đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định thì phải thụ lý ngay; trường hợp vụ việc tố cáo không đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định thì có hai phương án: 1) Trường hợp vụ việc tố cáo chỉ thiếu một vài thông tin, điều kiện có thể bổ sung được thì yêu cầu, hướng dẫn người tố cáo bổ sung các điều kiện còn thiếu. Thời gian chờ bổ sung điều kiện không coi là thời hạn chờ thụ lý và đương nhiên không tính vào thời gian giải quyết tố cáo; 2) Trường hợp vụ việc tố cáo không đáp ứng đầy đủ các điều kiện hoặc không thể bổ sung các điều kiện còn thiếu thì không thụ lý hoặc từ chối thụ lý. Thứ ba, điểm a khoản 2 Điều 22 quy định không thụ lý đối với “tố cáo về vụ việc đã được người có thẩm quyền giải quyết mà người tố cáo không cung cấp thông tin, tình tiết mới” là chưa phù hợp với quy định của Điều 29 dự thảo Luật. Bởi lẽ, Điều 29 quy định, trong những trường hợp nhất định, người tố cáo vẫn có quyền tố cáo tiếp với người đứng đầu cơ quan cấp trên trực tiếp của người đã giải quyết tố cáo để được giải quyết lại, nhằm chấm dứt hành vi VPPL. - Điểm c khoản 2 bổ sung quy định “Tố cáo xuất phát từ vụ việc khiếu nại đã được giải quyết đúng chính sách, pháp luật, người khiếu nại không đồng ý, chuyển sang tố cáo đối với người giải quyết khiếu nại nhưng không cung cấp được thông tin, tài liệu, bằng chứng để chứng minh cho nội dung tố cáo của mình” là không hợp lý. Bởi lẽ, bất kỳ một vụ việc tố cáo nào nếu người tố cáo không cung cấp được thông tin, tài liệu, bằng chứng để chứng minh cho nội dung tố cáo của mình thì cũng bị từ chối hoặc vụ việc không được thụ lý. Trường hợp người giải quyết khiếu nại VPPL, xâm phạm quyền và lợi ích của Nhà nước, tổ chức, cá nhân khác (không trực tiếp liên quan đến người khiếu nại) thì vẫn bị người tố cáo (là người khiếu nại trước đây) tố cáo hành vi VPPL đó. Đây là hai thủ tục khác nhau, không thể coi là chuyển từ khiếu nại sang tố cáo. - Điểm b và c khoản 2 có nội dung trùng lặp với đoạn cuối điểm a khoản 1, đều quy định: không xác định được người vi phạm, hành vi VPPL (điểm b khoản 2); không cung cấp được thông tin, tài liệu, bằng chứng để chứng minh cho nội dung tố cáo (điểm c khoản 2). Để khắc phục những bất cập nêu trên, cần viết lại khoản 2 như sau: “Trong trường hợp hồ sơ tố cáo không đủ điều kiện để thụ lý theo quy định của Luật này (có thể dẫn chiếu điều khoản cụ thể): không xác định được họ, tên, địa chỉ của người vi phạm hoặc nội dung tố cáo không rõ về hành vi VPPL, thiếu các thông tin, tài liệu, bằng chứng chứng minh hành vi vi phạm, người vi phạm thì người tiếp nhận hồ sơ tố cáo được từ chối thụ lý và thông báo rõ lý do bằng văn bản cho người tố cáo biết hoặc trình người có thẩm quyền quyết định không thụ lý, lưu hồ sơ tố cáo và có thể sử dụng các thông tin phục vụ cho yêu cầu quản lý”. Thứ tư, đoạn cuối khoản 1 Điều 22 quy định: “Trong trường hợp không xác định được danh tính, địa chỉ của người tố cáo (tố cáo nặc danh) hoặc,... thì người nhận đơn tố cáo trình người có thẩm quyền lưu đơn và lưu trữ thông tin phục vụ cho yêu cầu quản lý”. Quy định này có thể hiểu là trường hợp không biết được họ, tên, địa chỉ của người tố cáo thì không thụ lý vụ việc tố cáo. Chúng tôi cho rằng, cách thể hiện như trên là chưa thuyết phục, bởi lẽ: - Quan niệm tố cáo nặc danh chỉ đúng trong trường hợp người tố cáo không cung cấp đầy đủ tất cả các thông tin, tài liệu, bằng chứng chứng minh hành vi vi phạm và người vi phạm và có cơ sở thẩm tra, xác minh, vụ việc. Ngược lại, quan niệm đó không đúng trong trường hợp người tố cáo đã cung cấp đầy đủ tất cả các thông tin, tài liệu, bằng chứng chứng minh hành vi vi phạm và người vi phạm, có cơ sở thẩm tra, xác minh, vụ việc. Trong trường hợp này, việc biết danh tính hay không biết danh tính người tố cáo không quan trọng nữa, bởi người có thẩm quyền giải quyết tố cáo thậm chí không cần BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT 29Số 11(339) T6/2017 phải làm việc thêm với người tố cáo. Như vậy, tố cáo nặc danh trong trường hợp này sẽ không gây khó khăn cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết, mà ngược lại còn tạo điều kiện thuận lợi và tiết kiệm tiền của cho cơ quan nhà nước vì không phải áp dụng biện pháp bảo vệ người tố cáo. - Quy định không thụ lý tố cáo nặc danh chỉ vì không biết được họ, tên, địa chỉ của người tố cáo là không phù hợp với thực tiễn, bởi trong bối cảnh hiện nay, không ít trường hợp người tố cáo bị trả thù, bị trù dập, chưa có cơ chế bảo vệ người tố cáo hiệu quả nên người tố cáo không muốn tiết lộ danh tính của mình. Ở đây, vấn đề đáng quan tâm là nội dung tố cáo, người tố cáo có cung cấp đầy đủ tất cả các thông tin, tài liệu, bằng chứng, chứng cứ chứng minh hành vi VPPL và người vi phạm; có cơ sở thẩm tra, xác minh, vụ việc hay không. Trường hợp người tố cáo cung cấp đầy đủ tất cả các thông tin, tài liệu, bằng chứng, chứng cứ chứng minh hành vi VPPL và người vi phạm; có cơ sở thẩm tra, xác minh, vụ việc và vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết thì vẫn phải thụ lý, giải quyết. Để kịp thời phát hiện và xử lý đối với các hành vi VPPL, cần quy định mềm mỏng hơn trong trường hợp tố cáo qua bưu chính, thư điện tử, fax hoặc đơn tố cáo nặc danh, không xác định được họ tên, địa chỉ của người tố cáo nhưng nội dung tố cáo có đầy đủ thông tin về người vi phạm, hành vi VPPL, có thông tin, tài liệu, bằng chứng chứng minh hành vi VPPL, có cơ sở thẩm tra, xác minh, vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của thủ trưởng cơ quan quản lý cùng cấp thì người tiếp nhận vẫn thụ lý vụ việc tố cáo và trình thủ trưởng cơ quan quản lý quyết định việc xem xét, giải quyết hoặc sử dụng phục vụ cho công tác quản lý, kiểm tra, thanh tra. Thứ năm, khoản 3 Điều 22 dự thảo Luật quy định: Trong quá trình tiếp nhận, xử lý thông tin tố cáo, nếu xét thấy hành vi bị tố cáo có dấu hiệu tội phạm thì chuyển hồ sơ, tài liệu tố cáo cho cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát để xử lý theo quy định của pháp luật. Quy định này bỏ sót trách nhiệm của cơ quan, tổ chức nhận được tố cáo đối với người bị tố cáo có hành vi VPPL thuộc quyền quản lý. Vì vậy, cần bổ sung vào khoản 3 quy định: Trường hợp người bị tố cáo, hành vi VPPL thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan, tổ chức nhận được hồ sơ tố cáo thì phải sao chụp lại một bộ hồ sơ tố cáo để xem xét, giải quyết theo chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước của mình và phối hợp với cơ quan tiến hành tố tụng xác minh, làm rõ hành vi VPPL của người vi phạm. Với những phân tích nêu trên, Điều 22 nên được viết lại như sau: ”Điều 22. Thủ tục tiếp nhận và xử lý đơn tố cáo (thụ lý vụ việc tố cáo) 1. Người tiếp nhận hồ sơ tố cáo do người tố cáo nộp trực tiếp tại bộ phận tiếp dân hoặc gửi qua bưu chính hoặc gửi thư điện tử trực tuyến qua Cổng thông tin điện tử của cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố cáo phải kiểm tra, xác minh họ, tên, địa chỉ của người tố cáo, trực tiếp làm việc với người tố cáo để làm rõ nội dung tố cáo, các thông tin, tài liệu, bằng chứng về hành vi VPPL. Trường hợp nội dung đơn tố cáo có thông tin rõ về người tố cáo, người vi phạm, hành vi VPPL, có đủ thông tin, tài liệu, bằng chứng chứng minh hành vi VPPL và vụ việc tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của Thủ trưởng cơ quan quản lý cùng cấp thì người tiếp nhận hồ sơ tố cáo phải thụ lý ngay, ghi vào Sổ thụ lý và trình Thủ trưởng cơ quan quản lý quyết định việc xem xét, giải quyết tố cáo; 2. Trường hợp người tố cáo trực tiếp đến cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết nhưng thiếu đơn tố cáo thì người tiếp nhận có trách nhiệm phát mẫu tờ đơn và hướng dẫn người tố cáo hoặc đại diện của những người tố cáo điền vào mẫu đơn những nội dung đơn quy định tại khoản 2 Điều 20 Luật này (theo hướng sửa trên đây) và ký hoặc điểm chỉ vào đơn tố cáo. 3. Trường hợp người tố cáo không thể tự mình viết đơn hoặc tố cáo bằng miệng thì người tiếp nhận có trách nhiệm ghi các BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT 30 Số 11(339) T6/2017 thông tin, nội dung tố cáo vào mẫu đơn, để họ tự đọc hoặc đọc lại cho họ nghe và yêu cầu họ ký tên hoặc điểm chỉ vào đơn. Trường hợp tố cáo bằng điện thoại thì người tiếp nhận tố cáo có trách nhiệm ghi âm lại lời trình bày của người tố cáo về những nội dung tố cáo quy định tại khoản 2 Điều 20 Luật này (theo hướng sửa trên đây), vào sổ theo dõi, đồng thời hướng dẫn người tố cáo viết đơn theo quy định và thu thập chứng cứ, tài liệu có liên quan đến vụ việc tố cáo gửi cho cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết tố cáo. 4. Trong trường hợp hồ sơ tố cáo còn thiếu một số thông tin về người bị tố cáo hoặc nội dung tố cáo chưa rõ hành vi vi phạm; thiếu thông tin, tài liệu, bằng chứng chứng minh về hành vi vi phạm, người vi phạm thì người tiếp nhận đơn tố cáo phải trao đổi, hướng dẫn người tố cáo cung cấp bổ sung các thông tin, tài liệu có liên quan đến vụ việc tố cáo để thụ lý vụ việc tố cáo. Thời gian thụ lý vụ việc tố cáo tính từ khi nhận đủ các thông tin, tài liệu, bằng chứng... yêu cầu bổ sung; 5. Trường hợp tố cáo qua bưu chính, thư điện tử, fax hoặc qua điện thoại, hoặc đơn tố cáo nặc danh, không xác định được họ tên, địa chỉ của người tố cáo nhưng nội dung tố cáo có đầy đủ thông tin về người vi phạm, hành vi VPPL, có thông tin, tài liệu, bằng chứng chứng minh hành vi VPPL, có cơ sở thẩm tra, xác minh, vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Thủ trưởng cơ quan quản lý cùng cấp thì người tiếp nhận vẫn thụ lý đơn tố cáo và trình Thủ trưởng cơ quan quản lý quyết định việc xem xét, giải quyết hoặc sử dụng phục vụ cho công tác quản lý, kiểm tra, thanh tra. 6. Trong trường hợp hồ sơ tố cáo không đủ điều kiện để thụ lý theo quy định tại các khoản 1 và 5 Điều này, không xác định được họ, tên, địa chỉ của người vi phạm; nội dung tố cáo không rõ hành vi VPPL, thiếu các các thông tin, tài liệu, bằng chứng chứng minh hành vi vi phạm, người vi phạm thì người tiếp nhận hồ sơ tố cáo được từ chối thụ lý và thông báo rõ lý do bằng văn bản cho người tố cáo biết (trường hợp trực tiếp nhận hồ sơ tố cáo từ người tố cáo) và trình người có thẩm quyền quyết định lưu đơn và lưu trữ thông tin phục vụ cho yêu cầu quản lý. 7. Trường hợp người tố cáo đến tố cáo trực tiếp tại trụ sở cơ quan, nhưng xác định rằng vụ việc tố cáo không thuộc thẩm quyền giải quyết của Thủ trưởng cơ quan quản lý cùng cấp thì người tiếp nhận tố cáo hướng dẫn người tố cáo gửi hồ sơ tố cáo đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết. Đối với vụ việc tố cáo gửi qua bưu điện hoặc qua thư điện tử hoặc fax không thuộc thẩm quyền giải quyết của Thủ trưởng cơ quan quản lý cùng cấp thì trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn tố cáo, người được giao tiếp nhận tố cáo phải trình Thủ trưởng cơ quan quản lý cùng cấp ra quyết định bằng văn bản chuyển đơn tố cáo và tài liệu có liên quan cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết và thông báo cho người tố cáo biết. Trường hợp đơn tố cáo không thuộc thẩm quyền giải quyết của Thủ trưởng cơ quan quản lý cùng cấp mà đơn được gửi cho nhiều cơ quan, tổ chức trong đó có cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết thì người tiếp nhận không chuyển đơn mà lưu đơn, theo dõi. 8. Trong quá trình tiếp nhận, xử lý thông tin tố cáo, nếu xét thấy hành vi bị tố cáo có dấu hiệu tội phạm thì cơ quan, tổ chức nhận được tố cáo có trách nhiệm ra văn bản chuyển hồ sơ, tài liệu và những thông tin về vụ việc tố cáo đó cho cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền để xử lý theo quy định của pháp luật. Trường hợp người bị tố cáo, hành vi VPPL thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan, tổ chức nhận được hồ sơ tố cáo thì phải sao chụp lại một bộ hồ sơ tố cáo để xem xét, giải quyết theo chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước của mình và phối hợp với cơ quan tiến hành tố tụng xác minh, làm rõ hành vi VPPL của người vi phạm. 9. Trường hợp hành vi bị tố cáo có thể gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, của tập thể, tính mạng, tài sản của công dân nếu không được BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT 31Số 11(339) T6/2017 ngăn chặn ngay, thì cơ quan, tổ chức nhận được tố cáo phải áp dụng biện pháp cần thiết theo thẩm quyền hoặc báo ngay cho cơ quan công an, cơ quan khác có trách nhiệm ngăn chặn kịp thời hành vi vi phạm. 4. Rút tố cáo (Điều 21) Điều 21 bổ sung quyền rút tố cáo của người tố cáo. Người tố cáo thực hiện quyền rút đơn theo ý chí của mình. Tuy nhiên, cách thể hiện nội dung của Điều 21 chưa rõ ràng. Để bảo đảm cho người tố cáo thực hiện được quyền rút tố cáo, cần quy định rõ quy tắc xử sự và thủ tục mà người tố cáo và người giải quyết tố cáo phải làm khi người tố cáo thực hiện quyền rút tố cáo, đồng thời quy định rõ hậu quả của việc rút tố cáo. Việc rút tố cáo không làm ảnh hưởng đến hậu quả do việc tố cáo gây ra, nghĩa là mặc dù người tố cáo rút tố cáo, nhưng người tố cáo lợi dụng quyền tố cáo để tố cáo trái pháp luật, vu cáo, vu khống, làm mất danh dự, nhân phẩm, xúc phạm người khác hoặc vì mục đích vụ lợi khác thì vẫn bị xử lý theo quy định pháp luật, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm. Với phân tích trên đây, cần đổi tên và viết lại Điều 21 như sau: “Điều 21. Rút tố cáo và hậu quả của việc rút tố cáo 1. Người tố cáo có thể rút tố cáo vào bất cứ thời điểm nào trong quá trình tố cáo và giải quyết tố cáo; 2. Khi có yêu cầu rút đơn tố cáo, người tố cáo phải gửi đơn rút tố cáo cho cơ quan, tổ chức đã thụ lý, giải quyết tố cáo. Đơn rút tố cáo phải ghi rõ ngày, tháng, năm rút tố cáo; họ, tên, địa chỉ của người rút tố cáo; lý do rút tố cáo. Đơn tố cáo phải do người tố cáo ký tên hoặc điểm chỉ; trường hợp rút đơn được thực hiện bằng miệng thì sau đó phải được thể hiện bằng văn bản có chữ ký hoặc điểm chỉ của người rút đơn; 3. Sau khi nhận được đơn xin rút tố cáo, người có thẩm quyền giải quyết tố cáo ra quyết định đình chỉ giải quyết tố cáo đối với người tố cáo và thông báo bằng văn bản cho người rút tố cáo và người bị tố cáo trước đây biết việc đình chỉ giải quyết tố cáo; 4. Trong trường hợp người tố cáo rút đơn tố cáo nhưng có căn cứ cho rằng vẫn có hành vi VPPL chưa được ngăn chặn và người vi phạm thuộc quyền quản lý chưa bị xử lý thì tiến hành kiểm tra, thanh tra theo chức năng, nhiệm vụ, quản lý của mình theo quy định của pháp luật. 5. Trường hợp có căn cứ cho rằng việc rút đơn tố cáo do người tố cáo bị đe dọa, ép buộc, mua chuộc thì người giải quyết tố cáo phải áp dụng các biện pháp để bảo vệ người tố cáo, xử lý nghiêm đối với người đe dọa, ép buộc người tố cáo, đồng thời phải xem xét, giải quyết tố cáo theo quy định của pháp luật. 6. Người rút tố cáo có thể chịu hậu quả sau đây: a) Người rút đơn không được trả lại hồ sơ tố cáo đã nộp cho cơ quan, tổ chức đã thụ lý và giải quyết tố cáo; b) Trường hợp người tố cáo lợi dụng quyền tố cáo để tố cáo trái pháp luật, vu cáo, vu khống, làm mất danh dự, nhân phẩm, xúc phạm người khác hoặc vì mục đích vụ lợi khác thì người rút tố cáo vẫn phải chịu trách nhiệm về những hậu quả do hành vi tố cáo trái pháp luật gây ra và bị xử lý theo quy định của pháp luật tùy theo tính chất, mức độ vi phạm”. 5. Tố cáo và giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực (Điều 35) Điều 35 quy định về trình tự, thủ tục tố cáo và giải quyết tố cáo đối với hành vi VPPL về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực được thực hiện như đối với giải quyết tố cáo hành vi vi phạm của cán bộ, công chức, viên chức trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ, là chưa hợp lý. Bởi lẽ, hai loại hoạt động tố cáo và giải quyết tố cáo có những nội dung giống nhau (có thể viện dẫn), nhưng cũng có những điểm khác nhau về đối tượng tố cáo, nội dung tố cáo, hành vi vi phạm không trực tiếp mà trong nhiều trường hợp là trách nhiệm quản lý... nên thủ tục cũng phải làm khác nhau. Vì vậy, đề nghị cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung cho phù hợp BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT 32 Số 11(339) T6/2017

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfgop_y_ve_trinh_tu_thu_tuc_to_cao_va_giai_quyet_to_cao_trong.pdf
Tài liệu liên quan