Tuy nhiên, quy định này chưa rõ ràng
khi Luật sử dụng từ ngữ “không góp đủ”.
Cụm từ này có thể được hiểu bao gồm hai
hành vi là: hoàn toàn chưa góp hoặc đã góp
nhưng chưa đủ số vốn cam kết; hay “không
góp đủ” chỉ có nghĩa là đã góp nhưng chưa
đủ số vốn đã cam kết? Xét tương ứng với
cách xử lý, có lẽ “không góp đủ” chỉ được
hiểu là đã góp nhưng chưa đủ số vốn đã cam
kết, bởi phải góp được một phần nào đó thì
chủ sở hữu mới điều chỉnh vốn điều lệ về số
vốn thực góp được. Như vậy, Luật Doanh
nghiệp năm 2014 vẫn còn thiếu sót về cách
xử lý trường hợp chủ sở hữu công ty TNHH
một thành viên chưa góp phần vốn nào.
Trường hợp chưa góp đủ, chủ sở hữu
buộc phải điều chỉnh giảm vốn điều lệ theo
đúng với số vốn đã góp. Quy định này có thể
là một biện pháp hướng đến hạn chế tình
trạng vốn điều lệ ảo của các công ty. Tuy
nhiên, cách thức xử lý này không linh hoạt
và chủ động cho chủ sở hữu khi họ không
có bất kỳ sự lựa chọn nào, thiết nghĩ, trường
hợp chủ sở hữu chưa góp đủ số vốn thì ngoài
việc giảm vốn điều lệ nên cho phép chủ sở
hữu huy động thêm thành viên và công ty sẽ
được chuyển đổi thành công ty TNHH hai
thành viên trở lên.
Qua phân tích, có thể thấy Luật Doanh
nghiệp năm 2014 đã có những quy định khá
đầy đủ, giúp khắc phục, giải quyết các vấn
đề liên quan đến hành vi vi phạm nghĩa vụ
góp vốn thành lập công ty TNHH và CTCP.
Luật cũng đã có các quy định xác định trách
nhiệm pháp lý của cá nhân khi có sai phạm
trong việc thực hiện góp vốn. Những điều
chỉnh của Luật Doanh nghiệp năm 2014 so
với Luật Doanh nghiệp năm 2005, bên cạnh
việc tôn trọng quyền tự chủ và tự do quyết
định vi phạm phát sinh trong quá trình góp
vốn của nhà đầu tư, đã thể hiện sự chặt chẽ
hơn nhằm kiểm soát tình trạng “vốn ảo” của
các công ty. Tuy nhiên, vẫn có một số quy
định chưa rõ ràng, tính hiệu quả không cao
do chú trọng vào việc kiểm soát, quản lý nhà
nước hơn là quyền tự do quyết định cách
thức xử lý của chủ sở hữu
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 360 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hậu quả pháp lý và cách thức xử lý các vị phạm nghĩa vụ góp vốn khi thành lập doanh nghiệp theo luật doanh nghiệp năm 2014, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
49
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 10(338) T5/2017
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
G óp vốn để thành lập công ty khôngchỉ là hoạt động tạo nguồn tàichính nhằm đảm bảo các điều kiện
cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, mà
còn có ý nghĩa là hoạt động đưa tài sản vào
công ty để trở thành chủ sở hữu của công ty,
xác lập tư cách thành viên, quyền và trách
nhiệm của họ đối với công ty sau khi được
thành lập. Gắn liền với quyền lợi là nghĩa
vụ, trước tiên, đó là nghĩa vụ góp đủ vốn và
đúng thời hạn như đã cam kết. Rõ ràng,
không có hành vi cam kết ban đầu thì không
HÊÅU QUAÃ PHAÁP LYÁ VAÂ CAÁCH THÛÁC XÛÃ LYÁ
CAÁC VI PHAÅM NGHÔA VUÅ GOÁP VÖËN KHI THAÂNH LÊÅP
DOANH NGHIÏåP THEO LUÊÅT DOANH NGHIÏåP NÙM 2014
Nguyễn Thị Liễu Hạnh*
* Ban Quản lý các khu công nghiệp và chế xuất Đà Nẵng.
Thông tin bài viết:
Từ khoá:
góp vốn, hậu quả pháp lý,
cách thức xử lý, nghĩa vụ góp
vốn.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 12/06/2016
Biên tập: 29/11/2016
Duyệt bài: 04/12/2016
Article Infomation:
Keywords: capital contribu-
tion, legal consequences,
capital obligation.
Article History:
Received: 12 Jun 2016
Edited: 29 Nov. 2016
Approved: 04 Dec. 2016
Tóm tắt:
Bài viết phân tích các quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014 về các
trường hợp vi phạm nghĩa vụ góp vốn khi thành lập công ty trách nhiệm hữu
hạn (TNHH) và công ty cổ phần (CTCP), trách nhiệm và hậu quả pháp lý
mà thành viên, cổ đông vi phạm cam kết phải gánh chịu, cách thức xử lý đối
với phần vốn chưa được góp; trên cơ sở đó, đưa ra những nhận xét, đánh giá
về sự phù hợp của một số quy định trong Luật Doanh nghiệp năm 2014.
Abstract:
The article provides analysis of a number of the provisions of the Enterprise
Law of 2014 on the cases of beach of capital contribution obligations under
establishment of a limited liability company and a join stock company, the
legal liability and consequences to which the breaching members or the
breaching shareholders committed, the methods for settlement of the unpaid
capital contribution. Through the analysis, the author has taken the
assessment of the reasonableness of a number of the provisions under the
Enterprise Law of 2014.
50
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 10(338) T5/2017
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
làm phát sinh nghĩa vụ góp vốn của nhà đầu
tư, hay nói cách khác, khi thỏa thuận, họ đã
tự ràng buộc mình vào một nghĩa vụ với
công ty. Nhà đầu tư chỉ được giải phóng
khỏi nghĩa vụ này khi hoàn thành việc góp
vốn đúng theo nội dung đã cam kết. Nếu
không thực hiện hoặc thực hiện không đầy
đủ và đúng thời hạn, họ sẽ gánh chịu hậu
quả pháp lý.
Để đảm bảo những quyền lợi cũng
như trách nhiệm tương ứng với hành vi vi
phạm nghĩa vụ của thành viên góp vốn, Luật
Doanh nghiệp năm 2014 tiếp tục hoàn thiện
quy định về quyền lợi, mức độ trách nhiệm
và cách thức xử lý khi có thành viên không
thực hiện đúng cam kết góp vốn.
1. Các trường hợp vi phạm nghĩa vụ góp
vốn và quyền lợi của thành viên, cổ đông
vi phạm
Trường hợp sau thời hạn cam kết lần
cuối mà thành viên, cổ đông hoàn toàn
chưa góp vốn
Cơ sở để một người trở thành thành
viên công ty chính là sở hữu phần vốn trong
công ty. Đối với công ty TNHH, thành viên
phải sở hữu ít nhất một phần vốn góp; đối
với CTCP, cổ đông phải sở hữu ít nhất một
cổ phần. Việc một người không đưa bất kỳ
tài sản nào của mình vào công ty theo cam
kết không chỉ là vi phạm nghĩa vụ góp vốn
mà còn dẫn đến hệ quả là họ không đáp ứng
điều kiện để được xem là thành viên, cổ
đông công ty. Luật Doanh nghiệp năm 2014
tiếp tục quy định thành viên, cổ đông chưa
góp vốn sẽ bị mất tư cách thành viên, cổ
đông công ty là hoàn toàn hợp lý1. Một khi
đã không còn là thành viên, cổ đông công
ty, họ cũng sẽ đương nhiên không được
hưởng những quyền lợi của thành viên công
ty đó.
Trường hợp sau thời hạn cam kết lần
cuối mà thành viên chưa góp đủ số vốn đã
cam kết
Ở công ty TNHH và CTCP, tỷ lệ vốn
góp ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của
các thành viên, cổ đông, như quyền biểu
quyết, phân chia lợi nhuận, rủi ro Đối với
công ty TNHH, Luật Doanh nghiệp năm
2005 và văn bản hướng dẫn đều không quy
định rõ ràng. Điều 18 Nghị định số
102/2010/NĐ-CP quy định về thực hiện góp
vốn của thành viên công ty TNHH hai thành
viên trở lên chỉ nêu quyền lợi của người
chưa góp đủ số vốn theo cam kết căn cứ vào
số vốn thực góp đối với trường hợp thời hạn
cam kết vốn vẫn còn (thời điểm việc chưa
góp đủ vốn không bị xem là vi phạm nghĩa
vụ cam kết); không đề cập đến quyền lợi của
thành viên chỉ góp một phần vốn cam kết
sau thời hạn cam kết lần cuối. Luật Doanh
nghiệp năm 2014 đã quy định rõ sau thời
hạn cam kết góp vốn, thành viên chưa góp
đủ phần vốn góp như đã cam kết có các
quyền tương ứng với phần vốn góp đã góp2,
tức là thành viên được hưởng quyền trên cơ
sở vốn thực góp.
Đối với CTCP, Luật Doanh nghiệp
năm 2014 tiếp tục ghi nhận quy định tại
khoản 5 Điều 23 Nghị định số
102/2010/NĐ-CP, xác định rõ trong công ty
cổ phần khi đến thời hạn cam kết lần cuối
mà cổ đông chỉ thanh toán một phần số cổ
phần đã đăng ký mua, sẽ có quyền biểu
quyết, nhận lợi tức và các quyền khác tương
ứng với số cổ phần đã thanh toán3.
1 Điểm a khoản 3 Điều 48 và điểm a khoản 3 Điều 112 Luật Doanh nghiệp năm 2014.
2 Điểm b khoản 3 Điều 48 Luật Doanh nghiệp năm 2014.
3 Điểm b khoản 3 Điều 112 Luật Doanh nghiệp năm 2014.
51
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 10(338) T5/2017
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
2. Trách nhiệm của thành viên, cổ đông
khi vi phạm nghĩa vụ góp vốn
Khác với quy định của Luật Doanh
nghiệp năm 2005, Luật Doanh nghiệp năm
2014 không xem số vốn chưa góp là nợ của
thành viên đối với công ty. Luật Doanh
nghiệp năm 2014 quy định thành viên chưa
góp hoặc chưa góp đủ số vốn đã cam kết
phải chịu trách nhiệm tương ứng với phần
vốn đã cam kết đối với các nghĩa vụ tài
chính của công ty4. Có lẽ xuất phát từ việc
không xem số vốn chưa góp là nợ nên Luật
cũng có những thay đổi trong hình thức và
mức chịu trách nhiệm của thành viên.
Hình thức chịu trách nhiệm
Khác với quy định của Luật Doanh
nghiệp năm 2005, Luật Doanh nghiệp năm
2014 không buộc thành viên chưa góp vốn
phải bồi thường thiệt hại phát sinh mà phải
chịu trách nhiệm đối với các nghĩa vụ tài
chính của công ty. Sự thay đổi này cũng dẫn
đến cách hiểu khác về ý nghĩa của việc chịu
trách nhiệm của thành viên chưa góp hoặc
chưa góp đủ vốn. Xét về bản chất, hành vi
góp vốn là thỏa thuận giữa các bên, góp vốn
là nghĩa vụ thực hiện cam kết theo thỏa
thuận; góp vốn không đúng, không đủ là
hành vi vi phạm nghĩa vụ đã cam kết, theo
lẽ thông thường bên vi phạm phải bồi
thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ. Xét
về hậu quả thực tế, “bồi thường thiệt hại
phát sinh” và “chịu trách nhiệm đối với các
nghĩa vụ tài chính” có thể là như nhau trong
một số trường hợp, nhưng về mặt ý nghĩa
của hành vi hoàn toàn khác nhau. “Bồi
thường thiệt hại phát sinh” thể hiện được
thành viên phải có trách nhiệm với hành vi
sai trái của mình, bồi thường thiệt hại xảy ra
do hành vi vi phạm gây ra, đó là hậu quả
pháp lý mà thành viên phải gánh chịu khi vi
phạm thỏa thuận, không thực hiện đúng
nghĩa vụ đã cam kết. Quy định “chịu trách
nhiệm với các nghĩa vụ tài chính của công
ty” không thể hiện được đây là trách nhiệm
của người vi phạm nghĩa vụ đã cam kết. Bởi
vì, khi tham gia cam kết góp vốn thành lập
công ty sẽ làm phát sinh trách nhiệm của
thành viên với các nghĩa vụ tài chính của
công ty. Hơn nữa, với quy định này của Luật
Doanh nghiệp năm 2014, trách nhiệm của
thành viên vi phạm nghĩa vụ không khác so
với trách nhiệm của thành viên thực hiện
đúng cam kết.
Mức độ chịu trách nhiệm
Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy
định thành viên công ty TNHH hai thành
viên trở lên, cổ đông CTCP chưa góp hoặc
chưa góp đủ phải chịu trách nhiệm tương
ứng với phần vốn góp đã cam kết, tổng giá
trị mệnh giá cổ phần đã đăng ký mua đối
với các nghĩa vụ tài chính của công ty phát
sinh. Có thể xem đây là một quy định thể
hiện nguyên tắc “chịu trách nhiệm hữu hạn
tương ứng với phần vốn góp” ở loại hình
công ty TNHH và CTCP. Quy định này đã
khắc phục được những thiếu sót của Luật
Doanh nghiệp năm 2005 trong việc xác
định trách nhiệm của thành viên vi phạm
nghĩa vụ góp vốn.
Trước đây, Luật Doanh nghiệp năm
2005 quy định trách nhiệm bồi thường thiệt
hại phát sinh không rõ ràng khi không xác
4 Khoản 4 Điều 48, khoản 4 Điều 112 Luật Doanh nghiệp năm 2014.
52
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 10(338) T5/2017
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
định được mức bồi thường của thành viên
công ty TNHH không góp hoặc không góp
đủ là bao nhiêu. Thiếu sót này đã được Nghị
định số 102/2010/NĐ-CP hướng dẫn. Tuy
nhiên, Luật Doanh nghiệp năm 2005 và
Nghị định số 102/2010/NĐ-CP chỉ buộc
thành viên, cổ đông chịu trách nhiệm trong
phạm vi phần vốn chưa góp, cổ phần chưa
mua là không phù hợp. Bởi các khoản nợ và
nghĩa vụ tài chính của công ty phát sinh từ
toàn bộ nguồn vốn mà các thành viên, cổ
đông cam kết góp và các khoản tài chính này
không tách bạch được nguồn phần vốn đã
góp hay chưa góp; việc thiếu hụt bất cứ phần
vốn góp, cổ phần nào đều có thể ảnh hưởng
đến các giao dịch của công ty. Do đó, thành
viên, cổ đông không thể chỉ chịu trách
nhiệm trong phạm vi phần vốn, cổ phần
chưa góp; các nghĩa vụ tài chính phát sinh
trong thời điểm này phải được các thành
viên gánh chịu theo tỷ lệ “phần vốn, cổ phần
đã cam kết” chứ không thể là “phần vốn, cổ
phần chưa góp”.
Việc “suy đoán” cách quy định của
Luật Doanh nghiệp năm 2014 về mức độ
trách nhiệm của thành viên, cổ đông chưa
góp hoặc chưa góp đủ dựa trên cơ sở nguyên
tắc “chịu trách nhiệm hữu hạn” có vẻ lại
không đúng với công ty TNHH một thành
viên. Khoản 3 Điều 74 Luật Doanh nghiệp
năm 2014 quy định trường hợp không góp
đủ vốn điều lệ “chủ sở hữu phải chịu trách
nhiệm tương ứng với phần vốn góp đã cam
kết đối với các nghĩa vụ tài chính của công
ty”. Tuy nhiên khoản 4 Điều này lại quy
định: “Chủ sở hữu chịu trách nhiệm bằng
toàn bộ tài sản của mình đối với các nghĩa
vụ tài chính của công ty, thiệt hại xảy ra do
không góp, không góp đủ, không góp đúng
hạn vốn điều lệ”.
Với quy định này của Điều 74, sẽ
không xác định được chủ sở hữu công ty
TNHH một thành viên vi phạm nghĩa vụ
góp vốn phải chịu trách nhiệm như thế nào:
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản hay
tương ứng với phần vốn góp đã cam kết và
chủ sở hữu phải chịu trách nhiệm đối với
các nghĩa vụ tài chính hay đối với cả thiệt
hại xảy ra của công ty?
Quy định tại khoản 4 Điều 74 đang
phá vỡ nguyên tắc “trách nhiệm hữu hạn”
của thành viên công ty TNHH khi buộc chủ
sở hữu phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ
tài sản của mình thay vì bằng toàn bộ phần
vốn cam kết góp vào công ty như đã quy
định với công ty TNHH hai thành viên trở
lên, CTCP. Theo đó, trách nhiệm của chủ sở
hữu công ty TNHH một thành viên giống
với trách nhiệm của chủ doanh nghiệp tư
nhân. Điểm khác nhau đó là chủ doanh
nghiệp tư nhân chịu trách nhiệm bằng toàn
bộ tài sản trong mọi trường hợp, còn chủ sở
hữu công ty TNHH một thành viên chịu
trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản nếu như
chủ sở hữu vi phạm nghĩa vụ góp vốn. Như
vậy, trong trường hợp có thiệt hại xảy ra, để
yêu cầu chủ sở hữu đem tài sản của mình ra
chịu trách nhiệm (ngoài khoản tiền đã cam
kết góp) phải chứng minh được mối liên
quan nhân - quả giữa hành vi không góp,
không góp đủ, không góp đúng thời hạn với
thiệt hại xảy ra. Quy định này sẽ khó áp
dụng vì cần phải xác định thêm các thông
tin liên quan như vậy.
5 Khoản 4 Điều 48, khoản 3 Điều 74 Luật Doanh nghiệp năm 2014.
53
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 10(338) T5/2017
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
Khoảng thời gian chịu trách nhiệm
Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy
định có sự khác nhau giữa thành viên công
ty TNHH và cổ đông CTCP chưa góp hoặc
chưa góp đủ. Ở công ty TNHH, thành viên
vi phạm nghĩa vụ góp vốn phải chịu trách
nhiệm trong thời gian trước ngày công ty
đăng ký thay đổi vốn điều lệ và phần vốn
góp của thành viên5.
Đối với CTCP, thời gian chịu trách
nhiệm của cổ đông vi phạm nghĩa vụ góp
vốn là trong thời hạn cổ đông phải thanh
toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua, tức 90
ngày hoặc ngắn hơn theo điều lệ công ty
hoặc hợp đồng mua cổ phần, kể từ ngày
được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh
nghiệp. Như vậy, khoảng thời gian từ ngày
kết thúc thời hạn thanh toán cổ phần đã đăng
ký mua đến ngày đăng ký điều chỉnh vốn
điều lệ và thay đổi cổ đông sáng lập sẽ
không rõ ai sẽ chịu trách nhiệm cho những
nghĩa vụ tài chính phát sinh của công ty: cổ
đông đã vi phạm nghĩa vụ góp vốn, hay
người nhận mua phần cổ phiếu chưa được
thanh toán của cổ đông đó. Nếu người nhận
mua phần cổ phiếu chưa thanh toán của cổ
đông, vi phạm nghĩa vụ góp vốn phải chịu
trách nhiệm cho những nghĩa vụ tài chính
phát sinh trong khoảng thời gian này thì
không phù hợp. Bởi lẽ, trong khoảng thời
gian này, họ vẫn chưa chính thức được công
nhận là chủ sở hữu đối với số cổ phần, chưa
là cổ đông của công ty nên việc họ phải gánh
chịu với các nghĩa vụ tài chính của công ty
có vẻ không thuyết phục. Sẽ phù hợp hơn
khi quy định trách nhiệm này thuộc về cổ
đông đã vi phạm nghĩa vụ góp vốn cho đến
thời điểm công ty đăng ký điều chỉnh vốn
điều lệ như quy định đối với công ty TNHH
hai thành viên trở lên.
3. Cách thức xử lý phần vốn chưa góp khi
có thành viên, cổ đông vi phạm nghĩa vụ
góp vốn
Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy
định cách thức xử lý đối với phần vốn, cổ
phần mà thành viên, cổ đông chưa góp, chưa
thanh toán bằng hình thức “chào bán” và do
Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị
quyết định. Đây là quy định khá mở khi Luật
không nêu cụ thể các hình thức, đối tượng
được chào bán mà giao quyền tự quyết định
cho công ty.
Hội đồng thành viên, Hội đồng quản
trị sẽ quyết định đối tượng “chào bán” là ai
và cách thức bán như thế nào. Đối tượng
“chào bán” có thể bao gồm người ngoài
công ty và thành viên, cổ đông trong công
ty. Phần vốn, cổ phần chưa góp, chưa thanh
toán có thể được bán dưới nhiều hình thức:
(i) bán cho các thành viên, cổ đông còn lại
trong công ty, (ii) bán cho người khác ngoài
công ty (iii) hoặc có thể kết hợp bán cho cả
hai đối tượng.
Luật còn quy định cách thức xử lý, đó
là điều chỉnh vốn điều lệ theo giá trị mệnh
giá số cổ phần đã được thanh toán đủ. Việc
điều chỉnh vốn điều lệ này được yêu cầu
thực hiện khi kết thúc thời hạn góp vốn,
thanh toán cổ phần đã đăng ký. Ở quy định
này có phần chưa rõ nếu trường hợp Hội
đồng thành viên, Hội đồng quản trị quyết
định chào bán phần vốn chưa góp đủ thì việc
điều chỉnh vốn điều lệ sẽ thực hiện khi nào,
có chờ đến khi việc chào bán có kết quả? Sẽ
không có vấn đề gì nếu như việc chào bán
có kết quả trong khoảng thời gian luật yêu
cầu phải điều chỉnh vốn điều lệ kể từ ngày
kết thúc thời hạn góp vốn (60 ngày đối với
công ty TNHH hai thành viên trở lên, 30
ngày đối với CTCP kể từ ngày kết thúc thời
54
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 10(338) T5/2017
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
hạn góp vốn đã đăng ký theo quy định tại
khoản 4 Điều 48, điểm d khoản 3 Điều 112
Luật Doanh nghiệp năm 2014), bởi công ty
sẽ chào bán rồi làm thủ tục điều chỉnh vốn
điều lệ với các thông tin mới sau khi có kết
quả chào bán. Tuy nhiên, nếu việc chào bán
kéo dài lâu hơn khoảng thời gian này thì
buộc công ty phải thực hiện 02 lần thủ tục
điều chỉnh vốn điều lệ: lần đầu là điều chỉnh
với giá trị phần vốn góp đã được thanh toán
(sau khi trừ đi phần vốn chưa góp đủ so với
đăng ký), lần thứ hai là điều chỉnh với giá
trị phần vốn góp sau khi có kết quả chào
bán phần vốn chưa góp của thành viên, cổ
đông vi phạm. Vì vậy, để hạn chế phải thực
hiện thủ tục nhiều lần chỉ trong thời gian
ngắn, nên quy định việc điều chỉnh vốn điều
lệ thực hiện sau thời hạn Hội đồng thành
viên, Hội đồng quản trị quyết định chào bán
với phần vốn chưa góp đủ; đồng thời Luật
cần đưa ra thời hạn tối đa thực hiện chào
bán để tăng hiệu quả giải quyết đối với số
vốn chưa góp.
Đối với công ty TNHH một thành
viên, Luật Doanh nghiệp năm 2005 không
quy định cách thức xử lý khi thành viên duy
nhất không góp hoặc góp không đủ vốn đã
cam kết mà chỉ dừng lại ở việc yêu cầu chủ
sở hữu phải thực hiện đúng nghĩa vụ góp
vốn. Khoản 3 Điều 74 Luật Doanh nghiệp
năm 2014 đã quy định: “trường hợp không
góp đủ vốn điều lệ trong thời hạn quy định
tại khoản 2 Điều này, chủ sở hữu công ty
phải đăng ký điều chỉnh vốn điều lệ bằng giá
trị số vốn thực góp”.
Tuy nhiên, quy định này chưa rõ ràng
khi Luật sử dụng từ ngữ “không góp đủ”.
Cụm từ này có thể được hiểu bao gồm hai
hành vi là: hoàn toàn chưa góp hoặc đã góp
nhưng chưa đủ số vốn cam kết; hay “không
góp đủ” chỉ có nghĩa là đã góp nhưng chưa
đủ số vốn đã cam kết? Xét tương ứng với
cách xử lý, có lẽ “không góp đủ” chỉ được
hiểu là đã góp nhưng chưa đủ số vốn đã cam
kết, bởi phải góp được một phần nào đó thì
chủ sở hữu mới điều chỉnh vốn điều lệ về số
vốn thực góp được. Như vậy, Luật Doanh
nghiệp năm 2014 vẫn còn thiếu sót về cách
xử lý trường hợp chủ sở hữu công ty TNHH
một thành viên chưa góp phần vốn nào.
Trường hợp chưa góp đủ, chủ sở hữu
buộc phải điều chỉnh giảm vốn điều lệ theo
đúng với số vốn đã góp. Quy định này có thể
là một biện pháp hướng đến hạn chế tình
trạng vốn điều lệ ảo của các công ty. Tuy
nhiên, cách thức xử lý này không linh hoạt
và chủ động cho chủ sở hữu khi họ không
có bất kỳ sự lựa chọn nào, thiết nghĩ, trường
hợp chủ sở hữu chưa góp đủ số vốn thì ngoài
việc giảm vốn điều lệ nên cho phép chủ sở
hữu huy động thêm thành viên và công ty sẽ
được chuyển đổi thành công ty TNHH hai
thành viên trở lên.
Qua phân tích, có thể thấy Luật Doanh
nghiệp năm 2014 đã có những quy định khá
đầy đủ, giúp khắc phục, giải quyết các vấn
đề liên quan đến hành vi vi phạm nghĩa vụ
góp vốn thành lập công ty TNHH và CTCP.
Luật cũng đã có các quy định xác định trách
nhiệm pháp lý của cá nhân khi có sai phạm
trong việc thực hiện góp vốn. Những điều
chỉnh của Luật Doanh nghiệp năm 2014 so
với Luật Doanh nghiệp năm 2005, bên cạnh
việc tôn trọng quyền tự chủ và tự do quyết
định vi phạm phát sinh trong quá trình góp
vốn của nhà đầu tư, đã thể hiện sự chặt chẽ
hơn nhằm kiểm soát tình trạng “vốn ảo” của
các công ty. Tuy nhiên, vẫn có một số quy
định chưa rõ ràng, tính hiệu quả không cao
do chú trọng vào việc kiểm soát, quản lý nhà
nước hơn là quyền tự do quyết định cách
thức xử lý của chủ sở hữu n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hau_qua_phap_ly_va_cach_thuc_xu_ly_cac_vi_pham_nghia_vu_gop.pdf