Vậy, nếu cha, mẹ không yêu cầu thì cơ
quan, tổ chức có quyền yêu cầu không?
Trên nguyên tắc bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của người chưa thành niên, người mất
năng lực hành vi dân sự, Luật Hôn nhân và
gia đình quy cơ quan quản lý nhà nước về
gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ
em, Hội liên hiệp phụ nữ có quyền yêu cầu
Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích cho họ trong
nhiều trường hợp. Thiết nghĩ trường hợp
này không nằm ngoài nguyên tắc đó. Bên
cạnh đó, theo Điều 52 Luật Công chứng
năm 2014 thì công chứng viên, người phiên
dịch, người làm chứng cũng có quyền yêu
cầu Tòa án tuyên bố văn bản công chứng vô
hiệu.
Đối với văn bản thỏa thuận chia tài sản
chung không được công chứng thì việc
tuyên bố văn bản thỏa thuận này là vô hiệu
có áp dụng như đối với văn bản thỏa thuận
được công chứng không? Xét về bản chất
thì văn bản thỏa thuận chia tài sản chung đã
thuộc trường hợp vô hiệu. Trên nguyên tắc,
Tòa án là cơ quan có thẩm quyền tuyên bố
giao dịch dân sự vô hiệu. Thỏa thuận chia
tài sản chung cũng là một giao dịch dân sự
nên Tòa án cũng có quyền tuyên bố văn bản
thỏa thuận này là vô hiệu. Những người mà
việc chia tài sản chung đã ảnh hưởng đến
quyền, lợi ích hợp pháp của họ thì có quyền
yêu cầu Tòa án tuyên bố văn bản thỏa thuận
chia tài sản chung đó là vô hiệu.
Ngoài ra, chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân là giao dịch
dân sự nên phải tuân thủ các quy định về
điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
theo quy định tại Điều 117 Bộ luật dân sự
năm 2015. Do đó, nếu bên muốn thay đổi
nội dung văn bản thỏa thuận chia tài sản có
căn cứ cho rằng mình không hoàn toàn tự
nguyện do bị cưỡng ép, bị lừa dối thì có
quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch
này là vô hiệu.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 349 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu lực của văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học Viện Đại học Mở Hà Nội 55 (05/2019) 19-26 19
HIỆU LỰC CỦA VĂN BẢN THỎA THUẬN
CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KỲ
HÔN NHÂN
THE VALIDITY OF THE COMMON PROPERTY AGREEMENT OF WIFE
AND HUSBAND IN THE MARRIAGE PERIOD
Ngô Thị Hường*‡‡‡‡‡‡‡‡‡‡‡‡‡‡‡‡‡‡‡
Nguyễn Thị Hạnh**§§§§§§§§§§§§§§§§§§§
Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 5/11/2018
Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 6/5/2019
Ngày bài báo được duyệt đăng: 24/5/2019
Tóm tắt: Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân không làm chấm dứt
chế độ tài sản chung của vợ chồng nhưng làm thay đổi nguyên tắc xác định tài sản chung, tài
sản riêng. Văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng khi tuân thủ các điều kiện có
hiệu lực của giao dịch dân sự thì có hiệu lực thi hành, trừ trường hợp việc chia tài sản chung
bị vô hiệu theo quy định của pháp luật.
Từ khóa: tài sản chung, văn bản thỏa thuận, hiệu lực, giao dịch dân sự, thời kỳ hôn
nhân
Abstract: The division of the marital property owned by both spouses does not end the
common property regime but changing the principle to determine common property and
separate property. The written agreement to divide the common property of the husband and
wife when complying with the effective conditions of a civil transaction is enforceable, unless
the division of the common property is invalidated according to the provisions of law.
Keywords: common property, agreement, validity, civil transaction, mariage period
1. Chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân
Pháp luật hôn nhân và gia đình hiện
hành quy định trong thời kỳ hôn nhân vợ
chồng có quyền chia tài sản chung (trừ
trường hợp việc chia tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu theo quy định
của pháp luật). Theo đó, trong thời kỳ hôn
nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận chia
một phần hoặc toàn bộ tài sản chung, nếu
* Trường Đại học Luật Hà Nội
** Trường Đại học Mở Hà Nội
không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu
Tòa án giải quyết. Quy định chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
là xuất phát từ thực tế các quan hệ dân sự,
kinh tế, xã hội, hôn nhân và gia đình. Một
mặt để đảm bảo các quyền của vợ, chồng,
mặt khác để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người thứ ba trong quan hệ tài sản
với vợ chồng.
20 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
Chia tài sản chung của vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân (sau đây gọi là chia tài sản
chung) dẫn đến thay đổi nguyên tắc xác
định tài sản chung của vợ chồng và tài sản
riêng của vợ hoặc chồng. Theo Điều 40
khoản 1 Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014 thì kể từ thời điểm chia tài sản chung
có hiệu lực, tài sản chia cho ai thuộc sở hữu
riêng của người đó. Hoa lợi, lợi tức phát
sinh từ tài sản đã được chia, hoa lợi, lợi tức
phát sinh từ tài sản riêng khác thuộc sở hữu
riêng của mỗi người, trừ trường hợp vợ
chồng có thỏa thuận khác. Thu nhập do lao
động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và thu
nhập hợp pháp khác của vợ, chồng phát sinh
sau thời điểm chia tài sản chung vẫn là tài
sản chung của vợ chồng. Trường hợp vợ
chồng chỉ chia một phần tài sản chung thì
phần tài sản chung còn lại không chia và
hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đó vẫn
thuộc khối tài sản chung của vợ chồng.
Như vậy, bản chất pháp lý của việc
chia tài sản chung của vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân là xác định một tài sản nào đó
đang là tài sản chung của vợ chồng trở thành
tài sản riêng của vợ hoặc chồng. Chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
chỉ áp dụng đối với trường hợp vợ chồng
theo chế độ tài sản Luật định. Trong thời kỳ
hôn nhân, vì lý do nào đó mà vợ chồng
muốn tài sản chung thành tài sản riêng thì
phải thông qua một sự kiện pháp lý đó là
chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân không làm chấm dứt chế độ tài
sản của vợ chồng nhưng làm thay đổi
nguyên tắc xác định tài sản chung, tài sản
riêng của vợ, chồng được quy định tại Điều
33 và Điều 43 Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2014. Không chỉ những tài sản đã được
chia cho vợ hoặc chồng là tài sản riêng của
họ mà hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đó
và hoa lợi, lợi tức phát sinh từ những tài sản
riêng khác của vợ, chồng cũng thuộc sở hữu
riêng của vợ, chồng (trừ trường hợp vợ
chồng có thỏa thuận khác).
Thực tế có nhiều trường hợp sau khi
chia tài sản chung, vợ hoặc chồng hoặc cả
vợ và chồng muốn chia lại tài sản. Vấn đề
đặt ra là vợ chồng có thể được chia lại tài
sản đã chia không? Giải quyết vấn đề này
đối với trường hợp Tòa án chia tài sản
chung mà bản án của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật dường như không phức tạp. Khi
bản án đã có hiệu lực pháp luật thì các bên
phải có nghĩa vụ thi hành (theo Điều 4 Luật
Thi hành án dân sự năm 2014). Do vậy, vợ
chồng không thể yêu cầu Tòa án chia lại tài
sản. Đối với trường hợp vợ chồng vợ chồng
thỏa thuận chia tài sản thì vấn đề phức tạp
hơn. Để làm rõ vấn đề này cần phải làm
sáng tỏ các vấn đề lý luận về hiệu lực của
văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
2. Điều kiện và thời điểm có hiệu
lực của văn bản thỏa thuận chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân
2.1. Điều kiện có hiệu lực của văn
bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân
Thỏa thuận chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân thực chất là
giao dịch dân sự, do đó điều kiện có hiệu
lực của văn bản thỏa thuận chia tài sản
chung của vợ chồng phải tuân theo quy định
tại Điều 117 Bộ luật Dân sự năm 2015 về
điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự.
Theo đó, vợ chồng phải có năng lực hành vi
dân sự đầy đủ, việc chia tài sản chung phải
là ý chí tự nguyện của cả vợ và chồng, việc
chia tài sản chung không trái pháp luật và
đạo đức xã hội và văn bản thỏa thuận chia
tài sản chung của vợ chồng phải tuân theo
quy định về hình thức của giao dịch dân sự
theo quy định của pháp luật.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 38
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì vợ
chồng thỏa thuận chia tài sản chung trong
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 21
thời kỳ hôn nhân phải lập văn bản. Văn bản
phải được công chứng theo yêu cầu của
vợ chồng hoặc theo quy định của pháp
luật. Trong trường hợp tài sản được chia
là bất động sản, là tài sản mà pháp luật
quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì
văn bản thỏa thuận chia tài sản chung
phải được công chứng.
Nội dung của văn bản thỏa thuận
chia tài sản chung của vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân phải ghi rõ phần tài sản
được chia cho mỗi bên vợ hoặc chồng, phần
tài sản còn lại không chia (trong trường hợp
vợ chồng chia một phần tài sản chung). Văn
bản thỏa thuận chia tài sản chung còn có thể
bao gồm cả việc xác định là tài sản chung
hay tài sản riêng của vợ, chồng đối với hoa
lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của mỗi
bên sau khi chia tài sản chung (theo khoản
1 Điều 40 Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014).
Như vậy, văn bản thỏa thuận chia tài
sản chung của vợ chồng phải được công
chứng nếu tài sản được chia là bất động
sản, là tài sản mà pháp luật quy định phải
đăng ký quyền sở hữu. Đối với các trường
hợp khác thì văn bản thỏa thuận chia tài
sản chung không bắt buộc phải công
chứng. Do đó, nếu vợ chồng yêu cầu thì
văn bản được công chứng. Trong trường
hợp vợ chồng không yêu cầu thì văn bản
chỉ cần có chữ ký của vợ chồng là đã có
hiệu lực.
2.2. Thời điểm có hiệu lực của văn
bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân
Thời điểm có hiệu lực của văn bản
thỏa thuận chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân được xác
định như sau:
- Đối với văn bản thỏa thuận chia tài
sản chung trong thời kỳ hôn nhân mà không
có công chứng thì thời điểm có hiệu lực của
việc chia tài sản chung của vợ chồng là thời
điểm do vợ chồng thỏa thuận và được ghi
trong văn bản thỏa thuận. Trường hợp trong
văn bản không xác định thời điểm có hiệu
lực thì thời điểm có hiệu lực của việc chia
tài sản chung được tính từ ngày lập văn bản
(Điều 39 khoản 1 Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2014).
- Đối với văn bản thỏa thuận chia tài
sản chung trong thời kỳ hôn nhân mà có
công chứng thì việc xác định thời điểm có
hiệu lực của việc chia tài sản chung của vợ
chồng có thể chia làm hai trường hợp. (1)
Tài sản được chia là bất động sản hoặc là tài
sản mà pháp luật quy định phải đăng ký
quyền sở hữu thì thời điểm có hiệu lực của
việc chia tài sản chung của vợ chồng là thời
điểm văn bản thỏa thuận được công chứng
(Điều 39 khoản 2 Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2014). (2) Đối với trường hợp tài sản
được chia không phải là bất động sản hoặc
tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký
quyền sở hữu thì thời điểm có hiệu lực của
việc chia tài sản chung của vợ chồng được
xác định giống trường hợp văn bản thỏa
thuận chia tài sản không có công chứng.
3. Giá trị thi hành của văn bản
thỏa thuận chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân
Hiệu lực của văn bản thỏa thuận
chia tài sản chung là giá trị thi hành của văn
bản thỏa thuận. Việc xác định hiệu lực của
văn bản thỏa thuận chia tài sản chung rất có
ý nghĩa trong việc giải quyết vấn đề vợ
chồng có quyền thỏa thuận lại hay có quyền
yêu cầu Tòa án chia lại tài sản chung sau khi
đã có văn bản thỏa thuận về việc chia tài sản
chung. Về hiệu lực của văn bản thỏa thuận
chia tài sản chung cần chia là hai loại: Văn
bản thỏa thuận không có công chứng và văn
bản thỏa thuận có công chứng.
3.1. Văn bản thỏa thuận không
công chứng
Đối với văn bản thỏa thuận chia tài
sản chung mà không thuộc trường hợp pháp
luật quy định phải công chứng, tức là tài sản
chia không phải là bất động sản hoặc tài sản
22 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
phải đăng ký quyền sở hữu nên vợ chồng
không công chứng văn bản thỏa thuận thì
văn bản này có hiệu lực từ thời điểm hai bên
vợ chồng cùng ký vào văn bản. Do vậy, văn
bản thỏa thuận chia tài sản chung có hiệu
lực thi hành đối với vợ chồng. Khi văn bản
đã có hiệu lực, vợ chồng phải thực hiện các
nội dung đã thỏa thuận được ghi trong văn
bản. Trường hợp trong quá trình thực hiện
nội dung thỏa thuận hoặc sau khi các bên đã
thực hiện xong các nội dung thỏa thuận mà
vợ chồng thấy rằng thỏa thuận trước đây
không hợp lý, cần phải thỏa thuận lại thì vợ
chồng có thể thỏa thuận lại. Pháp luật không
hạn chế, ngăn cản sự thỏa thuận của vợ
chồng. Bởi lẽ, thỏa thuận chia tài sản chung
của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân sẽ làm
thay đổi quyền sở hữu tài sản của vợ chồng.
Quyền sở hữu tài sản là đối tượng điều
chỉnh của pháp luật dân sự nên tuân theo các
nguyên tắc của cơ bản của pháp luật dân sự.
Một trong những nguyên tắc cơ bản của
pháp luật dân sự là tôn trọng quyền tự do, tự
nguyện và thỏa thuận của các bên (Điều 3
khoản 2 Bộ luật dân sự năm 2015). Tuy
nhiên, nếu chỉ vợ hoặc chồng cho rằng nội
dung thỏa thuận chia tài sản chung trước
đây là không hợp lý mà muốn chia lại thì
bên vợ hoặc chồng có thể yêu cầu Tòa án
giải quyết hay không? Theo quy định tại
Điều 39 khoản 1 Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2014 thì vợ chồng có thể thỏa thuận
chia tài sản chung, nếu vợ chồng không thỏa
thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải
quyết. Cụm từ “không thỏa thuận được” có
thể được hiểu như sau:
- Thứ nhất, vợ chồng cùng muốn
chia tài sản mà sau khi bàn bạc họ không
thống nhất được với nhau về xác định phần
tài sản chia cho mỗi bên thì họ có quyền yêu
cầu Tòa án giải quyết. Ví dụ: Vợ chồng
thống nhất với nhau là chia 2 tỷ đồng là một
phần tài sản trong khối tài sản chung của vợ
chồng, nhưng họ không thỏa thuận được
rằng mỗi bên được chia bao nhiêu. Vì vậy
một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa
án giải quyết (tức là Tòa án chia tài sản). Do
đó, quyền yêu cầu Tòa án giải quyết chỉ đặt
ra khi vợ chồng cùng đồng ý chia tài sản
nhưng chưa từng đi đến một thỏa thuận nào
về việc phân chia tài sản ra sao.
- Thứ hai, trường hợp chỉ có một bên
muốn chia tài sản chung, bên kia không
đồng ý chia. Ví dụ: Vợ muốn chia tài sản
chung của vợ chồng để vợ có vốn kinh
doanh nhưng chồng không đồng ý. Trong
trường hợp này thì bên muốn chia tài sản
chung (người vợ) có quyền yêu cầu Tòa án
giải quyết.
- Thứ ba, vợ chồng đã thỏa thuận
chia tài sản chung nhưng sau đó một bên
cho rằng thỏa thuận đó đã gây thiệt hại cho
họ nên yêu cầu Tòa án giải quyết. Chúng
tôi cho rằng cụm từ “không thỏa thuận
được” hiểu theo nghĩa thứ ba này là không
có cơ sở pháp lý. Thỏa thuận chia tài sản
chung của vợ chồng là một giao dịch dân sự.
Văn bản thỏa thuận chia tài sản chung dù
không được công chứng nhưng vẫn là một
chứng thư pháp lý. Theo quy định tại Điều
116 và Điều 117 Bộ luật dân sự năm 2015
thì khi giao dịch tuân thủ các điều kiện có
hiệu lực của giao dịch dân sự thì sẽ làm phát
sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ
dân sự. Trong trường hợp này, văn bản thỏa
thuận dù không được công chứng nhưng đã
đáp ứng đủ các điều kiện có hiệu lực của gia
dịch dân sự nên có giá trị thi hành. Do vậy,
nếu vợ chồng đã thỏa thuận chia tài sản
chung nhưng sau đó một bên muốn chia lại
thì họ không có quyền yêu cầu Tòa án giải
quyết.
3.2. Văn bản thỏa thuận đã được
công chứng
Theo quy định tại Điều 38 khoản 2
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì văn
bản thỏa thuận chia tài sản chung được công
chứng theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo
quy định của pháp luật. Vấn đề đặt ra là văn
bản thỏa thuận chia tài sản chung đã được
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 23
công chứng có hiệu lực như thế nào đối với
vợ chồng? Theo quy định tại Điều 5 khoản
2 Luật Công chứng năm 2014 thì văn bản
công chứng có hiệu lực kể từ ngày được
công chứng viên ký và đóng dấu của tổ chức
hành nghề công chứng và có hiệu lực thi
hành đối với các bên liên quan. Do đó, nếu
sau khi văn bản đã được công chứng mà vợ
chồng muốn thay đổi nội dung thỏa thuận,
tức là muốn chia lại tài sản thì xảy ra hai
trường hợp sau:
Trường hợp thứ nhất: Vợ chồng
cùng thống nhất với nhau về việc sửa đổi
văn bản thỏa thuận chia tài sản chung và
thỏa thuận được với nhau về phân chia lại
tài sản thì họ có quyền yêu cầu sửa đổi văn
bản thỏa thuận trước đó tại tổ chức hành
nghề công chứng đã công chứng văn bản
thuận thuận đó theo quy định tại Điều 51
Luật Công chứng năm 20141.********************Tuy nhiên,
nếu tài sản được chia là nhà ở, quyền sử
dụng đất mà Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà đã được sang
tên cho người được chia tài sản đó căn cứ
vào văn bản thỏa thuận thì văn bản thỏa
thuận đó không thể được sửa đổi, tức là
công chứng viên không thể công chứng văn
bản thỏa thuận lại về chia những tài sản này.
Trường hợp thứ hai: Chỉ một bên vợ
hoặc chồng muốn thay đổi nội dung thỏa
thuận về chia tài sản chung, bên kia không
đồng ý thay đổi thì bên muốn thay đổi
không có quyền yêu cầu tổ chức hành nghề
công chứng sửa đổi văn bản thỏa thuận đã
1 Điều 51. Công chứng việc sửa đổi, bổ sung, hủy
bỏ hợp đồng, giao dịch
1. Việc công chứng sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp
đồng, giao dịch đã được công chứng chỉ được thực
hiện khi có sự thỏa thuận, cam kết bằng văn bản
của tất cả những người đã tham gia hợp đồng, giao
dịch đó.
2. Việc công chứng sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp
đồng, giao dịch đã được công chứng được thực hiện
tại tổ chức hành nghề công chứng đã thực hiện việc
công chứng đó và do công chứng viên tiến hành.
được công chứng trước đó và cũng không
có quyền yêu cầu Tòa án chia lại những tài
sản mà vợ chồng đã thỏa thuận chia (căn cứ
Điều 5 và Điều 51 Luật Công chứng năm
2014).
Như vậy, sau khi văn bản thỏa thuận
chia tài sản chung của vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân đã được công chứng, vợ chồng
phải thực hiện những nội dung đã thỏa
thuận. Trong trường hợp một bên không
thực hiện đúng nội dung đã thỏa thuận thì
bên kia có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tòa án căn cứ vào văn bản thỏa thuận chia
tài sản chung để buộc người không thực
hiện những cam kết phải thực hiện (Điều 5
khoản 3 Luật Công chứng năm 2014). Tòa
án không có quyền thay đổi lại những nội
dung đã được ghi trong văn bản thỏa thuận.
3.3. Chấm dứt hiệu lực của văn
bản thỏa thuận chia tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân
Như đã phân tích, việc chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
làm thay đổi nguyên tắc xác định tài sản
chung, tài sản riêng của vợ, chồng. Do vậy,
có thể sau một thời gian chia tài sản, vợ
chồng muốn chấm dứt hiệu lực của việc
chia tài sản. Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014 quy định vợ chồng có thể thỏa thuận
chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân. Theo Điều 41
Luật Hôn nhân và gia đình thì vợ chồng thỏa
thuận bằng văn bản chấm dứt hiệu lực của
việc chia tài sản chung. Trong trường hợp
Trường hợp tổ chức hành nghề công chứng đã thực
hiện việc công chứng chấm dứt hoạt động, chuyển
đổi, chuyển nhượng hoặc giải thể thì công chứng
viên của tổ chức hành nghề công chứng đang lưu
trữ hồ sơ công chứng thực hiện việc sửa đổi, bổ
sung, hủy bỏ hợp đồng, giao dịch.
3. Thủ tục công chứng việc sửa đổi, bổ sung,
hủy bỏ hợp đồng, giao dịch đã được công
chứng được thực hiện như thủ tục công chứng
hợp đồng, giao dịch quy định tại Chương này.
24 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
văn bản thỏa thuận chia tài sản chung đã
được công chứng thì văn bản thỏa thuận
chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản cũng
phải công chứng. Đối với trường hợp văn
bản thỏa thuận chia tài sản chung không
công chứng thì văn bản thỏa thuận chấm dứt
hiệu lực của việc chia tài sản chung có thể
được công chứng theo yêu cầu của vợ
chồng. Khi vợ chồng đã thỏa thuận chấm
dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung thì
việc xác định tài sản chung, tài sản riêng của
vợ, chồng theo Điều 33 và Điểu 43 Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2014.
Vấn đề đặt ra là vợ chồng không
thỏa thuận mà chỉ một bên muốn chấm dứt
hiệu lực của việc chia tài sản chung thì họ
có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết không?
Có ý kiến cho rằng, khi chia tài sản chung,
nếu một bên yêu cầu thì Tòa án có quyền
chia tài sản chung thì khi một bên muốn
chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản
chung họ cũng có quyền yêu cầu Tòa án giải
quyết. Chúng tôi cho rằng ý kiến này không
phù hợp với Điều 41 Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2014. Như vậy, chấm dứt hiệu lực
của việc chia tài sản chung chỉ xảy ra khi vợ
chồng có thỏa thuận.
3.4. Văn bản thỏa thuận chia tài
sản chung trong thời kỳ hôn nhân vô hiệu
Theo Điều 42 Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2014 thì việc chia tài sản chung bị
vô hiệu trong hai trường hợp. Thứ nhất là
việc chia tài sản ảnh hưởng nghiêm trọng
đến lợi ích của gia đình; quyền, lợi ích hợp
pháp của con chưa thành niên, con đã thành
niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc
không có khả năng lao động và không có tài
sản để tự nuôi mình. Thứ hai là việc chia tài
sản nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ nuôi
dưỡng, cấp dưỡng, bồi thường thiệt hại,
thanh toán khi bị Tòa án tuyên bố phá sản,
trả nợ cho cá nhân, tổ chức, nghĩa vụ nộp
thuế hoặc nghĩa vụ tài chính khác đối với
Nhà nước hoặc các nghĩa vụ khác về tài sản
theo quy định của Luật Hôn nhân và gia
đình, Bộ luật dân sự và quy định khác của
pháp luật có liên quan. Như vậy, trong
trường hợp vợ chồng lập văn bản thỏa thuận
chia tài sản chung mà thuộc một trong các
trường hợp trên thì văn bản thỏa thuận chia
tài sản chung đó bị vô hiệu. Pháp luật quy
định các trường hợp chia tài sản chung của
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu
là nhằm bảo vệ gia đình; bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của các thành viên khác trong
gia đình; bảo vệ quyền của cá nhân, cơ
quan, tổ chức, Nhà nước mà vợ chồng có
nghĩa vụ về tài sản.
Câu hỏi đặt ra là ai có quyền yêu cầu
và cơ quan, tổ chức nào có thẩm quyền
tuyên bố văn bản thỏa thuận chia tài sản
chung là vô hiệu?
Luật Hôn nhân và gia đình hiện hành
không quy định ai có quyền yêu cầu và cơ
quan nào có thẩm quyền tuyên bố văn bản
thỏa thuận chia tài sản chung vô hiệu. Theo
Điều 398 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2014
và Điều 52 Luật Công chứng năm 2014 thì
quy định công chứng viên, người yêu cầu
công chứng, người có quyền, lợi ích liên
quan có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố văn
bản công chứng vô hiệu. Như vậy, có thể
thấy rằng Tòa án là cơ quan có thẩm quyền
tuyên bố văn bản thỏa thuận chia tài sản
chung là vô hiệu đối với văn bản thỏa thuận
chia tài sản chung được công chứng.
Về người có quyền yêu cầu tuyên bố
văn bản thỏa thuận chia tài sản chung vô
hiệu: Căn cứ Điều 42 Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2014 có thể hiểu rằng người nào
mà việc chia tài sản chung của vợ chồng ảnh
hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ
thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố việc
chia tài sản đó là vô hiệu. Từ đó có thể suy
ra rằng người có quyền yêu cầu Tòa án
tuyên bố văn bản thỏa thuận chia tài sản
chung vô hiệu gồm: (1) các thành viên gia
đình (những người mà việc chia tài sản
chung đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến
quyền, lợi ích hợp pháp của họ; (2) người
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 25
có quyền về tài sản mà vợ chồng đã chia tài
sản chung để trốn tránh thực hiện các nghĩa
vụ về tài sản đối với họ (người có quyền, lợi
ích liên quan). Đối với trường hợp mà thỏa
thuận chia tài sản chung của vợ chồng ảnh
hưởng nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp
pháp của con chưa thành niên, con đã thành
niên mất năng lực hành vi dân sự (theo
khoản 1 Điều 42 Luật Hôn nhân và gia đình)
thì cha mẹ là người đại diện nên cha mẹ có
quyền yêu cầu tuyên bố văn bản thỏa thuận
chia tài sản chung vô hiệu. Tuy nhiên, nếu
cha mẹ của người con này lại chính là cặp
vợ chồng đã thỏa thuận chia tài sản chung
thì khả năng họ yêu cầu là không xảy ra vì
không ai lại yêu cầu tuyên bố văn bản thỏa
thuận của chính mình bị vô hiệu. Chỉ có một
trường hợp mà cha hoặc mẹ của người con
yêu cầu tuyên bố văn bản thỏa thuận chia tài
sản chung của vợ chồng vô hiệu đó là khi
cha hoặc mẹ của người con này không phải
là một bên trong cặp vợ chồng đó.
Vậy, nếu cha, mẹ không yêu cầu thì cơ
quan, tổ chức có quyền yêu cầu không?
Trên nguyên tắc bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của người chưa thành niên, người mất
năng lực hành vi dân sự, Luật Hôn nhân và
gia đình quy cơ quan quản lý nhà nước về
gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ
em, Hội liên hiệp phụ nữ có quyền yêu cầu
Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích cho họ trong
nhiều trường hợp. Thiết nghĩ trường hợp
này không nằm ngoài nguyên tắc đó. Bên
cạnh đó, theo Điều 52 Luật Công chứng
năm 2014 thì công chứng viên, người phiên
dịch, người làm chứng cũng có quyền yêu
cầu Tòa án tuyên bố văn bản công chứng vô
hiệu.
Đối với văn bản thỏa thuận chia tài sản
chung không được công chứng thì việc
tuyên bố văn bản thỏa thuận này là vô hiệu
có áp dụng như đối với văn bản thỏa thuận
được công chứng không? Xét về bản chất
thì văn bản thỏa thuận chia tài sản chung đã
thuộc trường hợp vô hiệu. Trên nguyên tắc,
Tòa án là cơ quan có thẩm quyền tuyên bố
giao dịch dân sự vô hiệu. Thỏa thuận chia
tài sản chung cũng là một giao dịch dân sự
nên Tòa án cũng có quyền tuyên bố văn bản
thỏa thuận này là vô hiệu. Những người mà
việc chia tài sản chung đã ảnh hưởng đến
quyền, lợi ích hợp pháp của họ thì có quyền
yêu cầu Tòa án tuyên bố văn bản thỏa thuận
chia tài sản chung đó là vô hiệu.
Ngoài ra, chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân là giao dịch
dân sự nên phải tuân thủ các quy định về
điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
theo quy định tại Điều 117 Bộ luật dân sự
năm 2015. Do đó, nếu bên muốn thay đổi
nội dung văn bản thỏa thuận chia tài sản có
căn cứ cho rằng mình không hoàn toàn tự
nguyện do bị cưỡng ép, bị lừa dối thì có
quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch
này là vô hiệu.
4. Kết luận
Pháp luật hôn nhân và gia đình quy
định chia tài sản chung của vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân không chỉ nhằm đảm bảo
các quyền của vợ, chồng mà còn bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba
trong quan hệ tài sản với vợ chồng. Thực tế
các quan hệ dân sự, kinh tế, xã hội, hôn nhân
và gia đình ở Việt Nam trong những năm
gần đây cho thấy quy định này đã đáp ứng
kịp thời nhu cầu của người dân. Văn bản
thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ
hôn nhân của vợ chồng (dù không công
chứng hay được công chứng theo quy định
của pháp luật) thì đều có giá trị thi hành và
là cơ sở pháp lý xác định tài sản chung, tài
sản riêng của vợ chồng.
Tài liệu tham khảo:
1. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
2. Bộ luật Dân sự năm 2015
3. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2014
4. Luật Thi hành án dân sự năm 2012
5. Luật Công chứng năm 2014
6. Nguyễn Văn Cừ, "Chế độ tài sản của vợ
26 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
chồng theo Luật HNGĐ Việt Nam", Luận án
tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội,
năm 2005;
7. Bộ môn luật HNGĐ, “Cơ sở lý luận và
thực tiễn của những điểm mới trong Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2014” Đề tài
khoa học cấp trường, Trường Đại học
Luật Hà Nội, năm 2015.
Địa chỉ tác giả: Trường Đại học Luật Hà
Nội
Email: thihuongngo1964@gmail.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hieu_luc_cua_van_ban_thoa_thuan_chia_tai_san_chung_cua_vo_ch.pdf