Hiệu quả chiến dịch “bàn tay sạch” trong việc cải thiện sự tuân thủ rửa tay của nhân viên y tế và giảm nhiễm khuẩn bệnh viện tại bệnh viện Hùng Vương
Báo cáo thực trạng rửa tay hàng năm cho
thấy nguyên nhân chính khiến cho NVYT không
rửa tay là quá bận, không đủ thời gian và xà
phòng có mùi khó chịu hoặc gây kích ứng da
tay. Ngoài những lý do khách quan trên, vẫn còn
những nguyên nhân chủ quan khác như NVYT
quên, không nghĩ đến, thời gian tiếp xúc bệnh
nhân ngắn hay do mang găng tay. Ngoài ra, kết
quả khảo sát kiến thức về rửa tay cho thấy tỉ lệ
NVYT có kiến thức đúng hoàn toàn về những
vấn đề liên quan đến rửa tay chưa cao (<30%)(1).
Tỉ lệ trả lời đúng những câu hỏi liên quan đến
kiến thức cơ bản về rửa tay (tác nhân, đường lây
truyền, năm thời điểm rửa tay, thời gian rửa tay)
khá cao. Nhưng những câu hỏi về tình huống
(lựa chọn phương pháp rửa tay, những tình
huống nào cần rửa tay) có tỉ lệ trả lời đúng chưa
cao(1). Điều này cho thấy phương pháp huấn
luyện hiện tại chỉ dừng ở mức cung cấp các kiến
thức cơ bản về rửa tay mà chưa giúp NVYT áp
dụng các kiến thức đã được huấn luyện vào thực
tế. Đồng thời, do huấn luyện kết hợp với chương
trình phát động rửa tay nên thời gian dành cho
huấn luyện ngắn, không thể đi sâu vào phân tích
các tình huống cụ thể cần rửa tay. Tỉ lệ nhiễm
khuẩn bệnh viện giảm rất đáng khích lệ là bằng
chứng thiết thực của vai trò quan trọng trong vệ
sinh tay trong chăm sóc y tế.
Mặc dù tỉ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện đã giảm
có ý nghĩa thống kê nhưng việc hướng đến
nhiễm khuẩn bệnh viện bằng không theo phát
động của Bộ Y tế và Tổ chức Y tế Thế giới, việc
thay đổi trong cách thức tập huấn, khen thưởng
và giám sát khuyến khích nhân viên vệ sinh tay
theo đúng chỉ định rất cần thiết.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 07/02/2022 | Lượt xem: 192 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả chiến dịch “bàn tay sạch” trong việc cải thiện sự tuân thủ rửa tay của nhân viên y tế và giảm nhiễm khuẩn bệnh viện tại bệnh viện Hùng Vương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 634
HIỆU QUẢ CHIẾN DỊCH “BÀN TAY SẠCH” TRONG VIỆC CẢI THIỆN
SỰ TUÂN THỦ RỬA TAY CỦA NHÂN VIÊN Y TẾ VÀ GIẢM NHIỄM
KHUẨN BỆNH VIỆNTẠI BỆNH VIỆN HÙNG VƯƠNG
Phan Thị Hằng*, Trần Thị Thúy Hằng*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Chiến dịch “Bàn tay sạch” là chương trình phối hợp nhiều biện pháp, được tổ chức định kỳ
hàng năm nhằm cải thiện sự tuân thủ rửa tay của nhân viên y tế (NVYT). Vì vậy việc đánh giá hiệu quả chiến
dịch “Bàn tay sạch” là rất cần thiết.
Mục tiêu: Đánh giá sự tuân thủ rửa tay của NVYT trước ‐ sau chiến dịch và xác định tỉ lệ nhiễm khuẩn
bệnh viện (NKBV).
Phương pháp: Giám sát định kỳ sự tuân thủ rửa tay của NVYT từ tháng 4/2010 đến 12/2012. Giám sát ca
bệnh từ tháng 6/2010 đến 12/2012 thu nhận những trường hợp được chẩn đoán xác định là NKBV dựa theo tiêu
chuẩn của CDC.
Kết quả: Tổng số cơ hội rửa tay quan sát được là 24.892. Tỉ lệ tuân thủ rửa tay tăng, từ 29% năm 2010 lên
40% năm 2011 và 53% năm 2012. NKBV cũng giảm rõ rệt. Trong đó nhiễm khuẩn vết mổ giảm từ 1,5% năm
2010 xuống 0,8% năm 2011 và 0,6% năm 2012. Nhiễm khuẩn sơ sinh giảm từ 16% năm 2010 xuống 11% năm
2011 và 6% năm 2012.
Kết luận: Chiến dịch “Bàn tay sạch” được triển khai định kỳ hàng năm đã giúp cải thiện sự tuân thủ rửa
tay và giảm NKBV.
Từ khóa: Tuân thủ rửa tay, chiến dịch “Bàn tay sạch”, nhân viên y tế.
ABSTRACT
EFFECTIVENESS OF “CLEAN HANDS” CAMPAIGN IN IMPROVEMENT IN HAND HYGIENE
COMPLIANCE OF HOSPITAL STAFF AND INFECTION PREVENT AND CONTROLIN HUNG
VUONG HOSPITAL
Phan Thi Hang, Tran Thi Thuy Hang
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 634 ‐ 638
Background: The “Clean hands” strategy, a multimodal program, is held annually to improve the hand
hygiene compliance of hospital staff. Therefore, it’s necessary to evaluate the effectiveness of the campaign.
Objectives: To evaluate the hand hygiene compliance of hospital staff before and afterthe campaign andto
determinethe proportion of hospital‐acquired infection.
Methods: Periodic surveillance of hospital staff‘s hand hygiene compliance was performed from 4/2010 to
12/2012. The surveillance of hospital‐acquired infection case was performed from 6/2010 to 12/2012 and the case
definition was based on CDC criteria.
Result: The total number of observed hand hygiene practice was 24,892. The proportion of hand hygiene
compliance increased from 29% in 2010 to 40% in 2011 and 53% in 2012. The number of hospital‐acquired
infection cases decreased markedly. The proportion of nosocomial surgical site infection decreased from 1.5% in
2010 to 0.8% in 2011 and 0.6% in 2012. The proportion of neonatal nosocomial infection decreased from 16% in
*Bệnh Viện Hùng Vương
Tác giả liên lạc: CN. Trần Thị Thúy Hằng ĐT: 0908 220 676 Email: thuyhangytcc@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 635
2010 to 11% in 2011, and 6% in 2012.
Conclusion: ʺClean Handsʺ campaign, which was launched annually, did help improve hand hygiene
compliance and control hospital‐acquired infection.
Keywords: Hand hygiene compliance, ʺClean Handsʺ campaign, hospital staff.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Rửa tay là bước cơ bản đầu tiên được chứng
minh là có hiệu quả trong phòng ngừa nhiễm
khuẩn bệnh viện. Một chiến lược phối hợp nhiều
biện pháp can thiệp và triển khai liên tục được
chứng minh là hiệu quả hơn so với chỉ tiến hành
một can thiệp riêng lẻ khi tác động để thay đổi
thực hành rửa tay của NVYT(2).
Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã cho thấy
việc cải thiện sự tuân thủ rửa tay của NVYT làm
giảm NKBV một cách rõ rệt(5,6,9). Tại Việt Nam,
nghiên cứu ở bệnh viện Bình Dân đã chỉ ra việc
áp dụng rửa tay với dung dịch sát khuẩn tay
nhanh chứa cồn đã giúp làm giảm NKBV từ
13,1% xuống còn 2,1%(5). Một nghiên cứu thử
nghiệm lâm sàng ở bệnh viện Chợ Rẫy cũng ghi
nhận sự thay đổi đáng kể, tỉ lệ nhiễm khuẩn vết
mổ giảm 54%(4). Nghiên cứu đánh giá hiệu quả
của các biện pháp can thiệp về kiểm soát nhiễm
khuẩn tại bệnh viện Hùng Vương (trong đó có
nâng cao sự tuân thủ rửa tay) cho thấy vệ sinh
tay đã góp phần làm giảm đáng kể nhiễm khuẩn
bệnh viện tại khoa sơ sinh(7). Vì vậy, việc nâng
cao tỉ lệ tuân thủ rửa tay trong chăm sóc y tế
đóng vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao
chất lượng điều trị.
Từ năm 2010, khoa Kiểm soát nhiễm khuẩn
bệnh viện Hùng Vương đã phát động chiến
dịch “Bàn tay sạch” theo khuyến cáo của Tổ
chức y tế thế giới (WHO) định kỳ hàng năm.
Chiến dịch này đã giúp nâng cao sự tuân thủ
rửa tay của NVYT và làm giảm tỉ lệ NKBV.
Việc đánh giá hiệu quả chương trình sau một
thời gian triển khai là cần thiết để xác định
những điểm mạnh và những hạn chế của mô
hình này qua đó cải tiến và xây dựng một mô
hình can thiệp rửa tay phù hợp.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
Thiết kế nghiên cứu, thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu can thiệp. Các can thiệp được áp
dụng dựa trên mô hình can thiệp đa phương
diện của Tổ chức y tế thế giới (WHO). Thời gian
nghiên cứu từ 04/2010 – 12/2012.
Đối tượng nghiên cứu
Tất cả NVYT đang làm việc tại bệnh viện
Hùng Vương.
Tiêu chuẩn nhận vào
Tất cả NVYT đang làm việc tại các khoa lâm
sàng và cận lâm sàng tại bệnh viện Hùng
Vương.
Tiêu chuẩn loại trừ
Những NVYT chỉ làm công tác hành chánh
tại các khoa lâm sàng và cận lâm sàng tại bệnh
viện Hùng Vương.
Cỡ mẫu
Đối với giám sát tuân thủ “5 thời điểm rửa
tay”: tổng số cơ hội rửa tay (số lần cần phải thực
hiện rửa tay) quan sát được là 24.892 cơ hội, chia
làm 8 đợt giám sát. Trung bình mỗi đợt giám sát
khoảng 3.000 cơ hội cho toàn bệnh viện, trung
bình mỗi khoa lâm sàng và cận lâm sàng quan
sát 200 cơ hội (theo hướng dẫn của WHO).
Đối với giám sát NKBV
Chọn toàn bộ bệnh nhân được sử dụng
kháng sinh điều trị hay kéo dài trong toàn bệnh
viện, có những triệu chứng lâm sàng, cận lâm
sàng thỏa tiêu chuẩn chẩn đoán NKBV của CDC.
Phương pháp tiến hành
Tổ chức chương trình can thiệp: chiến dịch
“Bàn tay sạch” được tổ chức định kỳ vào tháng 5
hàng năm từ năm 2010, phối hợp nhiều biện
pháp nhằm cải thiện sự tuân thủ rửa tay của
NVYT, gồm chương trình phát động rửa tay
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 636
trong toàn bệnh viện (tổ chức thi vẽ tranh cổ
động rửa tay, kỹ thuật vệ sinh tay, đố vui có
thưởng) kết hợp với cung cấp những kiến thức
cơ bản về rửa tay, khảo sát kiến thức và nguyên
nhân không tuân thủ rửa tay của NVYT, khảo
sát trang thiết bị rửa tay, giám sát và phản hồi về
sự tuân thủ rửa tay cho từng khoa phòng, thiết
kế và phân phát các tranh ảnh cổ động rửa tay,
khuyến khích sử dụng dung dịch sát khuẩn tay
nhanh chứa cồn.
Đối với giám sát tuân thủ “5 thời điểm rửa
tay”: sử dụng phương pháp giám sát trực tiếp
của WHO. Giám sát viên sẽ quan sát trực tiếp
các tình huống trên lâm sàng để ghi nhận lại
NVYT có thực hiện rửa tay theo 5 thời điểm hay
không.
Đối với giám sát nhiễm khuẩn bệnh viện: áp
dụng phương pháp giám sát chủ động dựa vào
phần mềm quản lý bệnh viện và phần mềm
Microsoft Office Access để lọc những trường
hợp sử dụng kháng sinh điều trị, kháng sinh kéo
dài. Tất cả những bệnh nhân trong danh sách
này sẽ được theo dõi hồ sơ và nếu thỏa tiêu chí
NKBV của CDC thì giám sát viên sẽ tiến hành
ghi nhận các thông tin cần thiết từ hồ sơ vào
phiếu giám sát.
Tiêu chuẩn đánh giá:
Tỉ lệ tuân thủ 5 thời điểm rửa tay của NVYT
theo thời gian.
Tỉ lệ NKBV.
KẾT QUẢ
Từ tháng 4/2010 đến 12/2012, 8 đợt giám sát
tuân thủ rửa tay với 24892 cơ hội được quan sát.
Tỉ lệ tuân thủ rửa tay tăng dần qua từng chiến
dịch (hình 1). Sau 3 năm triển khai chiến dịch, tỉ
lệ tuân thủ rửa tay của NVYT tại bệnh viện
Hùng Vương từ mức gần như không tuân thủ
(9%) đã đạt mức trung bình (50%). Nhưng tỉ lệ
tuân thủ của từng khoa trong đợt khảo sát gần
nhất (12/2012) có mức dao động rất lớn từ 24%
đến 83%. Hầu hết những khoa có tỉ lệ tuân thủ
cao là các khoa chỉ thực hiện những thao tác đơn
giản và lặp lại trên bệnh nhân (các khoa chăm
sóc bệnh nội trú) (2). Những khoa trọng điểm
thực hiện nhiều thủ thuật quan trọng với chuỗi
thao tác liên tục và phức tạp (khoa Sanh, Phẫu
thuật, Cấp cứu) thì tỉ lệ tuân thủ ở tất cả các thời
điểm dưới mức trung bình, trong đó tỉ lệ rửa tay
trước khi thực hiện thủ thuật (tiêm chích, rửa
bụng, đặt thông tiểu, đặt nội khí quản, gây tê tủy
sống) chỉ đạt 65% dù việc rửa tay trước thủ
thuật là bắt buộc. Điều này cho thấy dường như
NVYT còn lúng túng trong việc áp dụng các thời
điểm rửa tay theo khuyến cáo. Khảo sát về kiến
thức, thái độ và thực hành vệ sinh tay của NVYT
tại bệnh viện Hùng Vương năm 2012 cho thấy có
rất nhiều nguyên nhân khác nhau khiến NVYT
không thực hiện rửa tay như áp lực công việc
quá lớn (49,8%), quên (45,2%), số lượt cần rửa
tay quá nhiều (44,1%). Ngoài ra, còn một số
nguyên nhân chủ quan khác như dị ứng dung
dịch rửa tay (30,8%), “nghĩ sử dụng găng có thể
thay thế vệ sinh tay” (70,2%)(88).
Hình 1: Tỉ lệ tuân thủ rửa tay của NVYTtheo thời
gian
Mặc dù, chiến dịch “Bàn tay sạch” vẫn còn
nhiều khuyết điểm nhưng không thể phủ nhận
hiệu quả của nó khi đưa tỉ lệ tuân thủ từ mức
kém lên mức trung bình, đồng thời xây dựng
nền tảng vững chắc để triển khai những can
thiệp tập trung hơn. Điều này cũng phù hợp với
kết luận rút ra từ nhiều nghiên cứu khác nhau
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 637
của WHO cho thấy những cơ sở y tế có nền tảng
tuân thủ tương đối khá sẽ cần những chiến lược
tập trung vào những vấn đề còn tồn tại để đạt
được sự cải thiện hơn nữa(1010).
Hiệu quả của chiến dịch không chỉ dừng ở
việc cải thiện sự tuân thủ rửa tay của NVYT mà
còn cải thiện tình trạng NKBV. Khi tỉ lệ tuân thủ
rửa tay của NVYT tăng thì tỉ lệ NKBV giảm dần
(hình 2).
Hình 2: Tỉ lệ NKBV và tỉ lệ tuân thủ rửa tay từ năm
2010 đến 2012
Tỉ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện giảm dần hàng
năm. Nếu so sánh với từng loại tỉ lệ nhiễm
khuẩn bệnh viện của năm 2010, thì tỉ lệ nhiễm
khuẩn vết mổ (NKVM) sanh và tỉ lệ nhiễm
khuẩn sơ sinh (NKSS) đều giảm có ý nghĩa
thống kê (p<0,001).
Trong đó, tỉ lệ NKSS trên tổng số bé nhập
nhi có mức cải thiện nhanh và nhiều hơn so với
NKVM sanh và NKVM phụ. Điều này có thể lý
giải là do tỉ lệ tuân thủ rửa tay của khoa Nhi khá
cao, trong khi tỉ lệ tuân thủ tại khoa phẫu thuật
chỉ đạt mức trung bình (chỉ khảo sát trên đối
tương nhân viên khoa, không tính phẫu thuật
viên) (hình 3). Do đó, việc nâng cao và duy trì sự
tuân thủ rửa tay của NVYT đóng vai trò rất quan
trọng trong việc cải thiện tình trạng NKBV.
Hình 3: So sánh tỉ lệ tuân thủ rửa tay tại khoa Phẫu
thuật‐Gây mê hồi sức và khoa Nhi sơ sinh theo thời
gian
BÀN LUẬN
Tỉ lệ tuân thủ vệ sinh tay tăng vọt rất nhanh
từ 9% đến 50% chỉ trong vòng 2 năm sau khi
thay đổi hình thức tổ chức (hình 1). Năm đầu
tiên triển khai chiến dịch (2010), tỉ lệ tuân thủ
tăng rõ rệt từ 9% lên 44%. Tuy nhiên, thời gian
sau chiến dịch càng lâu thì tỉ lệ tuân thủ càng
giảm, từ 44% sau 1 tháng xuống còn 43% sau 6
tháng và 37% sau 1 năm. Do đó, việc phát động
chiến dịch định kỳ hàng năm là cần thiết để duy
trì sự tuân thủ của NVYT. Bên cạnh đó, để tạo
cho NVYT thói quen rửa tay cần phải thực hiện
giám sát và phản hồi thường xuyên. Từ năm
2011, sau các đợt giám sát chính trong toàn bệnh
viện (trước và sau chiến dịch), khoa Kiểm soát
nhiễm khuẩn đã tiến hành giám sát và phản hồi
định kỳ tại một số khoa trọng điểm, tần suất
thực hiện các thủ thuật xâm lấn cao như khoa
Sanh, khoa Phẫu thuật‐Gây mê hồi sức, khoa Sơ
sinh. Thực hành này đã giúp duy trì sự tuân thủ
ổn định. Sau đó, tỉ lệ tuân thủ cũng chỉ dao động
quanh mức 52% đến 56% (hình 1).
Báo cáo thực trạng rửa tay hàng năm cho
thấy nguyên nhân chính khiến cho NVYT không
rửa tay là quá bận, không đủ thời gian và xà
phòng có mùi khó chịu hoặc gây kích ứng da
tay. Ngoài những lý do khách quan trên, vẫn còn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 638
những nguyên nhân chủ quan khác như NVYT
quên, không nghĩ đến, thời gian tiếp xúc bệnh
nhân ngắn hay do mang găng tay. Ngoài ra, kết
quả khảo sát kiến thức về rửa tay cho thấy tỉ lệ
NVYT có kiến thức đúng hoàn toàn về những
vấn đề liên quan đến rửa tay chưa cao (<30%)(1).
Tỉ lệ trả lời đúng những câu hỏi liên quan đến
kiến thức cơ bản về rửa tay (tác nhân, đường lây
truyền, năm thời điểm rửa tay, thời gian rửa tay)
khá cao. Nhưng những câu hỏi về tình huống
(lựa chọn phương pháp rửa tay, những tình
huống nào cần rửa tay) có tỉ lệ trả lời đúng chưa
cao(1). Điều này cho thấy phương pháp huấn
luyện hiện tại chỉ dừng ở mức cung cấp các kiến
thức cơ bản về rửa tay mà chưa giúp NVYT áp
dụng các kiến thức đã được huấn luyện vào thực
tế. Đồng thời, do huấn luyện kết hợp với chương
trình phát động rửa tay nên thời gian dành cho
huấn luyện ngắn, không thể đi sâu vào phân tích
các tình huống cụ thể cần rửa tay. Tỉ lệ nhiễm
khuẩn bệnh viện giảm rất đáng khích lệ là bằng
chứng thiết thực của vai trò quan trọng trong vệ
sinh tay trong chăm sóc y tế.
Mặc dù tỉ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện đã giảm
có ý nghĩa thống kê nhưng việc hướng đến
nhiễm khuẩn bệnh viện bằng không theo phát
động của Bộ Y tế và Tổ chức Y tế Thế giới, việc
thay đổi trong cách thức tập huấn, khen thưởng
và giám sát khuyến khích nhân viên vệ sinh tay
theo đúng chỉ định rất cần thiết.
KẾT LUẬN
Chiến dịch “Bàn tay sạch” bước đầu đã giúp
cải thiện thực trạng vệ sinh tay tại bệnh viện
Hùng Vương. Tuy nhiên, khi NVYT đã bắt đầu
nhận thức được sự cần thiết của rửa tay và mức
độ tuân thủ chung đã đạt được mức trung bình
thì chương trình can thiệp nên có sự thay đổi.
Ngoài những can thiệp cơ bản như cung cấp các
tranh ảnh cổ động, khuyến khích sử dụng dung
dịch sát khuẩn tay nhanh, xây dựng chương
trình quảng bá thu hút sự chú ý của NVYT, cần
có sự đổi mới về cách thức và nội dung huấn
luyện. Không chỉ chú trọng vào cung cấp kiến
thức đơn thuần về tầm quan trọng, các thời
điểm, kỹ thuật rửa tay mà còn phải giúp NVYT
có kỹ năng thực hành tốt, nhận thức được
những tình huống cần phải rửa tay trên lâm
sàng. Ngoài ra, phải thực hiện huấn luyện đồng
bộ cho tất cả NVYT để tạo một môi trường văn
hóa rửa tay trong toàn bệnh viện.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bệnh viện Hùng Vương (2012). Báo cáo thực trạng rửa tay.
Khoa Kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh viện Hùng Vương. Tr. 22‐
37.
2. Bệnh viện Hùng Vương (2013). Báo cáo thực trạng rửa tay.
Khoa Kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh viện Hùng Vương. Tr. 3‐
20.
3. Cherry MG, et al. (2012). Features of educational interventions
that lead to compliance with hand hygiene in healthcare professionals
within a hospital care setting. A BEME systematic review: BEME
Guide No. 22. Med Teach. 34(6) e406‐20.
4. Le TA, et al (2007). Reduction in Surgical Site Infections in
Neurosurgical Patients Associated With a Bedside Hand Hygiene
Program in Vietnam.
Accessed on 12 May 2012.
5. Nguyen KV, Nguyen PT, Jones SL (2008). Effectiveness of an
alcohol‐based hand hygiene programme in reducing nosocomial
infections in the Urology Ward of Binh Dan Hospital. Vietnam.
Trop Med Int Health. 13(10) 1297‐302.
6. Pessoa‐Silva CL, et al (2007). Reduction of Health Care Associated
Infection Risk in Neonates by Successful Hand Hygiene Promotion.
Pediatrics. 120(2) e382‐e390.
7. Phan Thị Hằng, Trần Thị Thúy Hằng, Huỳnh Thị Ngọc Hạnh,
Nguyễn Thị Thu Hồng (2012). Hiệu quả của chương trình Kiểm
soát nhiễm khuẩn làm giảm nhiễm khuẩn bệnh viện tại khoa sơ sinh
Bệnh viện Hùng Vương. Tạp chí Y học thực hành. 831. 79‐84.
8. Trần Thị Mỹ Hạnh, Trần Thị Mỹ Hạnh, Ngô Thị Thanh
Thắm, Trần Chiến Công (2013). Khảo sát kiến thức ‐ thái độ ‐ các
yếu tố ảnh hưởng đến vệ sinh tay của nhân viên y tế tại Bệnh viện
Hùng Vương. Tạp chí y học thực hành. 904. 96‐99.
9. Won SP, et al (2004). Handwashing program for the prevention of
nosocomial infections in a neonatal intensive care unit. Infect
Control Hosp Epidemiol. 25(9) 742‐6.
10. World Health Organization (2009). WHO Guidelines on
Hand Hygiene in Health Care. A World Alliance For Safer
Health Care. WHO. Switzerland. Pp. 56‐99.
Ngày nhận bài báo: 17/5/2014
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 18/6/2014
Ngày bài báo được đăng: 14/11/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hieu_qua_chien_dich_ban_tay_sach_trong_viec_cai_thien_su_tua.pdf