Phương pháp xoi mòn cải tiến không cải
thiện tác động làm tan lớp men không trụ, thể
hiện qua dạng xoi mòn không điển hình vẫn
chiếm tỉ lệ cao (hình 1 và 2). Trước đây, khái
niệm dán dính đi đôi với yêu cầu vật liệu phải
thấm nhập sâu vào lớp men xoi mòn. Tuy nhiên
gần đây, có báo cáo chứng minh quan niệm này
có thể chưa đầy đủ, vì độ chui sâu của vật liệu
không phải là yếu tố tiên quyết(28,21,31). Phát hiện
này đặt lại và củng cố giá trị của lớp lai trong
men (tương tự lớp lai của ngà): không có sự
khác biệt của lực dán giữa men có trụ và không
có trụ(24,23). Điều này tương tự với các kết quả của
nghiên cứu này: mặc dù các dạng xoi mòn điển
hình rất hiếm thấy (bảng 3), vi kẽ và lực làm gãy
nhựa dán vẫn khả quan (bảng 1 và 5). Như vậy,
lớp men có dạng xoi mòn không điển hình, đặc
trưng của xoi mòn lớp men không trụ, có thể giữ
vai trò quan trọng trong kỹ thuật trám bít HR
(hình 1 và 2). Ngoài ra, dạng gãy vỡ chủ yếu xảy
ra trong lớp nhựa (bảng 5), chứng tỏ phương
pháp cải tiến không làm ảnh hưởng đến giao
diện men-nhựa. Dù không phải là mục tiêu
chính của nghiên cứu, kết quả này cho thấy lực
làm tách (vỡ) lớp men không trụ với lớp men có
trụ bên dưới là lớn hơn lực làm gãy trụ nhựa vì
nhựa chỉ thấm nhập rất nông vào lớp men xoi
mòn có dạng không điển hình. Cho đến nay,
chưa có nghiên cứu nào được thực hiện giúp
hiểu rõ hơn lực kết dính giữa các lớp men. Như
vậy, sự cần thiết phải lấy đi lớp men này để đạt
được chiều sâu tối ưu của nhựa bám dính vẫn
còn phải nghiên cứu.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 27/01/2022 | Lượt xem: 221 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả của phương pháp xoi mòn vùng hố - rãnh có kết hợp với cọ và chất nhuộm màu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 108
HIỆU QUẢ CỦA PHƯƠNG PHÁP XOI MÒN VÙNG HỐ-RÃNH
CÓ KẾT HỢP VỚI CỌ VÀ CHẤT NHUỘM MÀU
Phan Ái Hùng*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mục tiêu của nghiên cứu in vitro này là khảo sát hiệu quả của phương pháp xoi mòn cải tiến khi
thực hiện miếng trám bít hố-rãnh.
Đối tượng và phương pháp: Chia ngẫu nhiên 70 răng cối nhỏ và răng cối lớn vừa nhổ thành 3 nhóm:
nhóm xoi mòn cổ điển, xoi mòn sau khi mở rộng hố-rãnh với mũi khoan và xoi mòn cải tiến. Phương pháp này
bao gồm nhuộm trước chất cặn bã trong hố-rãnh kết hợp với tác động cọ quẹt bằng vi cọ chủ yếu trên các vùng
nhuộm màu. Sau khi sealant trùng hợp, các răng được thử thách nhiệt và theo các bước cần thiết cho đánh giá vể
vi kẽ. Ngoài ra, các thử nghiệm khác khảo sát và so sánh hiệu quả xoi mòn của phương pháp cải tiến và truyền
thống cũng được thực hiện: hiệu quả xoi mòn trực tiếp lên thành hố-rãnh, chiều sâu thấm nhập vào hố-rãnh của
sealant và độ bền dán.
Kết quả: Kết quả khi so sánh với phương pháp xoi mòn cổ điển: Giảm tỉ lệ vi kẽ (P<0,05). Độ bền dán cao
hơn có ý nghĩa (P<0,05). Ngoài ra, phương pháp xoi mòn cải tiến góp phần gia tăng về chất và lượng của cấu
trúc men xoi mòn.
Kết luận: Phương pháp xoi mòn không xấm lấn này đã gia tăng hiệu quả của chất xoi mòn.
Từ khóa: Xoi mòn, hố rãnh, vi kẽ.
ABSTRACT
EFFECTS OF DYE-GUIDANCE BRUSHING-START ETCHING TECHNIQUE ON THE
PERFORMANCE OF PITS AND FISSURES SEALANT
Phan Ai Hung* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 2 - 2011: 108 - 114
Objective: The purpose of this study was to examine the effects of suggested etching method on the
performance of pits and fissures sealant.
Materials and methods: Seventy extracted sound human permanent third molars and premolars teeth
were used. The teeth were randomly divided and performed in three different groups as follow: conventional
etching, enameloplasty, and testing group. Non-pumicing, dye-guidance vigorous brushing-start etching
technique was aphương pháplied on the occlusal of testing group. Then the sealant was aphương pháplied on all
of the specimens. After the thermocycling and immersed in 1% methylene blue, the resin embedded sections were
done complete. The microleakage data on the section was then recorded under the stereoscope and statistic
analysis. Additional experiments were also performed: direct fissure surface etched pattern experiment, replica
study, and microshear bond strength testing observation.
Results: The results of present study can be summarized as follows: The microleakage of testing group was
lower than conventional method (P<0.05). The quality and quantity of etched enamel were improved. Microshear
bond strength of testing group was higher than control group (P<0.05).
Conclusion: The testing etching method modified the capacity of the etching agent to penetrate into the pit,
fissures, and simultaneous enhance their efficiency in vitro condition.
* Khoa RHM - Đại học Y Dược TP HCM
Tác giả liên lạc: TS. Phan Ái Hùng, ĐT: 0903856184, Email: phanaihung@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 109
Key words: etching, pits and fissures, microleakage.
MỞ ĐẦU
Phòng ngừa sâu răng vùng hố-rãnh (HR) là
có vai trò quan trọng để ngăn ngừa sâu răng
trên lâm sàng cho trẻ em. Trong đó trám bít HR
là kỹ thuật hay dùng nhất. Nhằm đạt hiệu quả
tối đa, cần phải tôn trọng các giai đoạn chủ yếu
của kỹ thuật trám bít, nhất là với chất trám bít có
thành phần cơ bản là nhựa. Trong đó, giai đoạn
làm sạch vùng HR vẫn còn được tranh cãi. Vùng
hố-rãnh, nhất là các rãnh có chiều sâu là 1 thách
thức cho sự xâm nhập của chất xoi mòn vì
chúng được lấp đầy các thành phần cặn bã,
mảng bám hoặc nút hữu cơ. Các thành phần
này gây cản trở acid tác dụng trực tiếp lên mặt
men. Ngoài ra, khoảng cách quá hẹp giữa 2
thành của HR cũng là 1 trở ngại khi xoi mòn. Có
tác giả(33) đề nghị sử dụng bột đánh bóng và
dụng cụ thổi cát mịn nhằm đạt hiệu quả tối ưu
khi xoi mòn men bằng acid. Nhưng tác giả
khác(20) vẫn cho rằng chỉ cần đơn thuần xoi mòn
bằng acid là đủ để làm sạch hố-rãnh. Ngoài ra
còn rất nhiều đề nghị khác nhau(29,38) trong y văn
nhằm mục đích cải tiến và hoàn thiện giai đoạn
sửa soạn HR kể cả biện pháp xâm lấn. Nhìn
chung các biện pháp này vẫn còn một ít hạn chế
và đôi khi gây sợ hãi hoặc khó chịu cho trẻ nhỏ,
mặc dù có thể đạt hiệu quả trên trẻ lớn. Vì vậy
việc cải tiến hoặc tìm kiếm 1 biện pháp thay thế
“nhẹ nhàng” dễ chấp nhận với trẻ em vẫn là
cần thiết trong điều trị.
Thực tế, do HR chứa các thành phần cặn bã,
mảng bám.nên có thể quan sát và theo dõi các
giai đoạn của sửa soạn HR dễ dàng hơn nếu sử
dụng chất nhuộm; rẻ tiền và dễ sử dụng. Mức
độ hẹp của dạng HR có chiều sâu (dạng chữ Y
hay dạng giọt nước) làm cản trở sự thám sát với
thám châm, nhưng với vi cọ có sợi khá nhỏ và
khá cứng để có thể lấn sâu hơn vào HR mà lại
không mang tính chất xâm lấn quá nhiều vào
mô răng.
Vì vậy, mục đích của nghiên cứu này là
khảo sát và đánh giá hiệu quả của phương
pháp xoi mòn cải tiến dựa vào việc sử dụng
chất nhuộm mảng bám để chỉ thị chất cặn bả,
mảng bám tồn tại trong HR. Sau đó xoi mòn
với sự trợ giúp của vi cọ lên những vùng đã bị
nhuộm màu.
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
Nghiên cứu trong labo trên răng người.
Nghiên cứu gồm các phần sau
Khảo sát hiệu quả của vi cọ và chất nhuộm
màu lên sự hở bờ của sealant
Bảy mươi răng cối thứ 3 và răng tiến cối mới
nhỗ được chia thành 3 nhóm. Chọn lọc và đánh giá
hố-rãnh dưới kính phóng đại, làm sạch đơn giản
với bàn chải đánh răng. Sau đó làm sạch lần thứ 2
vói chôi và bột đánh bóng, trừ nhóm nghiên cứu.
- Nhóm 1: xoi mòn theo phương pháp cổ
điển trong 30s với 35% acid phosphoric (Ultra
Etch, Ultradent Inc., USA).
- Nhóm 2: mở rộng hố-rãnh với mũi khoan
kim cương tạo hình hố-rãnh nhọn đầu (Dia-Burs
TC-11F, Mani Inc., Japan), xoi mòn tiếp theo với
acid như nhóm trên.
- Nhóm 3 xoi mòn cải tiến: bôi chất nhuộm
màu để phát hiên chất cặn bã hoặc mảng bám
trên hố-rãnh với chất nhuộm màu (Red-Cote,
Butler Gum, John O. Butler Company Chicago,
IL 60630 USA) bôi lên hố-rãnh 5 giây, thổi khô
và rửa bớt nếu cần. Xoi mòn với acid 30s (như 2
nhóm trên). Trong 15 giây đầu tiên, dùng vi cọ
(Inspiral Brush tip, Ultradent, USA) khuấy động
liên tục acid ở những vùng ngấm màu. Chuẩn
hóa chiều dài vi cọ ở mức 1,2mm.
Đặt sealant (Cleanpro) lên vùng hố-rãnh và
trùng hợp.
Sau 24h giữ trong nước cất, cho răng qua
chu trình thử thách nhiệt (600 chu kỳ ở 5 và 550C
với thời gian nghĩ là 30 giây). Ngâm răng vào
dung dịch xanh methylen 1% 24 giờ. Vùi răng
vào nhựa acrylic và cắt dọc thân răng theo
hướng ngoài-trong thành 4-5 lát cắt với độ dầy
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 110
1-1,25mm. Mã hóa nhóm răng và đánh giá vi kẽ
ở độ phóng đại 20-40x theo thang đo:
- 0: không ngấm màu.
- 1: ngấm màu đến ½ chiều sâu hố-rãnh.
- 2: ngấm màu hơn ½ chiều sâu.
- 3: ngấm màu hoàn toàn.
Ghi nhận điểm số xấu nhất nếu có nhiều hố-
rãnh trên cùng 1 lát cắt.
Sự thâm nhập của sealant vào hố-rãnh được
đánh giá theo thang điểm:
- 1: sealant vào 1/3 chiều sâu hố rãnh.
- 2: vào 2/3 Và
- 3: vào toàn bộ hố rãnh.
Hiệu quả của phương pháp xoi mòn cải
tiến trực tiếp lên thành hố rãnh (HR)
Răng tiền cối lành mạnh vừa nhổ vì lý do
chỉnh hình có HR vướng thám châm. Đánh dấu
miệng vào HR bằng cách cào nhẹ lên miệng HR
với mũi khoan kim cương tròn nhỏ. Cắt và tách
đôi thân răng theo chiều gần-xa để lộ 2 thành
của HR. Chọn các HR có chiều sâu, rửa dưới vòi
nước các chất bẩn thô trên mặt thành. Một thành
xoi mòn trực tiếp theo phương pháp đề nghị,
thành còn lại xoi mòn theo phương pháp truyền
thống. Khảo sát diện xoi mòn dưới kính SEM
vùng sát đường đánh dấu noi miệng HR và sát
đáy HR (phóng đại x30). Ghi lại hình ảnh SEM
(x1000) mỗi vùng 4 điểm: 2 vùng rìa và 2 trung
tâm. In hình ảnh ra giấy, đánh giá % cấu trúc xoi
mòn của mỗi hình bằng cách áp lên ảnh 1 tờ
giấy trong có chia sẵn 40 ô vuông bằng nhau
theo diện tích của hình. Đánh giá cấu trúc xoi
mòn theo tỉ lệ % (40 ô= 100%), theo 4 dạng sau:
- 1: cấu trúc xoi mòn kinh điển loại 1 và loại 2.
- 2: cấu trúc xoi mòn không rõ ràng và không
điển hình (cấu trúc có dạng lỗ rỗ).
- 3: không có xoi mòn.
- 4: chất bẩn trong HR vẫn còn trên bề mặt
men răng.
Hiệu quả của phương pháp xoi mòn đề
nghị lên khả năng thấm nhập của sealant
vào HR
Thực hiện trên 13 răng cối nhỏ. Đánh dấu
miệng HR tương tự.
Chia đôi mặt nhai (HR) theo chiều ngoài
trong và thẳng góc mặt nhai. Mỗi phần xoi mòn
với 2 phương pháp cổ điển và đề nghị đã mô tả.
Đặt sealant. Sau đó làm tan mô răng bằng cách
ngâm răng vào dung dịch HCl trong 48 giờ. Làm
sạch miếng sealant không tan. Đo chiều cao của
miếng sealant từ đáy đến điểm đánh dấu trên
miệng HR. Đo ở 2 cặp điểm đối xứng nhau qua
đường cắt: 1 cách đường cắt 0,5mm và 1 ngay
dưới hố bên.
Khảo sát độ bền dán giữa xoi mòn truyền
thống và cải tiến
Chọn mặt ngoài răng cửa trên có dạng
phẳng, không nứt và mô răng lành mạnh, không
biểu hiện bất thường hay bệnh lý. Cắt thành
miếng răng (3x6mm) rồi vùi vào nhựa chứa
trong nắp nhựa tròn sao cho mặt ngoài song
song với bờ trên của nắp. Xẻ một đường dọc
trùng với trục thân răng để tạo 2 mặt men đối
xứng nhau. Mỗi bên được xoi mòn theo hai
phương pháp đã được mô tả. quét một lớp
sealant mỏng lên mặt men đã xoi mòn. Tạo các
trụ nhựa bằng sealant với ống nhựa (0,8x2mm)
đối xứng nhau và cách đều qua đường xẻ. sau
khi trùng hợp và trử trong nước 24h, các mẫu
được đo độ bền dán bằng lực chặt cho gãy đi
qua giao diện dán (micro-shear bond strength).
Lực chặt đặt lên mẫu với tốc độ 1mm/phút cho
đến khi gãy.
Khảo sát giao diện gãy trên mặt mô răng
dưới kính SEM và ghi nhận dạng gãy (vỡ) theo
phân loại sau:
- Gãy ở mặt dán (adhesive failure) chiếm
>95% vùng dán.
- Gãy của mô men chiếm >95% vùng dán.
- Gãy của trụ nhựa chiếm >95% vùng dán.
- Gãy phối hợp, nhưng gãy mặt dán nhiều
hơn.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 111
- Như D-, nhưng gãy mô men nhiều hơn.
- Như D-, nhưng gãy trụ nhựa nhiều hơn.
KẾT QUẢ
Khảo sát hiệu quả của vi cọ và chât nhuộm
màu lên sự hở bờ của sealant
Kết quả trình bày ở bảng 1:
Bảng 1: Vi kẽ của 3 nhóm.
Nhóm*
Mặt cắt (%)
0 1 2 3 Tổng cộng
Phương
pháp cải
tiến
111
(88,1%)
6 (4,8%) 0 (0%) 9 (7,1
%)
126
(100%)
Dùng mũi
khoan
100
(85,5%)
6 (5,1%) 6 (5,1%) 5 (4,3%) 117
(100%)
Phương
pháp cổ
điển
74
(58,3%)
19 (15%) 13
(3,5%)
27
(21,3%)
127
(100%)
*đường nối thể hiện sự khác biệt có ý nghĩa (P<0,05).
Vi kẽ nhiều nhất ở nhóm xoi mòn theo
phương pháp truyền thống so với 2 phương
pháp còn lại (P<0,05). Nhưng không có sự khác
biệt giữa 2 phương pháp mở rộng HR với mũi
khoan và phương pháp đề nghị.
Bảng 2: Sự thấm nhập vào HR của sealant.
Nhóm*
Number of section (%) Tổng
cộng 1 2 3
Xoi mòn
cải tiến
7
(5,6%)
25
(19,8%)
94
(74,6%)
126
(100%)
Với mũi
khoan
0
(0%)
10
(8,5%)
107
(91,5%)
117
(100%)
Xoi mòn
cổ điển
4 (3%) 24
(18,9%)
99
(78%)
127
(100%)
* đường nối thể hiện sự khác biệt có ý nghĩa (P<0,05).
Về khả năng thấm nhập HR, nhóm có dùng
mũi khoan cao hơn có ý nghĩa so với 2 phương
pháp còn lại (nhưng giữa 2 phương pháp này
không khác biệt).
Hiệu quả của phương pháp xoi mòn cải
tiến trực tiếp lên thành HR
Kết quả trình bày ở bảng 3. Có sự khác biệt
của dạng men bị xoi mòn giữa 2 phương pháp ở
vùng đáy HR (P<0,05). Nhưng nhìn chung, dạng
không định hình chiếm tỉ lệ rất cao và các chất
cặn bẩn vẫn còn bám trên mặt thành HR, dù xoi
mòn kết hợp với vi cọ.
Bảng 3: Dạng men bị xoi mòn.
Nhóm* Lượng
§
(%)
Chất§§ (%)
1 2 3 4
Cải
tiến
Miệng HR (n=20) 100 15,8 84,2 0,0 0,0
Đáy HR (n=20) 84,6 5,75 78,88 0,0 15,37
Cổ
điển
Miệng HR (n=20) 99,75 6,75 93 0,25 0,0
Đáy HR (n=20) 59,125 7,5 51,65 1,25 39,6
*: đường nối thể hiện sự khác biệt có ý nghĩa (P<0,05).
§% tổng cộng của vùng bị ảnh hưởng của
acid ở miệng hoặc ở đáy HR (dạng xoi mòn điển
hình và kg điển hình).
§§ % vùng có 1: xoi mòn điển hình; 2: xoi mòn
khg điển hình; 3: không bị xoi mòn và 4: còn
chất cặn bã.
Hiệu quả của phương pháp xoi mòn đề
nghị trên khả năng thấm nhập HR của
sealant
Bảng 4 trình bày chiều dài tương đối của các
cặp điểm đo đạc. Có sự khác biệt của cặp trung
tâm giữa 2 phương pháp xoi mòn (P<0,05).
Bảng 4: chiều dài của miếng trám sealant (mm).
Nhóm*
Điểm giữa Điểm bên
dài (mean ± SD) dài (mean± SD)
Cải tiến (n=11) 0,6073 ± 0,21 0,5564 ± 0,28
Cổ diển (n=11) 0,4536 ± 0,24 0,6163 ± 0,19
*đường nối thể hiện sự khác biệt có ý nghĩa (P<0,05).
So sánh độ bền dán giữa xoi mòn truyền
thống và cải tiến
Bảng 5 trình bày kết quả lực làm gãy và
dạng gãy. Có sự khác biệt có ý nghĩa giữa 2
phương pháp ((P<0,05). Về dạng gãy, hầu hết là
dạng gãy của resin và dạng gãy phối hợp (resin
chiếm đa số).
Bảng 5: Độ bền dán (mSBS) và dạng gãy (n= 35
/nhóm).
Nhóm*
Mean
mSBS ± SD
(MPa)
Dạng gẫy (vỡ)§
a b c d e f Total
Cải tiến 7,365 ± 2,08 0 0 18 1 3 13 35
Cổ diển 6,626 ±
1,756
0 1 24 0 2 8 35
*đường nối thể hiện sự khác biệt có ý nghĩa (P<0,05). a: gãy ở mặt
dán (adhesive failure) chiếm >95% vùng dán. b: gãy của mô men
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 112
chiếm >95% vùng dán. c: gãy của trụ nhựa chiếm >95% vùng
dán. d: gãy phối hợp, nhưng gãy mặt dán nhiều hơn. e: như d-,
nhưng gãy mô men nhiều hơn. f: như d-, nhưng gãy trụ nhựa
nhiều hơn.
BÀN LUẬN
Tính hiệu quả của các dạng chất xoi mòn HR
vẫn chưa được thống nhất. Và chúng có thể bị
cản trở ngay cả khi không có chất cặn bã còn sót
lại trong HR(7,17, 36,37).
Sự thấm nhập và tác dụng lên mặt men HR
bị ảnh hưởng bởi các chất cặn bã tồn tại trong
HR và như vậy sẽ giảm khả năng dán dính của
nhựa lên men răng. Sự thấm nhập của chất xoi
mòn chịu ảnh hưởng của các yếu tố như độ
nhày, sức căng bề mặt và năng lượng tự do của
mô(10,11). Nhiều nghiên cứu thử nghiệm đã chứng
minh hiệu quả của chất xoi mòn có thêm chất
giảm căng bề mặt. Trong nghiên cứu này,
phương pháp xoi mòn cải tiến làm giảm tỉ lệ vi
kẽ so với phương pháp truyền thống (bảng 1).
Sự khuấy động acid với vi cọ có thể gia tăng tác
động của acid, thể hiện dưới SEM là sự cải thiện
trong loại trừ chất cặn bã bám trên thành HR và
dạng xoi mòn trở nên điển hình hơn (bảng 3).
Trong quá trình xoi mòn, có sự hình thành
các thành phần kết tủa như monocalcium
phosphate monohydrate trên men(10). Nếu vẫn
tồn tại sau khi rửa, chúng sẽ ngăn cản sự thấm
nhập vào vi ngàm trên men của nhựa. Vì vậy tác
động do vi cọ gây ra có thể giúp phá vỡ các
thành phần này giúp acid tác động sâu hơn và
nhiều hơn. Kết quả này đã được chứng minh
trong y văn(13).
Xoi mòn “động” còn được thực hiện với các
tác động khác nhau. Bằng ‘cọ quẹt’, Oliver(32)
chứng minh tác động nhẹ nhàng tạo dạng xoi
mòn điển hình hơn. Tương tự, động tác “chấm
chấm” được đề nghị bởi Bates và cs(2). Trong 1
nghiên cứu khác, các tác giả cho thấy tác động
‘cọ xát’ cũng cải thiện chất lượng xoi mòn(22).
Mặc dù vậy, động tác của các tác giả này không
gây khác biệt về lực dán(2,22). Ngoài ra, sự cọ xát
cũng có thể làm thay đổi cấu trúc men bị xoi
mòn; lớp men ngoài trụ bị cùn đi(22). Nhìn chung,
chưa có sự thống nhất ý kiền về động tác hỗ trợ
khi xoi mòn men. Tuy nhiên, trong nghiên cứu
này, chỉ sử dụng vi cọ lúc khởi đầu của thời gian
xoi mòn. Vì vậy làm giảm đi ảnh hưởng bất lợi
của động tác phụ thêm khả dĩ ảnh hưởng dạng
men xoi mòn (bảng 3 và bảng 5). Ngoài ra, trong
các giây đầu tiên của quá trình xoi mòn, men bị
tác động tương đối chậm do sự ngăn cản của lớp
men bề mặt.
Gacia Godoy(16) cho thấy hậu quả xấu nếu cố
dùng thám châm đẩy acid vào HR trong quá
trình xoi mòn. Trái với kết quả nghiên cứu này,
có thể vì vi cọ mềm hơn, và sợi có dường kinh
nhỏ (0,06mm), đàn hồi.
Ngoài ra, trong nhóm xoi mòn cải tiến, HR
không được làm sạch bằng bột đánh bóng và đài
cao su như truyền thống, nhưng tỉ lệ vi kẽ vẫn
thấp (bảng 1). Có thể do đài hoặc bàn chải đánh
bóng khi chuyển động xoay tròn đã lướt qua
trên HR(12,8), thiếu khuynh hướng đi sâu xuống
bên dưới HR như vi cọ. Tuy vậy, gần đây các
nghiên cứu khác chứng minh đánh bóng với bột
vẫn cho kết quả khích lệ(1).
Các phương pháp xoi mòn xâm lấn hơn đòi
hỏi trang thiết bị chuyên dùng, như máy phun
bột cát, máy phun đánh bóng(11,6,5,27,14) vì thế dù
hiệu quả có cao hơn truyền thống, nhưng không
có tính khả thi do chi phí đầu tư và tính phức
tạp của phương pháp.
Để bảo đám cho sealant vào dễ dàng trong
HR, mũi khoan cũng được sử dụng. Tuy nhiên,
vẫn còn thiếu các nghiên cứu theo dõi dài
hạn(26,35) và không phải là 1 yêu cầu cấp thiết
phải thực hiện trong kỹ thuật đặt sealant cũng
như khả năng có thể làm giảm khả năng đề
kháng sâu răng của men HR(15). Gần đây có báo
cáo cho thấy sử dụng mũi khoan cũng không
làm đạt hiệu quả cao(3). Một số tác giả có khuynh
hướng duy trì sự toàn vẹn của HR dù có sang
thương bên dưới do khả ngăn làm sang thương
không có điều kiện tiến triển(25,30).
Nhiều nghiên cứu cho thấy dưới đáy HR
vẫn tồn tại nhưng vùng không bị xoi mòn độc
lập với các tác nhân và phương pháp xoi
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 113
mòn(7,18). Trong nghiên cứu này, thậm chí các
chất cặn bã tồn đọng dưới đáy HR vẫn không bị
lấy đi dù có tác động cọ quẹt trực tiếp của vi cọ
kết hợp acid. Mặc dù vậy, tỉ lệ vi kẽ của nhóm
cải tiến vẫn không khác với nhóm mũi khoan
(bảng 1). Có thể tác động và sự thấm nhập của
acid vào HR không tỉ lệ thuận với hiệu quả xoi
mòn, quan trọng là sự khít kín ở vùng miệng
của HR.
Phương pháp xoi mòn cải tiến không cải
thiện tác động làm tan lớp men không trụ, thể
hiện qua dạng xoi mòn không điển hình vẫn
chiếm tỉ lệ cao (hình 1 và 2). Trước đây, khái
niệm dán dính đi đôi với yêu cầu vật liệu phải
thấm nhập sâu vào lớp men xoi mòn. Tuy nhiên
gần đây, có báo cáo chứng minh quan niệm này
có thể chưa đầy đủ, vì độ chui sâu của vật liệu
không phải là yếu tố tiên quyết(28,21,31). Phát hiện
này đặt lại và củng cố giá trị của lớp lai trong
men (tương tự lớp lai của ngà): không có sự
khác biệt của lực dán giữa men có trụ và không
có trụ(24,23). Điều này tương tự với các kết quả của
nghiên cứu này: mặc dù các dạng xoi mòn điển
hình rất hiếm thấy (bảng 3), vi kẽ và lực làm gãy
nhựa dán vẫn khả quan (bảng 1 và 5). Như vậy,
lớp men có dạng xoi mòn không điển hình, đặc
trưng của xoi mòn lớp men không trụ, có thể giữ
vai trò quan trọng trong kỹ thuật trám bít HR
(hình 1 và 2). Ngoài ra, dạng gãy vỡ chủ yếu xảy
ra trong lớp nhựa (bảng 5), chứng tỏ phương
pháp cải tiến không làm ảnh hưởng đến giao
diện men-nhựa. Dù không phải là mục tiêu
chính của nghiên cứu, kết quả này cho thấy lực
làm tách (vỡ) lớp men không trụ với lớp men có
trụ bên dưới là lớn hơn lực làm gãy trụ nhựa vì
nhựa chỉ thấm nhập rất nông vào lớp men xoi
mòn có dạng không điển hình. Cho đến nay,
chưa có nghiên cứu nào được thực hiện giúp
hiểu rõ hơn lực kết dính giữa các lớp men. Như
vậy, sự cần thiết phải lấy đi lớp men này để đạt
được chiều sâu tối ưu của nhựa bám dính vẫn
còn phải nghiên cứu.
Hình 1: Giao diện men-sealant ở khoảng giữa HR
theo phương pháp xoi mòn cải tiến (ap: lớp men
không trụ, s: sealant, p; men có trụ, h; lớp lai-enamel
hybrid layer).
Hình 2: Mặt men phía đáy HR với dạng xoi mòn
không điển hình (pitted etched pattern), kết quả của
xoi mòn trên lớp men không trụ.
KẾT LUẬN
Phương pháp xoi mòn cải tiến cho các kết
quả:
- Giảm tỉ lệ vi kẽ
- Độ bền dán cao hơn
Ngoài ra, phương pháp xoi mòn cải tiến góp
phần gia tăng về chất và lượng của cấu trúc
men xoi mòn. Như vậy, phương pháp xoi mòn
không xấm lấn này đã gia tăng hiệu quả của
chất xoi mòn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ansari G, Oloomi K, Eslami B (2004).” Microleakage
assessment of pit and fissure sealant with and without the use
of pumice prophylaxis.” Int J Paediatr Dent. 14:272-278.
2. Bates D, Retief DH, Jamison HC, Denys FR (1982)..”Effects of
acid etch parameters on enamel topography and composite
resin--enamel bond strength.” Pediatr Dent.4:106-10.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 114
3. Blackwood JA, Dilley DC, Roberts MW, Swift EJ Jr (2002).”
Evaluation of pumice, fissure enameloplasty and air abrasion
on sealant microleakage.” Pediatr Dent. 24:199-203.
4. Bottenberg P, Graber HG, Lampert F (1996).” Penetration of
etching agents and its influence on sealer penetration into
fissures in vitro.” Dent Mater. 12:96-102.
5. Brocklehurst PR, Joshi RI, Northeast SE (1992).” The effect of
air-polishing occlusal surfaces on the penetration of fissures
by a sealant.” Int J Paediatr Dent. 2:157-62.
6. Brockmann SL, Scott RL, Eick JD (1990).” A scanning electron
microscopic study of the effect of air polishing on the enamel-
sealant surface.” Quintessence Int. 21:201-6.
7. Brown MR, Foreman FJ, Burgess JO, Summitt JB (1988).”
Penetration of gel and solution etchants in occlusal fissures.”
ASDC J Dent Child. 55:265-8.
8. Burrow MF, Makinson OF (1990),.”Pits and fissures: remnant
organic debris after acid
etching.” ASDC J Dent Child. 57:348-51.
9. Chevitarese AB, Chevitarese O, de Souza IP, Vianna RB
(2002).” Influence of prophylaxis on the microleakage of
sealants: in vitro study.” J clin pediatr dent. 26:371-376.
10. Chow LC, Brown WE (1973)..”Phosphoric acid conditioning
of teeth for pit and fissure sealants.” J Dent Res. 52:1158.
11. De Craene GP, Martens LC, Dermaut LR, Surmont PA
(1989).” A clinical evaluation of a light-cured fissure sealant
(Helioseal).” ASDC J Dent Child. 56:97-102.
12. Donnan MF, Ball IA (1988)..”A double-blind clinical trial to
determine the importance of pumice prophylaxis on fissure
sealant retention.” Br Dent J. 165:283-6.
13. Duangthip D, Lussi A (2003). “Effects of fissure cleaning
methods, drying agents, and fissure morphology on
microleakage and penetration ability of sealants in vitro.”
Pediatr Dent. 25:527-33.
14. Ellis RW, Latta MA, Westerman GH (1999).” Effect of air
abrasion and acid etching on sealant retention: an in vitro
study.” Pediatr Dent. 21:316-31.
15. Feigal R.J (2002).. ”The use of pit and fissure sealants.” Pediatr
Dent. 24:415-422.
16. Garcia-Godoy F, Gwinnett AJ (1987).” An SEM study of
fissure surfaces conditioned with a scraping technique.” Clin
Prev Dent. 9:9-13.
17. Garcia-Godoy F, Gwinnett AJ (1987).” Penetration of acid
solution and gel in occlusal fissures.” J Am Dent Assoc.,
114:809-810.
18. Garcia-Godoy F, Malone WF (1987)..”Penetration of acid gel
etchants into cavity walls: an SEM evaluation.” Quintessence
Int. 18:481-5.
19. Gungor HC, Altay N, Batirbaygil Y, Unlu N (2002).” In vitro
evaluation of the effect of a surfactant-containing
experimental acid gel on sealant microleakage.” Quintessence
Int. 33:679-84.
20. Harris NO et al (1999). Primary preventive dentistry. 5th
edtion. London: Asimon and Schuster Company.
21. Hobson RS, McCabe JF, Rugg-Gunn AJ (2002).” The
relationship between acid-etch patterns and bond survival in
vivo.” Am J Orthod Dentofacial Orthop. 121:502-9.
22. Hormati AA, Denehy GE, Fuller JL (1982)..”Retentiveness of
enamel-resin bonds using unfilled and filled resins.” J Prosthet
Dent. 47:502-4.
23. Ibarra G, Vargas MA, Armstrong SR, Cobbb DS (2002).”
Microtensile bond strength of self-etching adhesives to
ground and unground enamel.” J Adhes Dent. 4:115-24.
24. Kanemura N, Sano H, Tagami J (1999).” Tensile bond strength
to and SEM evaluation of ground and intact enamel surfaces.”
J Dent. 27:523-30.
25. Kramer PF, Zelante F, Simionato MR (1993).” The immediate
and long-term effects of invasive and noninvasive pit and
fissure sealing techniques on the microflora in occlusal
fissures of human teeth.” Pediatr Dent. 16:108-112.
26. Le Bell Y, Forsten L (1980).” Sealing of preventively enlarged
fissures.” Acta Odontol Scand. 38:101-4.
27. Lee H.G., Lee S.H (1995). ”A study on the microleakage of
sealants according to the prophylaxis methods”. J. of Korean
Association of Pediatric Dentistry, 22: 59-72.
28. Legler LR, Retief DH, Bradley EL (1990)..”Effects of
phosphoric acid concentration and etch duration on enamel
depth of etch: an in vitro study”. Am J Orthod Dentofacial
Orthop. 98:154-60.
29. Lygidakis NA, Oulis KI, Christodoulidis A (1994)..
“Evaluation of fissure sealants retention following four
different isolation and surface preparation techniques: four
years clinical trial.” J Clin Pediatr Dent 19:23-5.
30. Mertz-Fairhurst EJ, Adair SM, Sams DR, Curtis JW Jr, Ergle
JW, Hawkins KI, Mackert JR Jr, O'Dell NL, Richards EE,
Rueggeberg F, et al (1995).” Cariostatic and ultraconservative
sealed restorations: nine-year results among children and
adults.” ASDC J Dent Child. 62:97-107.
31. Nakabayashi N et al (1998). Hybridization of dental hard tissue.
Tokyo: Quintessence.
32. Oliver RG (1988).’The effect of different methods of bracket
removal on the amount of residual adhesive.” Am J Orthod
Dentofacial Orthop. 93:196-200.
33. Radaal M et al (2001). “The caries lesion and its management
in children and adolescents.” In: Pediatric Dentistry: a clinical
aphương pháproach. Koch G, Poulsen S (eds). Copenhagen:
Munksgaard;,, phương pháp 173-212.
34. Shapira J et al (1986).”Six-year clinical evaluation of fissure
sealants placed after mechanical preparation: a matched pair
study.” Pediatr Dent. 8:204-5.
35. Shapira J, Eidelman E (1986).” Six-year clinical evaluation of
fissure sealants placed after mechanical preparation: a
matched pair study.” Pediatr Dent. 8:204-5.
36. Symons AL, Chu CY, Meyers IA (1996).” The effect of fissure
morphology and pretreatment of the enamel surface on
penetration and adhesion of fissure sealants.” J Oral Rehabil.
23:791-8.
37. Taylor CL, Gwinnett AJ (1973).” A study of the penetration of
sealants into pits and fissures.” J Am Dent Assoc. 87:1181-8.
38. Waggoner WF, Siegal M (1996). “Pit and fissure sealant
aphương pháplication: updating the technique.” J Am Dent
Assoc.127:351-61.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hieu_qua_cua_phuong_phap_xoi_mon_vung_ho_ranh_co_ket_hop_voi.pdf