Hiệu quả phẫu thuật nội soi trong điều trị thai ngoài tử cung đoạn kẽ ống dẫn trứng

Qua 42 trường hợp phẫu thuật nội soi trong điều trị thai đoạn kẽ. Chúng tôi rút ra được 1 số kết luận như sau: Tỉ lệ điều trị thành công là 97,6 %. Như vậy phẫu thuật nội soi trong điều trị thai đoạn kẽ có hiệu quả cao. Không có trường hợp nào gặp tai biến trong mổ như tổn thương mạch máu lớn, tổn thương hệ niệu, tổn thương đường tiêu hóa, cũng như tai biến sau mổ như xuất huyết nội Do đó phẫu thuật nội soi trong điều trị thai đoạn kẽ rất an toàn. Chi phí điều trị dao động 4-6 triệu đồng, chỉ cần dùng kháng sinh dự phòng, thời gian nằm viện 3 ngày. Như vậy phẫu thuật nội soi trong điều trị thai đoạn kẽ có thời gian hồi phục nhanh, chi phí điều trị vừa phải chấp nhận được đối với hầu hết tất cả các bệnh nhân.

pdf6 trang | Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 460 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả phẫu thuật nội soi trong điều trị thai ngoài tử cung đoạn kẽ ống dẫn trứng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học Sản Phụ Khoa 113 HIỆU QUẢ PHẪU THUẬT NỘI SOI TRONG ĐIỀU TRỊ THAI NGOÀI TỬ CUNG ĐOẠN KẼ ỐNG DẪN TRỨNG Trần Thị Lợi*, Nguyễn Chí Quang ** TÓM TẮT Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả phẫu thuật nội soi trong điều trị thai ngoài tử cung đoạn kẽ ống dẫn trứng. Phương pháp nghiên cứu: Trong thời gian từ tháng 4/2009 đến tháng 9/2010, chúng tôi thực hiện một nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng không nhóm chứng, gồm 42 bệnh nhân với chẩn đoán thai đoạn kẽ được điều trị phẫu thuật nội soi. Chúng tôi xác định tỉ lệ điều trị thành công (được định nghĩa: không cần điều trị gì thêm), thời gian mổ, lượng máu mất, tai biến trong và sau mổ, thời gian βhCG về âm tính, cũng như thời gian nằm viện và chi phí điều trị. Kết quả nghiên cứu: Tỉ lệ điều trị thành công là 97,6%, thời gian mổ trung bình là 58 phút, lượng máu mất trung bình là 60 ml, không ghi nhận tai biến gì trong và sau mổ, thời gian βhCG về âm tính trung bình 3,4 tuần. Thời gian nằm viện 3 ngày và chi phí điều trị dao động 4-6 triệu đồng. Kết luận: Phẫu thuật nội soi trong điều trị thai ngoài tử cung đoạn kẽ hiệu quả và an toàn. Từ khóa: Thai ngoài tử cung đoạn kẽ, phẫu thuật nội soi. ABSTRACT LAPAROSCOPIC SURGERY IN THE TREATMENT OF INTERSTITIAL PREGNANCY Tran Thi Loi, Nguyen Chi Quang * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 113 - 118 Objective: To evaluate the efficiency of laparoscopic surgery in the treatment of interstitial pregnancy. Method: a case series study was performed in 42 patients having interstitial pregnancy at Tu Du hospital between May 2009 and September 2010. All of them were treated by laparoscopic cornuostomy or cornual resection. Outcome measures: successful laparoscopic rate (not requiring futher treatment), mean blood loss volume, operating time, complication, duration for normalizing serum βhCG level, duration of hospital stay and treatment costs. Results: successful laparoscopic rate: 97. 6 % (40/42), one case required MTX treatment due to the rise of beta hCG after cornuostomy; Mean blood loss volume was 60 ml, Operating time was 58 minutes and no complication; The serum beta-hCG level returned to normal range in 3.4 weeks postoperatively, the duration of hospital stay was 3 days and treatment costs was 4 to 6 milions Vietnam dong. Conclusion: Laparoscopic surgery for the treatment of interstitial pregnancy is safe and efficient. Keywords: Interstitial pregnancy, laparoscopic surgery. ĐẶT VẤN ĐỀ Thai ngoài tử cung (TNTC) là bệnh lý nguy hiểm, là nguyên nhân tử vong hàng đầu của sản phụ trong 3 tháng đầu thai kỳ. Nguy cơ tử vong do TNTC cao gấp 10 lần so với sanh thường, và gấp 50 lần so với nạo thai. Trong đó TNTC đoạn kẽ là vị trị làm tổ cực kỳ nguy hiểm. Theo The Conwdential Enquiry into Maternal and Child health * Bộ Môn Sản, ĐH Y Dược TP Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: PGS. TS. Trần Thị Lợi, ĐT: 0913 678 064, Email: tranthiloi@hotmail.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản Và Bà Mẹ - Trẻ Em 114 (CEMACH) từ 2000–2002 báo cáo 11 ca tử vong của TNTC vỡ thì trong đó TNTC ở đoạn kẽ chiếm 4 ca. Trong TNTC đoạn kẽ thường khối thai có kích thước lớn, nồng độ β hCG huyết thanh cao, do đó điều trị ngoại khoa thường là lựa chọn thích hợp. Nhiều thập niên trước đây và ngay cả hiện nay, điều trị TNTC đoạn kẽ thường dùng phương pháp mổ hở. Phương pháp này có hiệu quả cao trong việc lấy đi triệt để mô nhau thai, phục hồi lại tốt cơ tử cung. Tuy nhiên hạn chế của phương pháp này là gây nhiều phiền toái cho BN: đau nhiều trong hậu phẫu, chậm phục hồi sinh hoạt cá nhân, tỉ lệ dùng kháng sinh điều trị cao, thời gian nằm viện kéo dài, biến chứng tắc ruột sau này và chưa kể thiếu tính thẩm mỹ. Với sự phát triển vượt bậc của phẫu thuật Nội Soi, dường như đã khắc phục được tất cả những nhược điểm của mổ hở. Tuy nhiên trong môi trường phẫu thuật hạn chế, cũng như những khó khăn trong việc phục hồi lại sự toàn vẹn của cơ tử cung bằng kỹ thuật khâu trong Nội Soi, thì liệu phẫu thuật Nội Soi có đảm bảo tính hiệu quả và an toàn trong việc điều trị TNTC đoạn kẽ không? Và đó cũng chính là lý do chúng tôi thực hiện đề tài này, nhằm đánh giá hiệu quả của phẫu thuật Nội Soi bụng trong điều trị TNTC đoạn kẽ. Ở nước ngoài đã có vài công trình nghiên cứu về vấn đề này, tuy nhiên tại Việt Nam, hiện chưa thấy có báo cáo về phẫu thuật nội soi trong TNTC đoạn kẽ. Do đó việc thực hiện nghiên cứu này trong điều kiện thực tiễn của Việt Nam là việc làm rất cần thiết nhằm tìm ra một phương pháp tối ưu cho điều trị TNTC đoạn kẽ vừa tận dụng những ưu điểm ít xâm lấn của phẫu thuật Nội Soi, vừa đảm bảo hiệu quả, an toàn cho bệnh nhân. Câu hỏi nghiên cứu chúng tôi là: phẫu thuật nội soi có hiệu quả thế nào và tính an toàn ra sao trong điều trị TNTC đoạn kẽ ống dẫn trứng? ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu đoàn hệ tiền cứu, thử nghiệm lâm sàng không nhóm chứng. Đối tượng nghiên cứu Dân số mục tiêu Bệnh nhân được chẩn đoán TNTC đoạn kẽ được thực hiện phẫu thuât nội soi bụng. Dân số nghiên cứu Bệnh nhân được chẩn đoán TNTC đoạn kẽ được thực hiện phẫu thuật nội soi bụng tại BV Từ Dũ từ 5/2009 đến 9/ 2010. Tiêu chuẩn chọn mẫu Tuổi thai: ≤ 13 tuần vô kinh. Siêu âm: khối thai ngoài ≤ 6cm, không có dịch ổ bụng lượng nhiều. Có huyết động ổn định. Tiêu chuẩn loại trừ Có huyết động không ổn định. Có bệnh lý nội khoa chống chỉ định bơm hơi ổ bụng. Siêu âm: khối thai ngoài >6cm, có dịch ổ bụng lượng nhiều. Cỡ mẫu 2 2 )1().2/1( d ppZN −−= α Với: N là cỡ mẫu tối thiếu để cho nghiên cứu có ý nghĩa thống kê; Z là trị số giới hạn của độ tin cậy, với độ tin cậy là 95%, thì Z = 1,96; d là độ chính xác tuyệt đối mong muốn, d= 0,1; p là tỉ lệ điều trị thành công, ước tính là 90%. Vậy N = (1,962 x 0,9 x 0,1) / 0,12 = 35 người, dự tính mất dấu 10%, do đó cỡ mẫu cần lấy là 40 người. Thu thập số liệu Các thông tin cá nhân được hỏi chi tiết theo mẫu có sẵn do tác giả soạn thảo. Bệnh nhân được hỏi bệnh sử, khám lâm sàng tìm các dấu hiệu trễ kinh, đau bụng, rong huyết, khối cạnh tử cung và được làm xét nghiệm: βhCG, Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học Sản Phụ Khoa 115 siêu âm, Hb, Hct trước mổ. Tác giả sẽ tham gia trực tiếp kíp mổ, đánh giá các thông số: thời gian phẫu thuật, số lượng máu mất, kích thước khối thai ngoài và các tai biến trong mổ và phương pháp phẫu thuật. Bệnh nhân được xét nghiệm lại Hb, Hct sau mổ 24giờ, βhCG sau mổ 2 ngày và được theo dõi hậu phẫu, đánh giá các tai biến gần sau mổ như: xuất huyết nội, sốt, nhiễm trùng, Thời gian nằm viện, việc sử dụng kháng sinh cũng được ghi nhận. Tác giả tư vấn, giải đáp thắc mắc, và hẹn bệnh nhân tái khám mỗi tuần, làm lại XN βhCG cho đến khi âm tính. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Từ tháng 4/2009 đến tháng 9/2010 chúng tôi tiến hành phẫu thuật nội soi cho 42 trường hợp thai đoạn kẽ, với tuổi trung bình dân số là 32 ± 5,6 tuổi, tập trung chủ yếu trong nhóm lớn hơn 25 tuổi (90,5%). Nơi cư ngụ chủ yếu là ngoại thành (64,3%), với nghề nghiệp đa số là công nhân viên và trình độ học vấn chủ yếu trên cấp 3. Đặc điểm lâm sàng Tuổi thai Tuổi thai trung bình là 7,9 ± 1,88 tuần. Tuổi thai phát hiện sớm nhất là 5 tuần, trễ nhất là 13 tuần. Triệu chứng lâm sàng Bảng 1: Tần suất các triệu chứng trong thai đoạn kẽ. Triệu chứng Số trường hợp Tỉ lệ (%) Đau bụng 30 68,2 Trễ kinh 36 81,8 Rong huyết 25 56,8 Khối cạnh tử cung đau 12 27,3 Huyết động không ổn định 0 0 Không triệu chứng 5 12 Nhận xét: Đa số bệnh nhân đến khám vì trễ kinh 81,8%, đặc biệt có 5 bệnh nhân hoàn toàn không có triệu chứng gì, chiếm 12%. Đặc điểm cận lâm sàng - βhCG Bảng 2: đặc điểm βhCG. βhCG trước mổ βhCG sau mổ 2 ngày p βhCG trung bình 15,173 ± 21,793 3,169 ± 5,051 P = 0,005 βhCG trung vị 7,328 1,440 βhCG lớn nhất 112,145 25,685 βhCG nhỏ nhất 203 21 Dùng phép kiểm Wilcoxon p = 0,0005 <0,005. Kết quả này cho thấy βhCG trước mổ và sau mổ 2 ngày khác biệt có ý nghĩa thống kê. Đặc điểm về kết quả điều trị Thời gian mổ trung bình 58,3 ± 20,3 phút. Lượng máu mất trung bình 60,24 ± 88 ml. Đặc điểm thời gian mổ và lượng máu mất theo thời điểm phẫu thuật Chúng tôi tiến hành phân nhóm bệnh nhân. Nhóm 1 được phẫu thuật trước tháng 3/2010: không khâu mũi túi trước khi xẻ hoặc cắt góc. Nhóm 2: bệnh nhân phẫu thuật từ sau tháng 3/2010: có khâu mũi túi. Chúng tôi tìm hiểu sự khác nhau giữa 2 nhóm về thời gian mổ và lượng máu mất. Bảng 3: Đặc điểm về thời gian mổ và lượng máu mất. Thời gian mổ Lượng máu mất p Nhóm 1 (n=27) 65,2 ± 21,7 74 ± 108,4 p1= 0,001 Nhóm 2 (n=15) 46 ± 9,6 34 ± 12,4 p2= 0,009 Dùng phép kiểm Mann - Whitney: p1, p2 < 0,05. Kết quả này cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về thời gian mổ và lượng máu mất giữa 2 nhóm. Thời gian βhCG âm tính, tỉ lệ điều trị thành công Trong 42 trường hợp thai đoạn kẽ, có 41 trường hợp βhCG về âm tính sau mổ. Thời gian βhCG âm tính trung bình là 3,4 ± 1,67 tuần. Có 1 trường hợp sau phẫu thuật xẻ góc, βhCG tăng lại sau mổ 2 tuần, cần dùng thêm Metrothexate 50 mg, 1 liều tiêm bắp. Bệnh nhân đáp ứng tốt, βhCG về âm tính 8 tuần sau mổ. Tỉ lệ điều trị thành công là 41/42 = 97,6%. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản Và Bà Mẹ - Trẻ Em 116 Tai biến trong mổ Trong 42 trường hợp phẫu thuật thai đoạn kẽ, chúng tôi không ghi nhận trường hợp nào có tai biến trong và sau mổ như: tổn thương hệ niệu, tổn thương hệ tiêu hóa, xuất huyết nội Thời gian nằm viện và chi phí điều trị Trong 41 trường hợp điều trị thành công, tất cả các trường hợp đều nằm viện 3 ngày, chỉ dùng kháng sinh dự phòng, chi phi điều trị dao động 4-6 triệu đồng. Đối với 1 trường hợp điều trị thất bại, thời gian nằm viện 10 ngày, chi phí điều trị 8 triệu đồng. BÀN LUẬN Đặc điểm lâm sàng Tuổi thai Tuổi thai trung bình trong nghiên cứu của chúng tôi là 7,9 ± 1,88 tuần. Đây là tuổi thai phát hiện khá sớm, khác với suy nghĩ thường gặp là thai đoạn kẽ thường được chẩn đoán muộn hơn so với vị trí khác của ống dẫn trứng. Tuổi thai trung bình trong nghiên cứu chúng tôi lớn hơn so với nghiên cứu của Tulandi (2004) (6,9 tuần) và Moon (2010) (6,7 tuần); tương đương với nghiên cứu của Soriano và MacRae (8 tuần). Nhìn chung tất cả nghiên cứu đều cho thấy: tuổi thai khi phát hiện thai đoạn kẽ là khá sớm dao động từ 6,7 đến 8,2 tuần. Khi so sánh với tuổi thai của thai ngoài tử cung ở vị trí khác của ống dẫn trứng là 7,8 ± 1 tuần, chúng tôi thấy cũng không có nhiều khác biệt. Với sự phát triển siêu âm và độ nhạy βhCG thực sự đã giúp cho thai đoạn kẽ ngày càng được chẩn đoán ở tuổi thai sớm hơn. Triệu chứng lâm sàng Trong nghiên cứu chúng tôi đa phần bệnh nhân đến khám vì triệu chứng trễ kinh chiếm tỉ lệ 81,8%. Có thể trong dân số nghiên cứu, đa phần bệnh nhân có học vấn cao và chú ý đến sức khỏe, nên hầu hết bệnh nhân đều ghi nhận được ngày kinh chót và nhận biết được dấu hiệu trễ kinh. So với những triệu chứng có trong thai ngoài tử cung ở đoạn khác của ống dẫn trứng, những triệu chứng của thai đoạn kẽ đều được ghi nhận với tần suất thấp hơn. Đặc biệt chúng tôi có 5 trường hợp bệnh nhân không có triệu chứng gì. Đối với thai đoạn kẽ, tiềm năng một thai phát triển bình thường trong giai đoạn sớm là khá cao, thai kỳ diễn tiến bình thường không triệu chứng có thể kéo dài 7-16 tuần. Do đó với tuổi thai trung bình nghiên cứu chúng tôi là 8 tuần, việc các triệu chứng lâm sàng được phát hiện ít hơn so với thai ngoài tử cung đoạn khác của ống dẫn trứng là dễ hiểu. Đặc diểm cận lâm sàng βhCG trước mổ trung bình của nghiên cứu chúng tôi: tương đồng với nghiên cứu của MacRae: 15.263 mUI/ml. Thấp hơn nghiên cứu của Soriano: 31.199 mUI/ml. Nhưng khi so sánh trung vị βhCG giữa 2 nghiên cứu thì cũng tương đương. Cao hơn nghiên cứu của Moon, có lẽ do tuổi thai dân số chúng tôi 7,9 tuần cao hơn tuổi thai trong dân số của Moon là 6,7 tuần, nên β hCG trung bình cũng cao hơn. Thời gian βhCG về âm tính trung bình là 3,4 tuần, cũng tương đương với kết quả nghiên cứu của tác giả Choi (2009) là 4 tuần(1). Đây là thời gian không dài, giúp đa số bệnh nhân có thể quay lại tái khám và tuân thủ điều trị dễ dàng. Như vậy sau mổ nội soi với thời gian chỉ 3-4 tuần, bệnh nhân có thể trở lại cuộc sống bình thường, quan hệ tình dục lại và kinh nguyệt đa số được ghi nhận một tháng sau đó. Đặc điểm kết quả điều trị Thời gian mổ và lượng máu mất trung bình Bảng 4: So sánh thời gian mổ và lượng máu mất giữa các nghiên cứu. Thời gian mổ (phút) Lượng máu mất (ml) Moon (2000) 38,3 68,3 Choi (2009)(1) 58 50 Chúng tôi (2010) 58 60 Thời gian mổ trung bình trong nghiên cứu chúng tôi ngang bằng với tác giả Choi, lâu hơn tác giả Moon, nhưng lượng máu mất chúng tôi ít hơn tác giả Moon và nhiều hơn tác giả Choi. Nói tóm lại thời gian mổ và lượng máu mất trong Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học Sản Phụ Khoa 117 nghiên cứu của chúng tôi thuộc mức độ vừa phải, có thể chấp nhận được. Lượng máu mất thuộc mức độ trung bình, không quá nhiều. Điều này có thể do trong lúc mổ chúng tôi rất cẩn trọng, chủ động cầm máu trước khi máu chảy, mà điển hình là sử dụng mũi khâu vòng đặt ở ranh giới của khối thai và phần còn lại của tử cung, trước khi cắt góc hay xẻ góc. Hơn nữa cũng giống như tác giả Moon và Choi, chúng tôi cũng dùng chất nội tiết từ thùy sau tuyến yên, tiêm tại chổ vào khối thai có tác dụng co cơ tử cung và siết các mạch máu lại. Điểm khác biệt là các tác giả nước ngoài dùng Vasopressin, còn chúng tôi do không có thuốc nên dùng Oxytocin cũng có tác dụng tương tự một phần. Thời gian mổ trung bình là 58 phút, không quá dài. Chúng tôi nghĩ rằng có thể do: trong nghiên cứu này, kích thước khối thai trung bình không quá to (34mm) và lượng máu mất không nhiều nên không tốn nhiều thời gian cầm máu. Thời gian mổ và lượng máu mất trung bình theo thời điểm phẫu thuật Khi so sánh hai nhóm bệnh nhân được phẫu thuật ở hai thời điểm trước và sau tháng 3/2010 (với khác biệt là có và không dùng mũi khâu vòng), chúng tôi nhận thấy rằng lượng máu mất giảm có ý nghĩa thống kê, từ đó thời gian mổ cũng giảm theo do không phải tốn thời gian cầm máu. Lý giải về vấn đề này, chúng tôi nhận thấy khâu mũi túi nơi ranh giới giữa khối thai ngoài và phần còn lại tử cung, đã làm hạn chế đáng kể mạch máu từ tử cung đến cung cấp cho khối thai. Về mặt giải phẫu học, thai đoạn kẽ nằm ở nơi xa nhất của tử cung, nhận máu từ nhánh buồng trứng của động mạch tử cung và nhánh tử cung của động mạch buồng trứng. Khi ta khâu cột lớp đáy của khối thai ngoài, sẽ cô lập khối thai với tử cung và chặn hết đường vào của các mạch máu này. Mũi khâu này có tác dụng như 1 ga rô cầm máu tạm thời. Nếu trong trường hợp xẻ góc bảo tồn ống dẫn trứng, mũi khâu sẽ được cắt chỉ tháo bỏ để tránh sự tắc nghẽn đầu gần của ống dẫn trứng. Trong nghiên cứu của Moon (2000) cũng cho thấy ưu việt của mũi khâu vòng với thời gian mổ và lượng máu mất lần lượt là 35 phút và 40 ml, so với nhóm chỉ dùng dao đốt lưỡng cực đơn thuần là 51 phút và 133 ml. Tỉ lệ điều trị thành công Tỉ lệ điều trị thành công chúng tôi 97,6%. Bảng 5: So sánh tỉ lệ điều trị thành công. Tỉ lệ điều trị thành công Lý do thất bại Moon (2000)[5] 23/24 = 95,8% 1 trường hợp dùng thêm MTX Tulandi (2004)[9] 10/11 = 90,9% 1 trường hợp dùng thêm MTX Soriano (2008)[8] 10/20 = 50% 4 trường hợp dùng thêm MTX 6 trường hợp chuyển mổ hở Ng (2009)[7] 42/53 = 79,2% 1 trường hợp chuyển mổ hở 1 trường hợp nội soi lại vì xuất huyết nội 9 trường hợp dùng thêm MTX MacRae (2009)[4] 9/11 = 81,8% 1 trường hợp dùng thêm MTX 1 trường hợp chuyển mổ hở Choi (2009)[1] 8/8 = 100% Chúng tôi (2010) 41/42 = 97,6% 1 trường hợp dùng thêm MTX So sánh với kết quả của các tác giả, tỉ lệ điều trị thành công trong nghiên cứu chúng tôi tương đương với tác giả Choi, Moon và Tulandi và cao hơn so với tác giả Ng, Soriano, MacRae. Như vậy với tỉ lệ điều trị thành công là 97,6%, có thể kết luận rằng phẫu thuật nội soi trong điều trị thai đoạn kẽ có hiệu quả cao. Tai biến trong và sau mổ Trong 42 trường hợp thai đoạn kẽ được phẫu thuật nội soi, không có trường hợp nào gặp tai biến trong mổ như tổn thương hệ niệu, hệ tiêu hóa, cũng như không có tai biến sau mổ như xuất huyết nội. So sánh với các nghiên cứu khác trên thế giới, cũng không ghi nhận tai biến nào trong mổ, chỉ có 1 ca phải mổ lại vì xuất huyết nội trong nghiên cứu của Ng (2009). Như vậy có thể kết luận phẫu thuật nội soi trong điều trị thai đoạn kẽ là an toàn. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản Và Bà Mẹ - Trẻ Em 118 Thời gian nằm viện và chi phí điều trị, vấn đề kháng sinh Thời gian nằm viện trung bình là 3 ngày, kết quả này cho thấy phẫu thuật nội soi trong điều trị thai đoạn kẽ có thời gian nằm viện ngắn, không khác biệt so với thời gian nằm viện chung của những phẫu thuật nội soi trong những bệnh lý khác. Ngoài ra tất cả các trường hợp đều chỉ cần dùng kháng sinh dự phòng, cho thấy ưu điểm của phẫu thuật nội soi: tỉ lệ nhiễm trùng sau mổ ít, giảm chi phí khi không cần dùng kháng sinh điều trị. Bên cạnh đó với chi phí điều trị dao động 4-6 triệu đồng, là mức giá chấp nhận được đối với đa số người dân khi tiếp nhận một phương pháp điều trị tiên tiến và an toàn. KẾT LUẬN Qua 42 trường hợp phẫu thuật nội soi trong điều trị thai đoạn kẽ. Chúng tôi rút ra được 1 số kết luận như sau: Tỉ lệ điều trị thành công là 97,6 %. Như vậy phẫu thuật nội soi trong điều trị thai đoạn kẽ có hiệu quả cao. Không có trường hợp nào gặp tai biến trong mổ như tổn thương mạch máu lớn, tổn thương hệ niệu, tổn thương đường tiêu hóa, cũng như tai biến sau mổ như xuất huyết nội Do đó phẫu thuật nội soi trong điều trị thai đoạn kẽ rất an toàn. Chi phí điều trị dao động 4-6 triệu đồng, chỉ cần dùng kháng sinh dự phòng, thời gian nằm viện 3 ngày. Như vậy phẫu thuật nội soi trong điều trị thai đoạn kẽ có thời gian hồi phục nhanh, chi phí điều trị vừa phải chấp nhận được đối với hầu hết tất cả các bệnh nhân. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 Choi YS, Eun DS, Choi J, Shin KS, Choi JH, Park HD (2009). "Laparoscopic cornuotomy using a temporary tourniquet suture and diluted vasopressin injection in interstitial pregnancy". Fertil Steril, 91(5), pp 1933-1937. 2 Elito J J and Camano L (2006). "Unruptured tubal pregnancy: different treatments for early and late diagnosis". Sao Paulo Med J, 124(6), pp 321-324. 3 Lau S and Tulandi T (1999). "Conservative medical and surgical management of interstitial ectopic pregnancy". Fertil Steril, 72(2), pp 207-215. 4 MacRae R, Olowu O, Rizzuto MJ, Odejinmi F (2009). "Diagnosis and laparoscopic management of 11 consecutive cases of cornual ectopic pregnancy". Arch Gynecol Obstet, 280(1), pp 59-64. 5 Moon H S, Choi Y J, Park YH, Kim SG (2000). "New simple endoscopic operations for interstitial pregnancies". Am J Obstet Gynecol, 182(1 Pt 1), pp 114-121. 6 Moon HS, Kim SG, Park GS, Choi JK, Koo JS, Joo BS (2010). "Efficacy of bleeding control using a large amount of highly diluted vasopressin in laparoscopic treatment for interstitial pregnancy". Am J Obstet Gynecol, 203(1), pp 30 e31-36. 7 Ng S, Hamontri S, Chua I, Chern B, Siow A (2009). "Laparoscopic management of 53 cases of cornual ectopic pregnancy". Fertil Steril, 92(2), pp 448-452. 8 Soriano D, Vicus D, Mashiach R, Schiff E, Seidman D, Goldenberg M (2008). "Laparoscopic treatment of cornual pregnancy: a series of 20 consecutive cases". Fertil Steril, 90(3), pp 839-843. 9 Tulandi T and Al-Jaroudi D (2004). "Interstitial pregnancy: results generated from the Society of Reproductive Surgeons Registry". Obstet Gynecol, 103, pp 47-50

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfhieu_qua_phau_thuat_noi_soi_trong_dieu_tri_thai_ngoai_tu_cun.pdf
Tài liệu liên quan