Xây dựng và hoàn thiện cơ chế giải
quyết hài hòa về vị trí, chức năng, vai trò
của công đoàn với tổ chức đại diện cho
người lao động
Trong thời gian tới, cần hoàn thiện
quy định của pháp luật liên quan đến vấn
đề này, bảo đảm cho Việt Nam có thể vẫn
thực hiện tốt các cam kết quốc tế liên quan
đến lao động, phát triển bền vững, đồng thời
vẫn đảm bảo được mục tiêu ổn định thể chế
chính trị của đất nước.
Theo đó, các quy định về vai trò, địa vị
pháp lý của tổ chức công đoàn sẽ phải thay
đổi cho phù hợp, tránh để trùng lặp, mâu
thuẫn với tổ chức của người lao động sẽ được
thành lập tới đây theo các cam kết quốc tế.
Hoặc sẽ phải được sửa đổi theo hướng tăng
cường khả năng cạnh tranh lành mạnh giữa
hai loại tổ chức này để có thể thu hút được
nhiều hơn sự tham gia tự nguyện của người
lao động. Đây là một vấn đề rất khó, đôi khi
cần cả sự dũng cảm và linh hoạt trong quan
niệm về vai trò, chức năng, bản chất của các
thiết chế chính trị, chính trị - xã hội cũng như
cơ chế vận hành của nó ở Việt Nam
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 288 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hoàn thiện quy định pháp luật về địa vị pháp lý của tổ chức công đoàn Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT
VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN VIỆT NAM
Tóm tắt:
Việt Nam đang từng bước chuẩn bị cho lộ trình thực hiện các cam
kết của Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình
Dương (CPTPP) đã được các bên ký kết vào tháng 3/2018, trong
đó có cam kết về quyền của người lao động thành lập công đoàn
độc lập. Tuy nhiên, những cam kết này hiện đang có "độ vênh" với
các quy định của pháp luật hiện hành. Việc sớm khắc phục những
bất cập trong quy định của pháp luật về vai trò của công đoàn trong
quan hệ lao động hiện đang là một yêu cầu bức thiết.
Phạm Thị Duyên Thảo*
* TS. Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
Abstract
Vietnam is step by step developing a roadmap for enforcement of the
commitments of the Comprehensive and Progressive Agreement for
Trans-Pacific Partnership (CPTPP) signed by the involving parties
in March 2018, including commitments on rights of workers to
establish independent trade unions. However, these commitments
have currently a "gap" in comparison with the provisions of the
applicable law. The early overcoming of shortcomings in the
provisions of the law on the trade union's role in labor relations is
currently an urgent remedy.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: công đoàn, địa vị pháp lý,
đại diện và bảo vệ quyền lợi người lao
động, tự do liên kết, yêu cầu hội nhập
quốc tế
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 12/04/2019
Biên tập : 05/05/2019
Duyệt bài : 13/05/2019
Article Infomation:
Keywords: trade union, legal status,
representation and protection of
workers' rights, freedom of association,
international integration requirements
Article History:
Received : 12 Apr. 2019
Edited : 05 May 2019
Approved : 13 May 2019
1. Địa vị pháp lý của công đoàn Việt Nam
theo quy định của pháp luật Việt Nam
Theo quy định của Hiến pháp năm
2013, “Công đoàn Việt Nam là tổ chức
chính trị - xã hội của giai cấp công nhân
và của người lao động được thành lập trên
cơ sở tự nguyện, đại diện cho người lao
động, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của người lao động; tham gia quản
lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội; tham
gia thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động
của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị,
doanh nghiệp; tuyên truyền, vận động người
lao động học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng
nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc” (Điều 10).
Như vậy, theo quy định của Hiến pháp,
một trong những vai trò của công đoàn là "đại
diện cho người lao động, chăm lo và bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động",
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
33Số 9(385) T5/2019
do người lao động thành lập trên cơ sở "tự
nguyện". Hiến pháp không giới hạn đối tượng
thuộc phạm vi đại diện của công đoàn, mà
xác định chung là "người lao động", không
phân biệt, và ai "tự nguyện" đều có quyền gia
nhập tổ chức công đoàn. Quy định này của
Hiến pháp năm 2013 thể hiện sự tương thích
với Tuyên ngôn quốc tế về Quyền con người
năm 1948 ("Mọi người đều có quyền thành
lập hoặc gia nhập công đoàn để bảo vệ quyền
lợi của mình" - Điều 23, Khoản 4), Công ước
quốc tế về các Quyền dân sự, chính trị năm
1966 ("Mọi người có quyền tự do lập hội với
người khác, kể cả quyền lập và gia nhập công
đoàn để bảo vệ lợi ích của mình" - Điều 22,
Khoản 1) và Công ước quốc tế về các Quyền
kinh tế, xã hội và văn hoá năm 1966 (“Các
quốc gia thành viên của Công ước cam kết
đảm bảo quyền của mọi người được thành lập
và gia nhập công đoàn mà mình lựa chọn, để
thúc đẩy và bảo vệ các lợi ích kinh tế và xã
hội của mình, với điều kiện là chỉ phải tuân
theo quy chế của tổ chức công đoàn đó”-
Điều 8, khoản 1).
Tuy nhiên, khoản 1 Điều 5 Luật Công
đoàn năm 2012 quy định, "người lao động
là người Việt Nam làm việc trong cơ quan,
tổ chức, doanh nghiệp có quyền thành lập,
gia nhập và hoạt động công đoàn". Điều này
có nghĩa là chủ thể có quyền thành lập, gia
nhập và hoạt động công đoàn chỉ có thể là
người lao động Việt Nam. Tại Hướng dẫn
số 238/2014/ND-TLĐ về Thi hành Điều lệ
công đoàn cũng xác định một trong những
đối tượng không kết nạp vào tổ chức Công
đoàn bao gồm "người lao động có quốc tịch
nước ngoài đang làm việc tại Việt Nam". Bên
cạnh đó, pháp luật Việt Nam cũng không
thừa nhận tổ chức nào khác có quyền đại
diện cho người lao động ngoài Công đoàn.
Như vậy, rõ ràng là đang có sự mâu thuẫn
giữa quy định của Hiến pháp 2013 với các
văn bản có hiệu lực pháp lý thấp hơn, cụ thể
là đối tượng người lao động được hưởng sự
1 Công ước số 87 và số 98 về tự do liên kết và thỏa ước lao động tập thể; Công ước số 29 và số 105 về xóa bỏ lao động
cưỡng bức và bắt buộc; Công ước số 138 và số 182 về xóa bỏ lao động trẻ em; Công ước số 100 và số 111 về xóa bỏ
phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp.
đại diện và bảo vệ quyền lợi từ Công đoàn
đã bị hạn chế.
Những phân tích trên đây cho thấy,
quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam
về quyền thành lập công đoàn còn chưa
tương thích với các văn kiện quốc tế về
quyền con người, đặc biệt là với Công ước
số 87 về quyền tự do hiệp hội và về việc bảo
vệ quyền được tổ chức năm 1948 (Điều 2:
người lao động và người sử dụng lao động,
không phân biệt dưới bất kỳ hình thức nào,
đều không phải xin phép trước mà vẫn có
quyền được tổ chức và gia nhập các tổ
chức theo sự lựa chọn của mình, với một
điều kiện duy nhất là phải tuân theo điều lệ
của chính tổ chức đó), Công ước số 98 về
quyền tổ chức và thoả ước lao động tập thể
và các thoả ước liên quan, 1949 (Điều 1:
“Những người lao động phải hưởng được
sự bảo vệ thích đáng chống lại tất cả các
hành vi phân biệt đối xử nhằm xâm phạm
đến quyền tự do công đoàn trong lĩnh vực
lao động”) và Công ước số 143 về bảo vệ
quyền của tất cả người lao động di trú và
các thành viên gia đình họ, 1990 (Điều 26,
khoản 1: các quốc gia thành viên thừa nhận
quyền của người lao động di trú và các
thành viên gia đình họ: được tham gia vào
các cuộc họp, các hoạt động của công đoàn
và của các hiệp hội khác được thành lập
theo pháp luật; được tự do tham gia bất kỳ
công đoàn hay tổ chức nào, chỉ phụ thuộc
vào quy định của các tổ chức liên quan;
được tìm kiếm sự hỗ trợ và giúp đỡ từ các
công đoàn và các hiệp hội đã đề cập...).
Mặc dù Việt Nam chưa gia nhập các
Công ước số 87, 98, 143 của Tổ chức Lao
động quốc tế (ILO), nhưng với tư cách là
một thành viên của tổ chức này, Việt Nam
có nghĩa vụ phải phải "tôn trọng, thúc đẩy và
hiện thực hóa một cách có thành ý" các công
ước cơ bản. Đây là nội dung của Tuyên bố
năm 1998 của ILO mà các quốc gia là thành
viên của ILO đã cùng nhau cam kết1.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
34 Số 9(385) T5/2019
Bên cạnh đó, mặc dù Luật Công đoàn
năm 2012 đã ghi nhận cụ thể các trường
hợp tổ chức công đoàn thực hiện vai trò đại
diện, bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người
lao động và quy định này đã thể hiện sự đa
dạng và những khía cạnh cơ bản của công
đoàn trong vai trò quan trọng nhất này của
mình, tuy nhiên, do sự thiếu nhất quán giữa
quy định của Luật với một số văn bản pháp
luật khác nên tính khả thi của quy định này
không cao. Cụ thể, về việc công đoàn tham
gia giải quyết tranh chấp lao động, Bộ luật
Lao động năm 2012 quy định: công đoàn"
tham gia, hỗ trợ giải quyết tranh chấp lao
động", "tổ chức công đoàn các cấp tham gia
với cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp và
tổ chức đại diện người sử dụng lao động để
trao đổi, giải quyết các vấn đề về lao động"
(Khoản 1, 4 Điều 188) và các bên có thể
"trực tiếp hoặc thông qua đại diện để tham
gia vào quá trình giải quyết" tranh chấp lao
động (Khoản 1 Điều 196). Như vậy, việc
tham gia của công đoàn trong các hình thức
giải quyết tranh chấp lao động vừa là quyền,
vừa là trách nhiệm. Trong thực tế, quá trình
tham gia cùng hòa giải viên cấp huyện giải
quyết tranh chấp, công đoàn chỉ tham gia
mang tính hướng dẫn, hỗ trợ hoặc đại diện
người lao động, tức là mức độ tham gia rất
ít, bởi bản thân giá trị pháp lý của biên bản
hòa giải thành không cao.
Bên cạnh đó, vai trò đại diện của Công
đoàn trong quá trình giải quyết tranh chấp
tại Tòa án mới được Bộ luật Tố tụng dân sự
(TTDS) quy định chung chung, chưa rõ về
phạm vi, tính chất các tranh chấp cũng như
mức độ đại diện với những tranh chấp tập thể.
Việc công đoàn cơ sở được giao thẩm quyền
"đại diện cho tập thể người lao động khởi
kiện tại toà án khi quyền, lợi ích hợp pháp,
chính đáng của tập thể người lao động bị xâm
phạm; đại diện cho người lao động khởi kiện
tại toà án khi quyền, lợi ích hợp pháp, chính
đáng của người lao động bị xâm phạm và
được người lao động uỷ quyền" cũng tạo nên
những bất cập nhất định. Bởi thực tế, việc ủy
quyền không hề đơn giản, nhất là với những
doanh nghiệp có số người lao động lớn, vì
theo quy định pháp luật hiện hành, người lao
động muốn ủy quyền thì từng người một phải
cùng với Chủ tịch Công đoàn, UBND xã,
phường hoặc Phòng công chứng làm giấy ủy
quyền. Trong khi đó, nếu có ủy quyền, tòa
án sẽ phải tiến hành thụ lý cho từng vụ một,
tranh chấp sẽ không còn là tranh chấp tập thể,
tức là có sự mâu thuẫn với chính các quy định
pháp luật hiện hành.
Nguyên tắc bảo đảm thực hiện hòa
giải khi giải quyết tranh chấp lao động tập
thể của Bộ luật Lao động hiện hành cũng
làm ảnh hưởng rất nhiều đến quyền của
người lao động và vai trò đại diện của tổ
chức công đoàn. Dù pháp luật đã ghi nhận
những trường hợp ngoại lệ không cần thông
qua bước hòa giải, nhưng với loại tranh chấp
lao động tập thể về quyền, các bên không có
cơ hội quyết định ngay việc lựa chọn vụ việc
của mình sẽ được giải quyết thông qua hòa
giải, trọng tài hoặc xét xử mà bắt buộc phải
thông qua quá trình hòa giải. Đây được xem
là một bất cập lớn trong quy trình giải quyết
tranh chấp, làm mất thời gian của các bên
khi phải qua nhiều bước, tổ chức đại diện
của người lao động mới có thể tiến hành thủ
tục lấy ý kiến và thông báo trước để đình
công.
Cũng liên quan đến vấn đề ủy quyền,
với những tranh chấp dạng như liên quan
đến doanh nghiệp trốn đóng bảo hiểm xã
hội, là một trong những tranh chấp theo mà
quy định của Luật Bảo hiểm xã hội (Điều
7) và Luật Công đoàn hiện hành, thì công
đoàn cơ sở hoặc công đoàn cấp trên trực
tiếp (với những đơn vị, doanh nghiệp chưa
thành lập tổ chức công đoàn cơ sở) có trách
nhiệm đại diện cho tập thể người lao động
khởi kiện ra tòa nhằm bảo vệ quyền lợi hợp
pháp của người lao động. Trong khi đó, Bộ
luật TTDS quy định, tổ chức đại diện tập
thể lao động có quyền khởi kiện vụ án lao
động trong trường hợp cần bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của tập thể người lao động
hoặc khi được người lao động ủy quyền theo
quy định của pháp luật. Điều này có nghĩa
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
35Số 9(385) T5/2019
là, muốn thụ lý đơn kiện của công đoàn liên
quan đến bảo hiểm xã hội thì công đoàn phải
được ủy quyền. Với những bất cập của cơ
chế ủy quyền như đã nêu, đã có không ít vụ
việc bị từ chối thụ lý vì lý do người khởi
kiện không có quyền khởi kiện theo quy
định tại Điều 187 Bộ luật TTDS.
Về chức năng tổ chức và lãnh đạo đình
công của công đoàn, theo quy định của pháp
luật hiện hành, sau khi Hội đồng Trọng tài
lao động cấp tỉnh ra quyết định về việc giải
quyết tranh chấp lao động tập thể mà tập thể
người lao động không nhất trí với quyết định
của Trọng tài thì họ có quyền đình công.
Quy trình đình công cần qua hai bước: đề
nghị đình công và thông báo về đình công.
Đề nghị đình công, nếu do Ban chấp
hành công đoàn cơ sở tiến hành, thì công
đoàn cơ sở phải lấy ý kiến của tập thể người
lao động bằng cách bỏ phiếu kín hoặc lấy
chữ ký để xác định số lượng người tiến hành
đình công. Cần phải có quá nửa số người
trong tập thể người lao động đồng ý mới
được đình công. Việc thông báo đình công
bằng văn bản được gửi cho cơ quan lao động
cấp tỉnh và Liên đoàn lao động cấp tỉnh. Bản
yêu cầu phải được Ban chấp hành công đoàn
cơ sở gửi cho người sử dụng lao động. Nội
dung của yêu cầu và thông báo phải thể hiện
rõ nguyên nhân, yêu cầu, thời điểm đình
công. Quy trình này theo quy định hiện hành
cần thời gian là 17 ngày và chỉ được phép
đình công liên quan đến lợi ích chứ không
cho đình công về quyền.
Những quy định trên đây là thiếu
thực tế, bởi với thời gian gần 3 tuần làm
thủ tục để có thể tiến hành một cuộc đình
công hợp pháp thì tính thời sự của nhiều
cuộc đình công đã bị ảnh hưởng; ngược lại,
nếu tổ chức đình công không đúng pháp luật
thì sẽ phải bồi thường. Trong bối cảnh chủ
thể tổ chức đình công là Công đoàn cơ sở,
với thành phần chủ yếu là các cán bộ công
2 Khó đình công đúng luật, https://nld.com.vn/cong-doan/kho-dinh-cong-dung-luat-2016111600260684.htm
đoàn không chuyên trách, hưởng lương như
những người lao động khác trong doanh
nghiệp thì việc bồi thường là rất khó khăn.
Quy định này đã ảnh hưởng đến mức độ và
vai trò tổ chức đình công của công đoàn
trong thực tế. Đây cũng là một trong những
lý do dẫn đến tình trạng, trong thời gian qua,
phần lớn các cuộc đình công ở Việt Nam là
tự phát. Cụ thể, theo thống kê của Ban Quan
hệ lao động Tổng Liên đoàn lao động Việt
Nam, trong 6 năm, từ năm 2009 đến tháng
6/2016, cả nước đã xảy ra 3.614 cuộc ngừng
việc tập thể ở 40 tỉnh, thành phố, trong đó
chủ yếu xảy ra ở Thành phố Hồ Chí Minh,
Bình Dương và Đồng Nai (chiếm 3/4 tổng
số vụ trên cả nước). Tất cả “các cuộc ngừng
việc đều tự phát mà không có sự lãnh đạo
của tổ chức Công đoàn"2.
Gần nhất, phải kể đến những khó
khăn khi Việt Nam đang trong quá trình
chuẩn bị cho lộ trình thực hiện các cam kết
của Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ
xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) đã được
các bên ký kết vào tháng 3/2018. Việc Việt
Nam tham gia vào hiệp định thương mại
tự do CPTPP đã buộc Việt Nam cùng với
các nước tham gia sẽ phải thực hiện những
tiêu chuẩn cao trong quá trình hiện thực hóa
Hiệp định. Hiệp định này không chỉ đề cập
đến các lĩnh vực truyền thống như cắt giảm
thuế quan, mở cửa thị trường dịch vụ, hàng
rào kỹ thuật thương mại liên quan mà còn
phải xử lý những vấn đề mới, phi thương
mại như lao động, môi trường, phát triển
bền vững và quản trị tốt.
Các FTA thế hệ mới không đưa ra
tiêu chuẩn riêng về lao động và môi trường,
nhưng đã khẳng định lại các tiêu chuẩn
lao động của ILO cùng các tiêu chuẩn môi
trường và phát triển bền vững của Liên hiệp
quốc. Quan điểm được đưa ra là: việc bảo
đảm quyền lợi của người lao động phải đặc
biệt được coi trọng, vì họ là những người
trực tiếp tạo ra các sản phẩm - đối tượng chủ
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
36 Số 9(385) T5/2019
yếu của các giao dịch thương mại quốc tế,
nên họ phải được đảm bảo những quyền và
điều kiện lao động, nhất là trong bối cảnh
toàn cầu hóa với nhiều thách thức và rủi ro
cho người lao động như hiện nay.
Cụ thể, sau 5 năm kể từ thời điểm ký
kết Hiệp định CPTPP, các nước tham gia
công ước trong đó có Việt Nam sẽ phải từng
bước thực hiện các cam kết tại Chương 19
(Lao động) liên quan đến công đoàn như:
đảm bảo quyền được tự do thành lập và gia
nhập tổ chức của người lao động ở cấp cơ sở
và cấp trên cơ sở; đảm bảo tính bình đẳng,
tự chủ của tổ chức của người lao động; đảm
bảo việc đình công về quyền khi có 50% và
1 thành viên Ban chấp hành của tổ chức đại
diện người lao động đồng ý.
Như vậy có nghĩa là, nếu các cam kết
trong Hiệp định được thi hành, người lao
động Việt Nam sẽ có quyền thành lập một
tổ chức đại diện của mình, dạng như tổ chức
công đoàn độc lập, khác với tổ chức công
đoàn theo pháp luật hiện hành. Tổ chức công
đoàn này sẽ tự chủ trong các hoạt động: bầu
Ban chấp hành, xây dựng và hoạt động theo
Điều lệ riêng, có quyền yêu cầu và nhận hỗ
trợ từ các tổ chức hoạt động về lao động của
quốc gia hoặc của quốc tế đang hoạt động
hợp pháp tại Việt Nam, được chia sẻ khoản
kinh phí công đoàn mà người sử dụng lao
động đóng. Đặc biệt, người lao động có
thể lựa chọn gia nhập tổ chức công đoàn
hiện nay hoặc tổ chức đại diện của người
lao động. Nếu tổ chức của người lao động
không tham gia vào hệ thống của Tổng Liên
đoàn lao động Việt Nam thì sẽ không phải
thực hiện các trọng trách chính trị như quy
định của Hiến pháp và pháp luật hiện hành.
Tất cả những cam kết phải hiện thực
hóa nêu trên đang có "độ vênh" với các quy
định của pháp luật Việt Nam. Vì vậy, việc
sớm khắc phục những bất cập trong quy
định của pháp luật về vai trò của công đoàn
3 Webb, Sidney; Webb, Beatrice (1920). History of Trade Unionism. Longmans, Green and Co. London. ch. I
đối với quan hệ lao động là một yêu cầu bức
thiết hiện nay.
2. Giải pháp khắc phục bất cập trong quy
định của pháp luật về địa vị pháp lý của
tổ chức công đoàn
2.1 Đổi mới nhận thức về vai trò của tổ
chức công đoàn
Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam và
các tổ chức thành viên có tiền thân là Tổng
Công hội Đỏ Bắc Kỳ và những tổ chức Công
hội đỏ ở các địa phương. Đây là một tổ chức
chính trị - xã hội rộng lớn, có vai trò lịch
sử vĩ đại trong việc vận động đoàn kết công
nhân lao động thực hiện thắng lợi đường lối
của Đảng qua các giai đoạn cách mạng, góp
phần to lớn vào công cuộc giải phóng dân
tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.
Trải qua hơn ba thế kỷ phát triển, ở
mỗi quốc gia, dù quy chế pháp lý cụ thể cho
tổ chức công đoàn không giống nhau, nhưng
về cơ bản, vai trò của công đoàn thường thể
hiện ở những khía cạnh như: đại diện cho
người lao động; cung cấp các dịch vụ và lợi
ích dự phòng; thương lượng tập thể; hành
động áp lực; thực hiện các hoạt động mang
tính chính trị, tác động đến chính sách, pháp
luật của nhà nước; đồng thời bồi dưỡng và
giáo dục chương trình hành động của công
đoàn đối với các thành viên công đoàn... Tất
cả các khía cạnh đó đều được tiến hành với
mục đích trước hết là "duy trì hay cải thiện
các điều kiện thuê mướn họ"3.
Theo thời gian, với sự phát triển vượt
trội của nền công nghiệp toàn cầu, các công
đoàn còn "đấu tranh để loại bỏ sự lạm dụng
của xã hội công nghiệp và cải thiện cuộc
sống của người lao động bằng cách tìm
kiếm mức lương cao hơn và điều kiện làm
việc tốt hơn cho các thành viên của mình.
Công đoàn đã trở thành một phần không thể
thiếu của xã hội công nghiệp vì họ không
tìm cách tiêu diệt chủ nghĩa tư bản mà tìm
cách để người lao động trở lên nhanh nhạy
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
37Số 9(385) T5/2019
hơn với nhu cầu và lợi ích của chính người
lao động"4.
Hiện nay, những tác động của toàn cầu
hóa, hội nhập quốc tế, sự bùng nổ của các
thành tựu khoa học công nghệ đối với người
lao động và là vô cùng lớn. Họ cần phải đáp
ứng ngày càng nhiều hơn những đòi hỏi của
thị trường lao động chất lượng cao. Làn
sóng lao động di cư quốc tế cũng tác động
đa chiều lên giá trị sức lao động. Với tư cách
đại diện và bảo vệ quyền lợi cho người lao
động, các tổ chức công đoàn ngày càng phải
gia tăng vai trò của mình, bởi, "toàn cầu hóa
kinh tế làm trầm trọng thêm sự phân mảnh
lao động theo nhiều cách, nhưng đồng thời
nó tạo ra sự tương đồng về kinh nghiệm và
nguyện vọng của người lao động không chỉ
trong khu vực mà cả trên toàn thế giới"5.
Do đó, ở Việt Nam hiện nay, cần có một
sự đổi mới về nhận thức về vị thế, vai trò của
tổ chức công đoàn: công đoàn cần thể hiện
được trọn vẹn vai trò đại diện và bảo vệ lợi
ích cho người lao động, chỉ có như vậy, các
chức năng khác của nó sẽ theo đó mà thiết
thực hơn; cần có sự phân biệt vai trò của công
đoàn cấp trên với vai trò của công đoàn cơ sở;
công đoàn cơ sở phải thực sự là tổ chức của
người lao động, do người lao động tự nguyện
thành lập, lựa chọn gia nhập
Theo đó, những hoạt động thể hiện
chức năng đại diện, bảo vệ quyền lợi cho
người lao động của tổ chức công đoàn cơ sở
cũng cần được nhận thức đúng đắn hơn, điển
hình như việc công đoàn tổ chức và lãnh đạo
đình công. Với những bất cập trong quy định
của pháp luật hiện nay, đình công hiện chưa
được nhìn nhận là một tất yếu khách quan,
một quyền cơ bản của người lao động. Khi
những xung đột giữa người lao động và sử
dụng lao động vốn luôn tồn tại và thực tế đã
chứng minh, chỉ khi công việc bị ngừng lại,
4 Bentley, Traditions & Encounters: A Global Perspective on the Past UPDATED AP Edition, 2017, 6e, Student Edition,
6th Edition, p.23
5 Anastasia V. Kouznetsova, New role of the Labor Confederation in the era of globalization: Migrant Labor and Labor
Protection Federation, Labor Law Department, Law Institute, Far Eastern National University, p.15
chủ sử dụng lao động mới phải xem xét, cân
nhắc, thay đổi các vấn đề liên quan để cho
công việc đó được triển khai bình thường.
Do vậy, đình công và tổ chức đình công
không nên bị nhìn nhận một cách tiêu cực là
sự bất ổn về chính trị, an ninh trật tự, mà cần
nhìn nhận như một công cụ của người lao
động, cần có cơ chế để người lao động và tổ
chức đại diện quyền lợi của họ sử dụng công
cụ này hiệu quả và hợp pháp.
2.2 Xây dựng cơ chế tài chính độc lập cho hoạt
động của công đoàn và các thành viên
Luật Công đoàn năm 2012 quy định
"kinh phí công đoàn do cơ quan, tổ chức,
doanh nghiệp đóng bằng 2% quỹ tiền lương
làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội cho người
lao động". Bộ luật Lao động hiện hành quy
định: "công đoàn cơ sở được người sử dụng
lao động bố trí nơi làm việc và được cung
cấp thông tin, bảo đảm các điều kiện cần
thiết cho hoạt động công đoàn; cán bộ công
đoàn không chuyên trách được sử dụng thời
gian trong giờ làm việc để hoạt động công
đoàn theo quy định của Luật Công đoàn và
được người sử dụng lao động trả lương; cán
bộ công đoàn chuyên trách tại doanh nghiệp,
cơ quan, tổ chức do công đoàn trả lương,
được người sử dụng lao động bảo đảm phúc
lợi tập thể như người lao động làm việc
trong doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức theo
thoả ước lao động tập thể hoặc quy chế của
người sử dụng lao động" (Điều 193). Những
quy định này đã tạo nên sự phụ thuộc của
công đoàn, thành viên công đoàn vào người
sử dụng lao động. Do đó, trong quá trình
đại diện và bảo vệ quyền lợi cho người lao
động, công đoàn không tạo được thế cân
bằng và ít khi dám đứng hẳn về phía người
lao động vì quyền lợi, thậm chí cả việc có
tồn tại được hay không, phụ thuộc cơ bản
vào chủ sử dụng lao động.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
38 Số 9(385) T5/2019
Theo quy định của ILO (Công ước số
98), một trong những yếu tố tiên quyết cần
được đặt lên hàng đầu để công đoàn hoạt
động hiệu quả là sự độc lập về tài chính với
người sử dụng lao động. Tổ chức đại diện
tập thể người lao động do người lao động
tự lập nên, tự chi trả kinh phí hoạt động,
vậy nên chỉ khi nào công đoàn được tồn
tại, được hưởng lợi từ người lao động thì tổ
chức đại diện mới sống với cuộc sống của
người lao động mới toàn tâm toàn ý phục vụ
người lao động. Như vậy, cần sửa đổi quy
định của pháp luật hiện hành đảm bảo cho tổ
chức và thành viên của công đoàn độc lập về
tài chính, qua đó công đoàn mới có thể hoạt
động hiệu quả. Khi đó, việc tự nguyện thành
lập các loại tổ chức công đoàn cơ sở, quyền
tự do lựa chọn, gia nhập bất kỳ một tổ chức
công đoàn nào của người lao động sẽ không
còn là điều quá xa lạ. Đó cũng chính là việc
đáp ứng đòi hỏi bức thiết từ thực tiễn cuộc
sống, một trong những động lực của sự phát
triển xã hội.
2.3 Xây dựng và hoàn thiện cơ chế giải
quyết hài hòa về vị trí, chức năng, vai trò
của công đoàn với tổ chức đại diện cho
người lao động
Trong thời gian tới, cần hoàn thiện
quy định của pháp luật liên quan đến vấn
đề này, bảo đảm cho Việt Nam có thể vẫn
thực hiện tốt các cam kết quốc tế liên quan
đến lao động, phát triển bền vững, đồng thời
vẫn đảm bảo được mục tiêu ổn định thể chế
chính trị của đất nước.
Theo đó, các quy định về vai trò, địa vị
pháp lý của tổ chức công đoàn sẽ phải thay
đổi cho phù hợp, tránh để trùng lặp, mâu
thuẫn với tổ chức của người lao động sẽ được
thành lập tới đây theo các cam kết quốc tế.
Hoặc sẽ phải được sửa đổi theo hướng tăng
cường khả năng cạnh tranh lành mạnh giữa
hai loại tổ chức này để có thể thu hút được
nhiều hơn sự tham gia tự nguyện của người
lao động. Đây là một vấn đề rất khó, đôi khi
cần cả sự dũng cảm và linh hoạt trong quan
niệm về vai trò, chức năng, bản chất của các
thiết chế chính trị, chính trị - xã hội cũng như
cơ chế vận hành của nó ở Việt Nam
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Sắc lệnh số 29-SL về Quyền của những người làm công, Điều 159, 160
2. Công ước số 87 và số 98 của ILO về tự do liên kết và thỏa ước lao động tập thể;
3. Công ước số 29 và số 105 của ILO về xóa bỏ lao động cưỡng bức và bắt buộc;
4. Công ước số 138 và số 182 của ILO về xóa bỏ lao động trẻ em;
5. Công ước số 100 và số 111 của ILO về xóa bỏ phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp.
6. Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị, 1966
7. Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá, 1966
8. Hiến pháp năm 2013
9. Luật Công đoàn 1957.
10. Luật Công đoàn 1990
11. Luật Công đoàn 2012
12. Quyết định số 254/QĐ-TLĐ ngày 05/3/2014 ban hành Quy định về Công đoàn giải quyết và tham gia giải
quyết khiếu nại.
13. Nghị định số 43/2013/NĐ-CP ngày 10/5/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành điều 10 của Luật
Công đoàn.
14. Nghị định số 191/2013/NĐ-CP ngày 21/11/2013 của Chính phủ quy định chi tiết về tài chính công đoàn, Bộ
luật Lao động năm 2012.
15. Tuyên ngôn quốc tế về Quyền con người 1948
16. Hướng dẫn số 238/2014/ND-TLĐ về Thi hành Điều lệ công đoàn
17. Webb, Sidney; Webb, Beatrice (1920). History of Trade Unionism. Longmans, Green and Co. London.
18. Bentley, Traditions & Encounters: A Global Perspective on the Past UPDATED AP Edition, 2017, 6e,
Student Edition, 6th Edition
19. Anastasia V. Kouznetsova, New role of the Labor Confederation in the era of globalization: Migrant Labor
and Labor Protection Federation, Labor Law Department, Law Institute, Far Eastern National University
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
39Số 9(385) T5/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hoan_thien_quy_dinh_phap_luat_ve_dia_vi_phap_ly_cua_to_chuc.pdf