Kế hoạch xuất khẩu hàng dệt may trong thương mại quốc tế Việt NamLỜI MỞ ĐẦU
PHẦN THỨ HAI: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
I.Vai trò của kế hoạch xuất khẩu đối với phát triển kinh tế xã hội
1. Vai trò của kế hoạch xuất khẩu đối với phát triển kinh tế xã hội
1.1. Vai trò của xuất khẩu hàng hoá
1.2. Kế hoạch xuất khẩu hàng hoá
1.3. Vai trò của kế hoạch xuất khẩu hàng hoá
2.Vai trò của kế hoạch xuất khẩu dệt may
2.1.Vai trò của dệt may xuất khẩu
2.2. Ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam
2.2.1. Đặc trưng của ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam
2.2.2. Những cơ hội và thách thức của ngành dệt may xuất khẩu
Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế
2.3. Vai trò của kế hoạch xuất khẩu hàng dệt may
3. Nội dung của kế hoạch xuất khẩu hàng dệt may giai đoạn 2006-2010
3.1. Mục tiêu chung cho hoạt động xuất khẩu
3.2. Nhiệm vụ cho hoạt động xuất khẩu hàng dệt may
3.3. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may
3.4. Cơ cấu sản xuất hàng xuất khẩu
3.5. Thị trường xuất khẩu chủ yếu
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY Ở VIỆT NAM
I. Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch xuất khẩu hàng dệt may giai đoạn 2001-2005
1. Tổng quan về hoạt động xuất khẩu giai đoạn 2001-2005
2. Tình hình thực hiện kế hoạch xuất khẩu hàng dệt may
2.1. Những thành tựu đạt được
2.2. Những hạn chế
2.2.1. Về sản xuất hàng dệt may xuất khẩu
2.2.2. Về năng lực cạnh tranh
3. Đánh giá bài học kinh nghiệm
II. Kế hoạch xuất khẩu hàng hàng dệt may Việt Nam giai đoạn 2006-2010
1. Tình hình thực hiện kế hoạch xuất khẩu hàng dệt may năm 2006
2. Tình hình thực hiện kế hoạch xuất khẩu hàng dệt may 9 tháng đầu năm 2007
2.1. Tổng quan về ngành dệt may 9 tháng đầu năm
2.2. Kết quả hoạt động xuất khẩu hàng dệt may 9 tháng đầu năm của Tập đoàn dệt may Việt Nam
CHƯƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN KẾ HOẠCH XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM
1. Xu hướng phát triển của thị trường hàng dệt may xuất khẩu
2. Giải pháp
2.1. Giải pháp cho việc sản xuất hàng dệt may xuất khẩu
2.2. Giải pháp về nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng dệt may xuất khẩu
PHẦN 3: KẾT LUẬN
38 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1919 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Kế hoạch xuất khẩu hàng dệt may trong thương mại quốc tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n công nghiệp Việt Nam, là ngành sản xuất mũi nhọn, có tiềm lực phát triển khá.
Việt Nam là nước có tiềm năng lớn về dệt may. Với trên 80 triệu dân, đa số là dân số trẻ, giá nhân công rẻ, chi phí thấp, có nguồn nguyên liệu tại chỗ... là lợi thế cạnh tranh lớn so với các quốc gia khác. Việt Nam hiện có hàng ngàn nhà máy dệt may, thu hút gần 2 triệu lao động, chiếm trên 22% tổng số lao động trong toàn ngành công nghiệp. Sản lượng sản xuất hàng năm đều tăng với tốc độ trên hai con số.
Trong Chiến lược phát triển ngành dệt may Việt đến năm 2010, đã được Chính phủ phê duyệt, mục tiêu kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 10 tỷ đô la Mỹ, thu hút từ 4 đến 4,5 triệu lao động, tỷ lệ giá trị sử dụng nguyên phụ liệu nội địa ở sản phẩm dệt may xuất khẩu đạt trên 75% là hoàn toàn có khả năng thực hiện được.
Tuy nhiên, trong xu thế hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, đặc biệt sau khi gia nhập WTO thì ngành dệt may Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức. Dệt may Việt phải cạnh tranh ngang bằng với các cường quốc xuất khẩu lớn, đặc biệt từ phía Trung Quốc. Hạn ngạch dệt may của Trung Quốc vào thị trường EU hết hạn. Hàng rào bảo hộ tại thị trường nội địa sẽ không còn. Thuế XNK hàng dệt may từ các nước ASEAN vào Việt Nam cũng sẽ giảm từ 40-50% xuống tối đa còn 5% nên hàng dệt may Việt phải cạnh tranh quyết liệt với hàng nhập từ các nước trong khu vực ngay tại thị trường nội địa.
Giá sản phẩm phải giảm liên tục do áp lực cạnh tranh, trong khi giá nguyên liệu lại tăng cao. Hàng trốn lậu thuế, hàng cũ… từ nước ngoài tràn vào từ nhiều nguồn, giá rất rẻ đã làm cho sản xuất trong nước bị ảnh hưởng. Mặt khác, hệ thống bán buôn, bán lẻ hàng vải sợi may mặc trong nước chưa có tổ chức, để thả nổi cho một số tư thương. Quy mô ngành dệt may Việt còn nhỏ bé, thiết bị và công nghệ khâu kéo sợi và dệt vải lạc hậu, chỉ đáp ứng dược một phần công suất dệt, không cung cấp được vải cho khâu may xuất khẩu; chủ yếu làm gia công, nguyên liệu hầu như hoàn toàn nhập khẩu từ nước ngoài...
2.2.1. Đặc trưng của ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam
So với nhiều nghành khác, ngành dệt may ở Việt Nam là ngành công nghiệp truyển thống có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển. Từ khi đổi mới ngành công nghiệp dệt may không ngừng phát triển cả về quy mô, năng lực sản xuất, trình độ công nghệ trang thiết bị, ngày một tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng sản phẩm. Cho đến nay, sản phẩm dệt may Việt Nam đã đáp ứng được phần lớn nhu cầu trong nước và có khả năng xuất khẩu lớn sang các thị trường khó tính như: EU, Nhật Bản, Bắc Mỹ… Việc xuất khẩu hàng dệt may đã đem lại một khoản ngoại tệ rất đáng kể để đổi mới và nâng cấp toàn bộ trang thiết bị công nghệ của ngành dệt may. Trong thời gian qua kim ngạch xuất khẩu của ngành này tuy thấp hơn dầu thô nhưng luôn đứng đầu tất cả các ngành chế biến trong cả nước. Ngành dệt may không chỉ đem lại nguồn tích luỹ cho đất nước mà còn góp phần quan trọng giải quyết việc làm, mang lại thu nhập cao cho người lao động, tạo sự ổn định kinh tế, chính trị, xã hội. Nước ta có dân số đông, nguồn lao động dồi dào, người Việt Nam lại có truyền thống cần cù sang tạo. Mặt khác, gía cả sinh hoặt thấp, chi phí lao động hạ, tạo điều kiện thuận lợi cho hàng dệt may có ưu thế cạnh tranh. Đặc điểm của ngành dệt may không đòi hỏi vốn đầu tư lớn, quay vòng vốn nhanh, đội ngũ công nhân lành nghề có thể sản xuất được những sản phẩm chất lượng cao nếu được đào tạo tốt. Hơn nữa, Việt Nam còn có vị trí địa lý và cửa khẩu rất thuận lợi cho việc chuyên chở hàng hoá bằng đường biển nên giảm được chi phí vận tải.Bên cạnh đó Việt Nam nằm trong khu vực các nước xuất khẩu lớn hàng dệt may như: Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, nên ngành công nghiệp Việt Nam đang là một thị trường hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Như vậy có thể nói, phát triển ngành hàng dệt may Việt Nam là phát huy tối đa những lợi thế hiện nay để phát triển kinh tế, thực hiện thành công mục tiêu công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước.
Phương thức xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam có ba phương thức xuất khẩu chủ yếu là:
Thứ nhất, là phương thức gia công xuất khẩu, đây là phương thức kinh doanh mà theo đó bên đặt gia công( các khách hàng nước ngoài) chịu trách nhiệm cung cấp toàn bộ vải và phụ liệu cho bên nhân gia công theo định mức tiêu hao nguyên liệu; còn bên nhận gia công( là các doanh nghiệp may Việt Nam) có nghĩa vụ tiến hành sản xuất để giao lại sản phẩm và được nhận một khoản tiền công theo hợp đồng thoả thuận. Trong những năm 1995-2002 hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam tiến hành chủ yếu qua phương pháp này. Cụ thể hơn, phương thức này chiếm gần 80% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt hàng năm.
Thứ hai, là phương thức xuất khẩu trực tiếp còn gọi là “ tự doanh” hay “mua đứt bán đoạn” là phương thức chiến lược của ngành dệt may Việt Nam trong giai đoạn 2000-2010. Hiện nay phương thức này chỉ chiếm hơn 20% kim ngạch xuất khẩu hàng năm. Các doanh nghiệp Việt Nam đang cố gắng tăng dần tỷ trọng của phương thức xuất khẩu này.
Phương thức thứ ba, là xuất khẩu gián tiếp là hình thức giao dịch qua trung gian tức là mọi việc kiến lập quan hệ giữa người bán và người mua và việc quy định các điều kiện mua bán phải thông qua người thứ ba. Trong các trường hợp ở đó đại lý hoặc môi giới xuất khẩu nắm quyền sở hữu hàng hoá, doanh nghiệp không phải chịu rủi ro đối với hoạt động xuất khẩu và phải mất thời gian chờ đợi. Xuất khẩu với hình thức này được so sánh như bán hàng ở trong nước.
2.2.2. Những cơ hội và thách thức của ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế
Việt Nam đã và đang tích cực tham gia vào xu thế hội nhập, từng bước kí kết các hiệp định thương mại song phương và đa phương. Đến nay, nước ta đã là thành viên của các tổ chức: AFTA, APEC, WTO. Chúng ta đã ký kết hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ, các quan hệ thương mại với Nhật Bản, EU, Nga, Trung Quốc…tiếp tục được mở rộng. Trong điều kiện nền kinh tế mở, hội nhập thì các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh nghiệp dệt may nói riêng sẽ có thêm nhiều cơ hội mới để phát triển, tuy nhiên bên cạnh đó cũng có không ít những thách thức mà chúng ta phải vượt qua.
* Những cơ hội
Hội nhập quốc tế tạo khả năng mở rộng thị trường ra nước ngoài trên cơ sở các hiệp định thương mại đã ký kết với các nước. Từ năm 2020, hàng rào thuế quan của các nước APEC sẽ được dỡ bỏ, đây là cơ hội cho ngành dệt may xuất khẩu sản phẩm sang các nước thành viên APEC.
Hội nhập kinh tế là con đường khai thông thị trường nước ta với khu vực và thế giới, tạo môi trường đầu tư hấp dẫn, có hiệu quả. Các nhà đầu tư nước ngoài sẽ mang vốn và công nghệ vào nước ta, sử dụng lao động và tài nguyên sẵn có của chúng ta làm ra các sản phẩm trên thị trường khu vực và thế giới. Đây là cơ hội để ngành dệt may huy động và sử dụng vốn có hiệu quả. Hơn nữa, sự đầu tư nước ngoài vào Việt Nam giúp ngành dệt may có thể tranh thủ được kỹ thuật, công nghệ tiên tiến của các nước phát triển nhằm phát triển năng lực kỹ thuật công nghệ của chính ngành mình và của cả quốc gia. Nếu ngành dệt may tận dụng tốt cơ hội này họ sẽ khắc phục được hạn chế, đổi mới công nghệ, vươn lên cạnh tranh tốt với các đối thủ khác.
Thông qua hội nhập, chúng ta có cơ hội mở rộng giao lưu nguồn lực của nước ta với các nước khác. Chúng ta có thể xuất khẩu lao động hoặc sử dụng lao động thông qua các hợp đồng gia công chế biến hàng xuất khẩu đồng thời nhập khẩu lao động có kỹ thuật cao, các công nghệ mới, các phát minh sáng chế mà nước ta chưa có. Bên cạnh đó, giá nguyên liệu đầu vào rẻ hơn khắc phục được khó khăn do khan hiếm nguyên liệu cho sản xuất.
Ngành dệt may Việt Nam sẽ trải qua quá trình sang lọc tự nhiên thông qua cạnh tranh quốc tế. Những doanh nghiệp xưa nay làm ăn thua lỗ nhưng vẫn được trợ cấp sẽ nhanh chóng bị thay thế bởi những doanh nghiệp nước ngoài hay doanh nghiệp trong nước có đủ khả năng cạnh tranh. Nhờ đó, sản phẩm xuất khẩu trong nước sẽ hiệu quả hơn và thích ứng nhanh hơn với các điều kiện thay đổi quốc tế. Trên cơ sở đó từng bước nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Như vậy, hội nhập sẽ tạo ra một môi trường kinh doanh công bằng, nhà nước chỉ tác động bằng công cụ chính sách, đồng thời hội nhập cũng làm tăng sức cạnh tranh cho ngành, mở ra cơ hội kinh doanh trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên với năng lực còn non kém của mình, ngành dệt may xuất khẩu của chúng ta phải đương đầu với không ít những thách thức.
* Những thách thức
Thách thức trước hết là sự cạnh tranh gay gắt của các nước xuất khẩu hàng dệt may hiện nay. Đó là Trung Quốc với ưu thế phong phú về chủng loại hàng hoá giá rẻ. Đó còn là Hàn Quốc, Ấn Độ, Đài Loan, Hồng Kông, Inđônêxia, Thái Lan Philippin, những nước xuất khẩu lớn và có sẵn thị trường tiêu thụ. Tuy họ có giá nhân công cao hơn nhưng nhờ họ có ưu thế tự túc được nguyên liệu vải và các phụ kiện may chất lượng cao nên đã góp phần làm giảm giá thành sản phẩm, tạo lên nhiều nhãn hiệu uy tín. Ngoài ra các nước khác ngoài Châu Á như Mêhicô, Ba Lan, Bungari… cũng đang là những quốc gia có điều kiện thuận lợi để gia tăng xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Bắc Mỹ, EU, Nhật Bản. Họ cũng là đối thủ cạnh tranh khá mạnh trong lĩnh vực này
Thách thức thứ hai là tính phức tạp của hệ thống luật quốc tế cũng như luật thương mại Mỹ với những đòi hỏi khắt khe đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Trong khi đó Việt Nam, một nước chậm phát triển đang trong quá trình chuyển đổi, khi tham gia vào thị trường thế giới buộc phải tuân thủ theo các nguyên tắc trên để tự bảo vệ mình. Mặt khác, những nhà hoạch định chính sách của Mỹ vẫn chưa hết những quan niệm cũ về một nươcs Việt Nam mới trong quan hệ hiện nay với chúng ta.
Thứ ba là sự quản lý chồng chéo của các bộ hữu quan đối với ngành dệt may khiến cho cơ cấu tổ chức thiếu năng động, dễ tuột mất những cơ hội tốt, những cơ hội ngàn năm cho sự phát triển.
Thách thức và cơ hội thường là hai mặt đối lập của quá trình phát triển mà chúng ta phải xem xét một cách toàn diện trong phương pháp tiếp cận. Như vậy đối với nền kinh tế nói chung và dệt may xuất khẩu nói riêng chúng ta cần phải có những biện pháp nhằm tận dụng tốt hơn những cơ hội, đương đầu với thách thức để có thể đưa ngành dệt may xuất khẩu của chúng ra phát triển nhanh và hiệu quả hơn trong khung cảnh kinh tế mở như hiện nay.
2.3. Vai trò của kế hoạch xuất khẩu hàng dệt may
Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của WTO, chúng ta đang trên lộ trình thực hiện việc dỡ bỏ hàng rào thuế quan và trợ cấp đối với các mặt hàng xuất khẩu. Chính những điều đó tạo lên không ít những thuận lợi, khó khăn cho ngành sản xuất hàng dệt may xuất khẩu của chúng ta. Và hơn lúc nào hết kế hoạch xuất khẩu hàng dệt may càng phải thể hiện rõ nét vai trò của nó để định hướng và hướng dẫn cho các hoạt động xuất khẩu hàng dệt may
Trước hết là trong việc xác định quy mô và tốc độ xuất khẩu hàng dệt may. Phải phản ánh được sự đóng góp to lớn của dệt may xuất khẩu vào kim ngạch xuất khẩu của nền kinh tế. Thể hiện vai trò chủ đạo của mặt hàng này trong cán cân xuất khẩu. “Phấn đấu đến năm 2010 phát triển ngành dệt may trở thành một trong những ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu; thoả mãn ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng trong nước; tạo nhiều việc làm cho xã hội; nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập vững chắc kinh tế khu vực và trên thế giới.” Kim ngạch xuất khẩu đạt 8000-9000 triệu USD
Sau đó là đến vấn đề xác định danh mục sản phẩm hàng dệt may xuất khẩu chủ yếu. Với nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng ở các thị trường nhập khẩu hàng dệt may của chúng ta, kế hoạch xuất khẩu hàng dệt may đưa ra các chỉ tiêu cho từng loại sàn phẩm chủ yếu và chúng đảm bảo phát huy được lợi thế về nguồn lao động đồng thời phải nâng cao năng suất lao động tăng gía trị tăng thêm trên mỗi đơn vị sản phẩm.
Cuối cùng là việc định hướng các thị trường xuất khẩu. Kế hoạch xuất khẩu hàng dệt may phải có những dự báo về sự biến động ở các thị trường này, xác định thị trường chủ yếu để từ đó chúng ta có những kế hoạch sản xuất đáp ứng tốt nhất nhu cầu ở các thị trường này.
3. Nội dung của kế hoạch xuất khẩu hàng dệt may giai đoạn 2006-2010
3.1. Mục tiêu chung cho hoạt động xuất khẩu
Phát triển xuất khẩu với tốc độ tăng trưởng cao và bền vững, làm động lực thúc đẩy tăng trưởng GDP. Đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng và các sản phẩm dịch vụ có lợi thế cạnh tranh đồng thời tích cực phát triển các mặ hàng khác có tiềm năng thành những mặt hàng xuất khẩu chủ lực mới, theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng có giá trị gia tăng cao; tăng sản phẩm chế biến và chế tạo, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và tri thức cao, giảm dần tỷ trọng hàng thô. Phấn đấu đưa tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá đạt 68-69 tỷ USD vào năm 2010, và 259 tỷ USD trong 5 năm 2006-2010, gấp 2,3 lần so với 5 năm trước và tốc độ tăng 16%/năm
3.2. Nhiệm vụ cho hoạt động xuất khẩu hàng dệt may
Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của WTO, do đó xuất khẩu dệt may của nước ta ra thị trường thế giới sẽ gặp nhiều thách thức, đặc biệt là cạnh tranh với các nước trong khu vực Châu Á. Để nâng cao sức cạnh tranh của hàng dệt may nước ta, cần thực hiện nhiều biện pháp đồng bộ, từ hạ giá thành sản xuất, đa dạng hoá kiểu dáng, mẫu mã, cho tới liên kết hợp tác trong ngành, xây dựng thương hiệu, tập trung vào thị trường có lợi thế, hình thành các trung tâm giao dịch, các chợ đầu mối cung cấp nguyên, phụ liệu may. Dự kiến xuất khẩu dệt may 2006-2010 tăng 15,6%/năm, năm 2010 khoảng 10 tỷ USD.
3.2. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may
Bảng kế hoạch xuất khẩu hàng dệt may giai đoạn 2006-2010
Năm
2006
2007
2008
2009
2010
Tốc độ tăng bình quân(%)
Xuất khẩu(triệu USD)
5.400
6.000
7.000
8.000
10.000
15,6
3.2. Cơ cấu sản xuất hàng xuất khẩu
Đối với ngành dệt, bao gồm: sản xuất nguyên liệu dệt, sợi, dệt, in nhuộm hoàn tất:
- Kinh tế nhà nước làm nòng cốt, giữ vai trò chủ đạo; khuyến khích các thành phần kinh tế, kể cả đầu tư trực tiếp của nước ngoài tham gia phát triển lĩnh vực này.
- Đầu tư phát triển phải gắn với bảo vệ môi trường; quy hoạch xây dựng các cụm công nghiệp sợi, dệt, in nhuộm hoàn tất ở xa các trung tâm đô thị lớn.
- Tập trung đầu tư trang thiết bị hiện đại, công nghệ cao, kỹ thuật tiên tiến, trình độ chuyên môn hoá cao. Chú trọng công tác thiết kế các sản phẩm dệt mới, nhằm từng bước củng cố vững chắc uy tín nhãn mác hàng dệt Việt Nam trên thị trường quốc tế.
- Tổ chức lại hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế, tạo bước nhảy vọt về chất lượng, tăng nhanh sản lượng các sản phẩm dệt, nhằm đáp ứng nhu cầu xuất khẩu.
Đối với ngành may:
- Đẩy mạnh cổ phần hoá những doanh nghiệp may mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển ngành may, nhất là ở các vùng đông dân cư, nhiều lao động.
- Đẩy mạnh công tác thiết kế mẫu thời trang, kiểu dáng sản phẩm may. Tập trung đầu tư, cải tiến hệ thống quản lý sản xuất, quản lý chất lượng, áp dụng các biện pháp tiết kiệm nhằm tăng nhanh năng suất lao động, giảm giá thành sản xuất và nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm may Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Đẩy mạnh đầu tư phát triển các vùng trồng bông, dâu tằm, các loại cây có xơ, tơ nhân tạo, các loại nguyên liệu, phụ liệu, hoá chất, thuốc nhuộm cung cấp cho ngành dệt may nhằm tiến tới tự túc phần lớn nguyên liệu, vật liệu và phụ liệu thay thế nhập khẩu.
Khuyến khích mọi hình thức đầu tư, kể cả đầu tư nước ngoài, để phát triển cơ khí dệt may, tiến tới cung cấp phụ tùng, lắp ráp và chế tạo thiết bị dệt may trong nước.
Phấn đấu đến năm 2010, sản phẩm chủ yếu đạt: Bông xơ 80.000 tấn; xơ sợi tổng hợp 120.000 tấn; sợi các loại 300.000 tấn; vải lụa thành phẩm 1.400 triệu mét vuông; dệt kim 500 triệu sản phẩm; may mặc 1.500 triệu sản phẩm.
- Tỷ lệ giá trị sử dụng nguyên phụ liệu nội địa trên sản phẩm dệt may xuất khẩu: Đến năm 2010: Trên 75%
3.3. Thị trường xuất khẩu chủ yếu:
Thị trường Mỹ
Thị trường EU
Thị trường Nhật
Các nước Đông Bắc Á khác trừ Nhật
Các nước ASEAN
Canada
Nga
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY Ở VIỆT NAM
I. Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch xuất khẩu hàng dệt may giai đoạn 2001-2005
1. Tổng quan về hoạt động xuất khẩu giai đoạn 2001-2005
Hoạt động xuất khẩu đã đóng góp lớn vào tăng trưởng kinh tế của đất nước, riêng năm 2005, kim ngạch xuất khẩu đạt trên 32,4 tỷ USD. Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá bình quân 5 năm 2001-2005 đạt 17,1%/năm. Trong số 7 mặt hàng xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD thì có 5 mặt hàng công nghiệp. Tỷ trọng xuất khẩu hàng công nghiệp đạt 75,8%, trong đó công nghiệp chế biến đạt trên 50% tổng kim ngạch xuất khẩu. Hàng hoá Việt Nam hiện đã xuất khẩu sang hầu hết các châu lục và có mặt trên thị trường hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ. Qui mô và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu đã được mở rộng và tăng trưởng khá cao, hầu hết đạt và vượt chỉ tiêu đề ra.
2. Tình hình thực hiện kế hoạch xuất khẩu hàng dệt may
Ngành dệt may Việt Nam trong 5 năm (2001-2005) luôn có tốc độ tăng trưởng cao và liên tục bình quân đạt 20%/năm. Song theo nhận định của nhiều chuyên gia kinh tế, do chưa đột phá được ở lĩnh vực sản xuất vải và nguyên phụ liệu cho may xuất khẩu nhằm tăng tỷ lệ nội địa hoá trong giá trị hàng xuất nên dệt may vẫn mang tiếng là “ngành làm thuê”.
2.1. Những thành tựu đạt được
Bảng xuất khẩu hàng dệt may giai đoạn 2001-2005
Năm
2001
2002
2003
2004
2005
Xuất khẩu(triệu USD)
1.975
2.752
3.689
4.430
4.838
Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam
Năm 2004, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đã vượt trên con số 4,430 tỷ USD; chiếm 16,35% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam và tiếp tục duy trì được ở vị trí thứ hai trong số các ngành dẫn đầu về kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Năm 2005 đạt 4,838 tỷ USD. Việt Nam đặt chỉ tiêu xuất khẩu đạt khoảng 8-9 tỷ USD vào năm 2010.
Từ năm 2001, Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đã mở cửa thị trường Mỹ cho hàng dệt may Việt Nam, đồng thời kích thích thêm lượng tiêu thụ mặt hàng này. Theo số liệu của Hải quan Hoa kỳ, năm 2001, khả năng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường Mỹ mới chỉ đứng ở vị trí 70 trong tổng số gần 200 nước xuất khẩu mặt hàng này vào thị trường Mỹ, thì đến năm 2002 đã vượt lên xếp thứ 23; năm 2003 bứt phá mạnh hơn, xếp thứ 8 và năm 2004, xếp ở vị trí thứ 6, vượt 64 bậc sau 3 năm. Năm 2004, ngành dệt may Việt Nam chiếm gần 3,5% thị phần nhập khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ với đơn giá xuất khẩu bình quân vượt Trung Quốc và trở thành một trong những nước có đơn giá xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ thuộc loại cao nhất trong số các nước xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường này. Cụ thể, năm 2001, đơn giá xuất khẩu bình quân là 1,51 USD/m2 sản phẩm, đến năm 2004 tăng lên 3,14 USD/m2 sản phẩm; trong khi Trung Quốc từ 2,96 USD/m2 sản phẩm, tụt xuống còn 1,25 USD/m2 sản phẩm. Nếu tính những chủng loại hàng (cat) nóng nhất trên thế giới hiện xuất khẩu vào thị trường Mỹ thì khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam cũng rất mạnh; ví dụ như mặt hàng áo sơ mi dệt kim (cat. 388/339) tính trong 9 tháng đầu năm 2004, Việt Nam được xếp vị trí thứ năm trong số các nước xuất khẩu vào Mỹ; đặc biệt là cat. 347/348, Việt Nam xếp thứ hai trong số các nước xuất khẩu vào Mỹ.
Mức tăng trưởng của hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mỹ mạnh đến mức có một số nhóm vận động hành lang để Quốc hội Mỹ ban hành qui chế kiểm soát mới (từ năm 2003, Oasinhtơn đã áp dụng qui chế hạn ngạch mới đối với hàng dệt may của Việt Nam). Trong khi đó, các nhóm kinh doanh Mỹ khác, như Hiệp Hội Dệt May Quốc gia (NTA) có trụ sở ở Boston, công khai ủng hộ việc bãi bỏ hạn ngạch đối với hàng dệt may Việt Nam khi chúng ta trở thành thành viên WTO. Năm 2005, theo số liệu của Hiệp hội dệt may Việt Nam, Mỹ dành cho Việt Nam hạn ngạch dệt may trị giá khoảng 1,8 triệu USD. Tính chung, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ đạt khoảng 2,6-2,8 tỷ USD trong năm 2005.
Trái ngược với Mỹ, EU và Canada chọn giải pháp hoan nghênh hàng dệt may Việt Nam. Năm 2005, hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu sang EU có thể đạt giá trị khoảng 1,33 tỷ USD nếu như tận dụng được hết số lượng hạn ngạch đã được phê chuẩn. Với việc bãi bỏ hạn ngạch từ 2005 của các thị trường này, xuất khẩu dệt may của Việt Nam sẽ có điều kiện phát triển cho dù thị trường Mỹ áp dụng biện pháp khống chế. Mặc dù là thị trường lớn, nhưng EU cũng không thể hấp thụ được tất cả hàng xuất khẩu dệt may của Việt Nam; do vậy, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam phải đẩy mạnh lợi thế cạnh tranh nếu như họ muốn duy trì phát triển lâu dài ở các khu vực thị trường khác thông qua công tác tiếp thị, thiết kế mẫu mã và công tác quảng bá, xây dựng thương hiệu, hình ảnh ngành dệt may Việt Nam ra thị trường thế giới. Với chủ trương cắt giảm chi phí, Chính phủ Việt Nam muốn nâng tỷ lệ sử dụng nguyên liệu từ nguồn nội địa, đảm bảo cung ứng kịp thời nguyên phụ liệu cho ngành may. Hiện nay, chỉ có dưới 50% nguyên liệu hàng dệt may của Việt Nam có xuất xứ nội địa. Điều này đặc biệt khó thực hiện đối với bông, bởi vì hiện nay nguồn nhập khẩu đáp ứng khoảng 80% nhu cầu về mặt hàng này của ngành dệt may Việt Nam. Chính phủ Việt Nam hy vọng sẽ nâng được sản lượng bông từ mức 25.000 tấn hiện nay lên 180.000 tấn vào năm 2010. Ngoài ra, việc bãi bỏ hạn ngạch xuất khẩu (do Bộ Thương mại cấp) cũng sẽ góp phần giảm chi phí sản xuất cho hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam. Bên cạnh đó ch ính phủ cũng có nhiều biện pháp nhằm giảm chi phí và nâng cao khả năng cạnh tranh trong thời “hậu hạn ngạch”.
Hợp tác tốt hơn với các quốc gia láng giềng châu á cũng có thể góp phần phát triển dệt may của Việt Nam thông qua việc để các bên tận dụng tiềm lực của nhau, giảm chi phí cho sản phẩm dệt may trong khu vực và tăng cường tính cạnh tranh. Tại Hội nghị cấp cao ASEAN, tổ chức ở Viên Chăn (Lào) tháng 11/2004, các quốc gia thành viên ASEAN nhất trí ký văn bản "Liên kết có hệ thống khu vực sản xuất dệt may", với việc loại bỏ thuế quan đối với tất cả hàng dệt may trong khu vực, khi đó những xe chở hàng dệt may sẽ được qua lại thuận tiện tại các của khẩu giữa các nước. Bản thoả thuận thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc, cũng được ký tại hội nghị nói trên, góp phần giúp doanh nghiệp Việt Nam hạ giá thành sản phẩm thông qua khai thác nguồn nguyên liệu rẻ của các nhà gia công Trung Quốc.
2.2. Những hạn chế
2.2.1. Về sản xuất hàng dệt may xuất khẩu
Vải cho ngành dệt may chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất hàng xuất khẩu. Năm 2004, kim ngạch XK của ngành dệt may trong nước là 4,38 tỷ USD. Với đà tăng trưởng này năm 2005, ngành dệt may đặt ra chỉ tiêu XK khoảng từ 5,2 đến 5,4 tỷ USD. Tuy nhiên, con số này đã không đạt được
Phân tích hiện tượng trên ta thấy một trong những nguyên nhân chủ yếu là do chúng ta đã không chủ động nguồn vải phục vụ cho sản xuất. Trong tổng số hàng may mặc mà chúng ta xuất khẩu thì lượng vải do các nhà máy dệt trong nước “đóng góp” ở thời điểm lớn nhất chỉ là 25%. Điều này đồng nghĩa với việc chúng ta phải nhập khẩu tới 75% lượng vải phục vụ cho các đơn hàng may mặc trong nước. Sự phụ thuộc này có khả năng dẫn đến việc làm tăng giá thành sản xuất, tỷ suất lợi nhuận vốn đã rất thấp lại còn thấp hơn. Tốc độ phát triển quá nhanh của ngành may khiến cho “người em” dệt chạy hụt hơi mà vẫn khoảng cách ngày càng bị kéo xa.
Công nghiệp phụ trợ còn kém. Một điểm yếu cố hữu của ngành dệt may VN chính là việc thiếu một quy hoạch đồng bộ. Sự phát triển theo kiểu “dàn hàng ngang”, mỗi địa phương đều “cố gắng” có vài ba nhà máy may XK đã tạo ra sự đua tranh bất hợp lý. Việc các DN ở TP HCM đang than đứng than ngồi vì thiếu lao động là một thực tế tồn tại mà các DN dệt may đang phải đối mặt. Việc đặt các nhà máy rải rác như vậy còn khó có thể tạo điều kiện tốt nhất nhằm phát triển cung cấp nguyên phụ liệu cho ngành này.
Trong khi đó, đầu tư cho công nghiệp phụ trợ lại đang “có vấn đề”. Nếu như một DN đầu tư vào một nhà máy kéo sợi, dệt vải thì tỉ suất lợi nhuận trên tổng vốn đầu tư nếu đạt khoảng 2-3% đã là “quá ổn”. Đầu tư một nhà máy sản xuất hoàn chỉnh lại đòi hỏi rất nhiều vốn. Trong khi đó, đầu tư nhà máy sản xuất kiểu này lại tiềm ẩn nhiều rủi ro như đầu ra của hàng hoá, chất lượng sản phẩm phụ thuộc vào đầu tư công nghệ… Chính những nguyên nhân này khiến cho các DN không mặn mà với việc đầu tư vào ngành này. Việc kêu gọi đầu tư nước ngoài vào nhà máy dệt khó khăn hơn rất nhiều vào đầu tư dây chuyền may mặc. Có một số DN nước ngoài đầu tư vào dệt và kéo sợi ở trong nước thì thực chất họ chỉ chuyển công nghệ vào và tận dụng giá nhân công rẻ và “đầu ra” của sản phẩm đã gắn với các DN may đi kèm.
Việc cung cấp bông cũng là một bài toán nan giải khó tìm được câu trả lời hiệu quả. Ước tính hiện nay, mỗi năm chúng ta nhập khẩu khoảng trên 100.000 tấn bông để phục vụ cho các nhà máy kéo sợi và dệt vải. Công ty Bông Việt Nam, thành viên sản xuất bông lớn nhất của Tổng công ty Vinatex trong liên vụ 2003-2004 chỉ cung cấp được 12.100 tấn bông xơ, đáp ứng được 10-15% cho các nhà máy kéo sợi. Theo công ty này, việc tăng diện tích cũng như sản lượng trong năm 2005 và những năm sau là hết sức khó khăn.
Dệt thoi - khâu yếu nhất. Sau 5 năm thực hiện Chiến lược tăng tốc dệt may (2001-2005), mục tiêu nội địa hoá (NĐH) các sản phẩm xuất khẩu từ mức 25% năm 2000 lên 50% vào năm 2005 đã không đạt được do sản lượng bông xơ và vải dệt thoi tăng thấp khiến tỷ lệ nội địa hoá toàn ngành hiện mới đạt khoảng 30% .Tổng công suất vải dệt thoi hiện có là 680 triệu m2 và 38.000 tấn khăn/năm. Tuy nhiên, hầu hết lượng vải sản xuất trong nước đều chưa đáp ứng được yêu cầu làm hàng xuất khẩu. Sản lượng còn thấp, chủng loại mặt hàng chưa đa dạng, chất lượng thấp và không ổn định về độ đồng đều màu và độ bền màu của vải nhuộm, giá cả không cạnh tranh, khâu tiếp thị lưu thông, phân phối còn yếu kém là những trở ngại căn bản khiến vải dệt thoi phần lớn chỉ tiêu thụ được ở thị trường trong nước. Vải dệt thoi xuất khẩu và cung cấp cho may xuất khẩu chỉ mới chiếm khoảng 13- 14%.
Cuộc “rượt đuổi” giữa hai anh em dệt và may vẫn kéo dài và là tồn tại của ngành dệt may hiện nay. Phải chăng sự phát triển thiếu bền vững của ngành may mặc là nguyên nhân chính khiến cho ngành dệt may bị hụt hơi khi tham dự một sân chơi lớn và khắc nghiệt?
2.2.2. Về năng lực cạnh tranh, năng lực cạnh tranh của ngành dệt may xuất khẩu còn yếu. Ngành dệt may nước ta lâm vào tình trạng bất lợi là: vừa bị hạn chế bởi hạn ngạch, vừa bất lợi vì năng lực cạnh tranh. năng lực cạnh tranh của dệt may Việt Nam đang thực sự có vấn đề. Điều đó xuất phát từ tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may vào 2 thị trường chính là Hoa Kỳ và EU giảm sút. Gần 7 tháng đầu năm 2005, các mặt hàng quản lý bằng hạn ngạch vào thị trường Hoa Kỳ
đạt 783,7 triệu USD giảm gần 10% so với cùng kỳ năm 2004. Một trong những nguyên nhân dẫn tới sự sụt giảm trên là do xuất khẩu của các nước đã tăng mạnh ở một số loại hàng chủ lực của Việt Nam như áo thun và quần (cat. 338/339 và 347/348). 2 cat. này có tỷ lệ thực hiện chỉ đạt xấp xỉ 78% so với cùng kỳ 2004 trong khi chúng chiếm tỷ trọng trên 50% về số lượng và gần 70% kim ngạch trong 25 nhóm mặt hàng quản lý bằng hạn ngạch. Theo phân tích của Bộ Thương mại, nguyên nhân chủ yếu của sự sụt giảm ki m ngạch xuất khẩu sang thị trường EU cũng là do xuất khẩu của Ấn Độ, Pakistan, Srilanca tăng rất mạnh. Việt Nam bị mất thị phần do sự cạnh tranh mạnh mẽ của hàng dệt may các nước này. Tuy nhiên những nguyên nhân khách quan này cũng cho thấy bản chất của sự sụt giảm kim ngạch xuất khẩu trong những tháng đầu năm là từ năng lực cạnh tranh của dệt may Việt Nam.
3. Đánh giá bài học kinh nghiệm
Để phát triển ngành dệt may xuất khẩu, bên cạnh những hỗ trợ về mặt cải cách thủ tục hành chính của Liên bộ Thương mại - Công nghiệp, cần phải xây dựng một thương hiệu dệt may Việt Nam vào những thị trường trọng điểm. Để có riêng một hình ảnh dệt may Việt Nam, ngành dệt may trong nước cần phải hoàn thiện nhiều quy trình đào tạo, sản xuất… Là một kế hoạch dài hơi, tuy nhiên cũng cần phải thấy rằng đây là những nhu cầu cần thiết nhằm tạo lập một sự phát triển lâu dài cho một trong những ngành công nghiệp mũi nhọn của Việt Nam. Đã đến lúc dệt may Việt Nam phải nhận thấy sự cần thiết của đội ngũ thiết kế mà khả năng đào tạo trong nước còn rất yếu. Đây là một trong những khâu để hoàn thiện quy trình đào tạo, sản xuất nhằm xây dựng hình ảnh dệt may Việt Nam.
Bên cạnh đó, là việc xây dựng những trung tâm nguyên phụ liệu dệt may phục vụ cho sản xuất của ngành dệt may nói chung và ngành sản xuất hàng dệt may xuất khẩu nói riêng. Hợp tác chặt chẽ không những ở
trong nước mà ngay cả các nước trong khu vực lân cận. Vì đối với các nước trong khu vực tuy một mặt là đối thủ cạnh tranh, nhưng mặt khác lại bổ sung cho doanh nghiệp Việt Nam trong vấn đề cung cấp nguyên phụ liệu. Ví dụ, chi phí vải của một cái áo sơ mi dệt tại Banglades chỉ mất 59%, phụ liệu 16%, chi phí quản lý là 8%, 7% chi phí khác và 10%
còn lại là lợi nhuận. Do đó nếu tiết kiệm được 10% chi phí xuất khẩu thì
lợi nhuận thu được tăng lên 16%. Nhưng nếu giảm được 10% chi phí nhập khẩu vải thì chi phí lợi nhuận tăng lên chóng mặt 60%.
Ngoài ra doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần phải gia tăng dịch vụ làm sao cho tốt hơn để thu hút đơn đặt hàng. Vì người quan tiêu dùng tâm đến vấn đề chất lượng, sự tin tưởng và uy tín của dịch vụ.
Các bước đi cụ thể sẽ bao gồm việc đầu tư các nhà máy dệt nhuộm để tạo ra các sản phẩm có chất lượng đáp ứng yêu cầu cho may xuất khẩu. Từng nhà máy sẽ được đầu tư đồng bộ chuyên môn hoá, đầu tư thiết bị máy móc hiện đại gắn liền với công tác đào tạo nhân lực, chuyển giao công nghệ và quản lý sản xuất.
II. Kế hoạch xuất khẩu hàng hàng dệt may Việt Nam giai đoạn 2006-2010
1. Tình hình thực hiện kế hoạch xuất khẩu hàng dệt may năm 2006
. Năm 2006, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đạt 5.834 tỉ USD, chiếm 15% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước, tăng trưởng 20,5% so với năm trước. Về thị trường: thị trường Mỹ xuât khẩu đạt 3,044 tỉ USD (chiếm 55%), thị trường EU 1,243 tỉ USD (chiếm 20%), thị trường Nhật 628 triệu USD (chiếm 11%). Các nước Đông Bắc A khác (trừ Nhật) đạt 325 triệu USD(chiếm 5,6%), các nước ASEAN 107 triệu USD (2%), Canada 97 triệu USD, Nga 62 triệu USD.
Tuy đang đứng trong tốp các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất mấy năm trước nhưng ngành dệt may lại có rất nhiều điểm yếu. Chính vì phần lớn là làm gia công nên trong hơn 5 tỷ USD xuất khẩu, giá trị gia tăng trong mỗi sản phẩm rất thấp nên lương của công nhân ngành may lại rơi vào nhóm có thu nhập thấp nhất. Tình trạng này đã dẫn đến thiếu công nhân cục bộ tại các thành phố lớn. Các DN liên tục phải tuyển lao động, chủ yếu là lao động phổ thông rồi đào tạo nhưng có khi số lao động ra đi còn nhiều hơn số lao động tuyển vào.
Để đảm bảo tăng trưởng bền vững dệt may cần có công nghiệp phụ trợ mạnh nhưng ngành công nghiệp phụ trợ của ngành dệt may Việt Nam lại quá yếu, phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu, khả năng đáp ứng nhanh bị hạn chế. Thiết kế mẫu mốt cũng kém nên kiểu dáng, mẫu mã đơn điệu không cạnh tranh được với các sản phẩm của nước ngoài. Phần lớn doanh nghiệp chưa xây dựng được thương hiệu nên xuất khẩu trực tiếp rất khó khăn và không được giá. Ngay cả đối với người tiêu dùng trong nước, số các thương hiệu nổi tiếng cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay.
Ngoài những điểm yếu trên dệt may Việt Nam đang phải đối mặt với rất nhiều thách thức. Phải cạnh tranh với Trung Quốc, ấn Độ, Pakistan, Bangladesh… là những cường quốc sản xuất, thương mại dệt may, luôn tăng cường đầu tư phát triển, và có tham vọng tăng gấp đôi xuất khẩu của mình vào 2010. Đặc biệt là các rào cản thương mại, kỹ thuật quốc tế, trước hết là cơ chế giám sát chống bán phá giá tại thị trường Hoa Kỳ, thị trường chiếm đến 54% kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam.
Giải pháp nhằm Phát triển bền vững và hiệu quả. Nhận thấy, dệt may là ngành công nghiệp xuất khẩu chủ lực, tạo nhiều việc làm và giải quyết các vấn đề xã hội, cần được ưu tiên phát triển theo hướng đẩy nhanh việc hiện đại hoá; đảm bảo tăng trưởng nhanh, ổn định, bền vững và hiệu quả. Phát triển dệt may phải đặt trong bối cảnh cạnh tranh, hội nhập và hợp tác quốc tế, tiếp nhận nhanh làn sóng dịch chuyển sản xuất dệt may từ các nước phát triển và các nước công nghiệp mới. Phải tăng cường mối liên kết hợp tác với các tập đoàn phân phối, bán lẻ lớn trên thế giới nhằm ổn định khách hàng, thị trường, từng bước tham gia các chuỗi liên kết của họ. Liên kết với các nhà sản xuất và cung ứng nguyên phụ liệu. Liên kết tiêu thụ sản phẩm. Công nghiệp dệt may phải chuyển chất thực sự trong đó tập trung vào Thời trang- công nghệ -thương hiệu, hướng về mục tiêu xuất khẩu 10-12 tỉ USD năm 2010.
Để đạt được mục tiêu này, Kế hoạch Cụ thể phải thực hiện: Chương trình đầu tư sản xuất nguyên liệu sẽ đầu tư sản xuất xơ sợi tổng hợp đủ sức cung ứng nhu cầu dệt. Phát triển bông xơ nội địa đáp ứng 15% nhu cầu kéo sợi năm 2010. Chương trình đầu tư phát triển 1 tỉ mét vải phục vụ may mặc xuất khẩu vào năm 2015. Chương trình đầu tư hạ tầng, xây dựng 3 khu công nghiệp dệt nhuộm có hạ tầng cấp nước sạch và xử lý nước thải để thu hút đầu tư. Xây dựng 2 tổ hợp: Thương mại – Văn hoá- Du lịch – Thời trang tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Xây dựng 3 trung tâm cung ứng nguyên phụ liệu dệt may tại TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội và Đà Nẵng kết hợp với việc di dời sản xuất về các vùng phụ cận của 3 trung tâm trên. Đặc biệt là chương trình đào tạo 500 cán bộ trong nước và 100 cán bộ tại nước ngoài chuyên ngành thiết kế thời trang, công nghệ tiếp thị dệt may nhằm nhanh chóng thời trang hoá ngành dệt may Việt Nam. Phát triển đội ngũ thiết kế thời trang cùng với việc đẩy mạnh các hoạt động sản xuất thương mại sản phẩm thời trang và xây dựng hình ảnh ngành thời trang Việt Nam, xây dựng thương hiệu DN và thương hiệu sản phẩm có đẳng cấp…
2. Tình hình thực hiện kế hoạch xuất khẩu hàng dệt may 9 tháng đầu năm 2007
2.1. Tổng quan về ngành dệt may 9 tháng đầu năm
Theo số liệu thống kê từ Bộ Công thương, kim ngạch xuất khẩu trong 9 tháng qua lên tới 35,6 tỷ USD, tăng hơn 20% so với cùng kỳ năm ngoái. Đáng chú ý, dệt may đã chính thức vượt dầu thô để trở thành mặt hàng xuất khẩu dẫn đầu của cả nước.
Cụ thể, xuất khẩu dệt may qua 9 tháng đã đạt 5,8 tỷ USD, trong khi dầu thô mới chỉ đạt 5,78 tỷ USD. Như vậy, vị trí dẫn đầu xuất khẩu của dầu thô trong suốt những năm qua đã bị thay thế bởi dệt may. Thực tế, khả năng dẫn đầu của dệt may xuất khẩu đã được dự báo từ nhiều tháng trước khi xuất khẩu dầu thô không đạt tốc độ mong muốn và bị sụt giảm do nguồn khai thác bị hạn chế. Trong khi đó, dệt may tiếp tục đà tăng trưởng tốt sau khi gia nhập WTO được dỡ bỏ rào cản hạn ngạch vào Mỹ.
Vị trí dẫn dầu của dệt may có thể sẽ được duy trì trong thời gian tới vì xuất khẩu dầu thô chưa có dấu hiệu phục hồi, còn dệt may lại đang vào mùa xuất khẩu mạnh nhất trong năm.
2.2. Kết quả hoạt động xuất khẩu hàng dệt may 9 tháng đầu năm của Tập đoàn dệt may Việt Nam
Tính chung 9 tháng đầu năm, giá trị sản xuất công nghiệp của Tập đoàn dệt may Việt Nam đạt 9.589,4 tỷ đồng, tăng 12,9% so với cùng kỳ, tổng doanh thu đạt 16.487,8 tỷ đồng, tăng 12,3% so với cùng kỳ. Việt Nam đã lọt vào tốp 10 nước và vùng lãnh thổ xuất khẩu đệt may lớn nhất thế giới. Hiện Việt Nam đứng sau Trung Quốc, EU, Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ, Mêxicô, Hồng Công (Trung Quốc), Băngla Đét và gần ngang bằng với Inđônêxia, Mỹ.
Kim ngạch xuất khẩu. Xuất khẩu cộng dồn 9 tháng đạt 5.805 triệu USD tăng 131,6% so với cùng kỳ năm 2006.Xuất khẩu của các doanh nghiệp thuộc tập đoàn dệt may Việt nam đã chủ động rải đều tất cả các thị trường, tốc độ tăng trưởng được giữ vững. Thị trường Mỹ vẫn chiếm gần 60% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may cả nước nên việc khách hàng Mỹ quay trở lại với Việt Nam đã giúp nhiều doanh nghiệp ký được hợp đồng giao hàng giao hàng hết năm 2007 và đầu năm 2008 đưa kim ngạch xuất khẩu của tập đoàn 9 tháng đầu năm đạt 1004,3 triệu USD, tăng 13,5% so với cùng kỳ.
Các sản phẩm chủ yếu
Sản xuất bông: do thời tiết không thuận lợi và sức cạnh tranh cây bông rất thấp so với các cây trồng khác là nguyên nhân đưa đến diện tích trồng bông có tưới niên vụ 2007/2008 chỉ đạt 4.972 ha, bằng 41,54% so với cùng kỳ. Sản lượng giảm lên giá trị sản xuất công nghiệp của công ty cổ phần Bông Việt Nam chỉ đạt 66,18% so với cùng kỳ năm 2006
Sản xuất sợi là lĩnh vực có tốc độ phát triển ổn định đạt 89,5 nghìn tấn, tăng 12,9% so với cùng
Sản xuất vải dệt thoi đạt 130,4 triệu m2, tăng 1,7% so với cùng kỳ
Sản xuất sản phẩm may mặc dù gặp nhiều khó khăn với việc đơn phương thực hiện kiểm soát hàng dệt may Việt Nam của Hoa Kỳ, nhưng các doanh nghiệp đã chủ động khai thác đơn hàng thuộc thị trường khác, khai thác các mặt hàng không “nóng” nên đã duy trì được sản xuất ổn định, đạt tổng sản lượng 117,5 triệu sản phẩm may dệt thoi và 40,3 triệu sản phẩm may dệt kim với mức tăng so với cùng kỳ tương ứng là 18,6% và 12,3%.
Trong điều kiện thị trường cạnh tranh gay gắt, các doanh nghiệp trong trọng đến việc xây dựng nền tảng hội nhập và cạnh tranh, từng bước quảng bá thương hiệu, cập nhật thông tin, đổi mới công nghệ nhằm tiết kiệm chi phí sản xuất, nâng cao năng suất lao động, đảm bảo chất lượng sản phẩm để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
Lợi nhuận 9 tháng đầu năm 2007 ước đạt 286 tỷ đồng, tỷ suất lợi nhuận trên vốn bình quân toàn tập đoàn dệt may Việt Nam ước đạt 6,21%.
Như vậy qua 9 tháng đầu năm, mặc dù gặp phải không ít khó khăn, thách thức, các doanh nghiệp đã chủ động trong sản xuất kinh doanh, đảm bảo mức độ tăng trưởng các chỉ tiêu chính so với cùng kỳ năm 2006
Nhiệm vụ quý IV năm 2007 và những giải pháp định hướng cho kế hoạch 2008
Trong điều kiện giá cả trong nước và thế giới diễn biến phức tạp, cạnh tranh quyết liệt việc đạt được mục tiêu tăng trưởng của tập đoàn đã đặt ra là rất khó khăn. Tuy nhiên Tập đoàn dệt may Việt Nam vẫn quyết tâm khắc phục để hoàn thành tốt các chỉ tiêu chủ yếu đã đặt ra cho năm 2007 là tăng trưởng từ 17-19% và mức phấn đấu cao hơn cho năm 2008.
Tập đoàn tập trung vào các giải pháp chủ yếu sau
Một là đẩy mạnh sản xuất kinh doanh tiếp tục củng cố chiến lược phát triển sản xuất của tập đoàn, đảm bảo hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch đã đặt ra, chú trọng chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên vốn. Tập trung xuất khẩu hàng dệt may có giá trị cao, tránh nguy cơ phải đối phó với các vụ kiện bán phá giá. Tăng cường sự hợp tác trao đổi thông tin, hỗ trợ lẫn nhau giữa các ban, các đơn vị trong toàn thể tập đoàn, tập trung tiêu thụ và xử lý hàng tồn kho ứ đọng. Ứng dụng kết quả nghiên cứu của các đề tài khoa học các cấp phục vụ cho nhu cầu sản xuất của ngành.
Hai là, triển khai khẩn trương các chương trình đầu tư. Tranh thủ các nguồn vốn: ODA, vay ngân hàng phát triển…để tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng các khu công nghiệp mới. Tiếp tục triển khai 3 chương trình đầu tư chiến lược: Phát triển trồng bông trang trại có tưới tiêu ở Bình Thuận, Bắc Ninh Thuận và Đắc Lắc; Chương trình đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho ngành dệt may. Chỉ đạo quyết liệt đối với việc thực hiện các dự án di dời: Dệt kim Đông Phương; Dệt kim Nam Định; Dệt lụa Nam Định. Cân đối các nguồn vốn để tham gia tiếp vào các dự án đầu tư tài chính- ngân hàng, góp vốn vào các dự án tại các khu công nghiệp; đảm bảo nguồn vốn cho các công trình Tập đoàn làm chủ đầu tư, hỗ trợ xúc tiến thương mại…Nghiên cứu và chuổn bị các phương án đầu tư sang Lào. Tìm đối tác cho Vinatex Land. Tăng cường hệ thống thông tin các văn bản pháp quy mới nhất cho các đơn vị; huấn luyện, đào tạo đội ngũ tham gia ban quản lý dự án, quản lý đấu giá, đấu thầu đúng pháp luật.
Ba là, ổn định lao động, phát triển nguồn nhân lực. Tạo đủ việc làm, cải tiến chế độ tiền lương để thu hút và sử dụng hợp lý lao động có tay nghề, có trình độ chuyên môn. Công tác đào tạo nguồn nhân lực cho Ngành là nhiệm vụ số 1 của khối viện, Trường bao gồm các nội dung: xây dựng và triển khai thực hiện chiến lược đào tạo toàn tập đoàn; đào tạo cán bộ quản lý các cấp, đào tạo đội ngũ thiết kế, đội ngũ thợ lành nghề và đặc biệt là các lớp kỹ thuật công nghệ sợi- dệt- nhuộm.
Bốn là, củng cố và phát triển thương hiệu. Tiếp tục đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại. Xây dựng chiến lược phát triển thương hiệu, hình ảnh của tập đoàn. Hợp tác mua lại bản quyền của một số thương hiệu nổi tiếng. Tổ chức tuần lễ thời trang Xuân- Hè vào trung tuần tháng 10/2007, tuân lễ thời trang Thu- Đông và hội chợ thời trang tháng 12 tại Hà Nội.
Năm là, công tác sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp. Đẩy nhanh công tác xác định giá trị doanh nghiệp để cổ phần hoá toàn bộ các đơn vị thành viên còn lại vào cuối năm 2007. Xây dựng đề án cổ phần hoá Tập đoàn vào đầu năm 2008. Khối các viện, Trường tiếp tục chuyển đổi hoạt động theo nghị định 115 của Chính Phủ tiến tới cổ phần hoá từng bước hoặc lựa chọn giải pháp hữu hiệu nhất.
CHƯƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN KẾ HOẠCH XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM
1. Xu hướng phát triển của thị trường hàng dệt may xuất khẩu
Những năm tới, hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam đứng trước những thách thức và rào cản lớn. Hiện nay công cụ cạnh tranh mới như thương hiệu, sản phẩm có tính năng khác biệt, sản phẩm có chất lượng cao, quản lý thân thiện với môi trường, quan hệ lao động…vẫn chưa được đông đảo các doanh nghiệp trong ngành quan tâm đúng mức. Hơn nữa, các doanh nghiệp trong ngành đang rất thiếu chuyên gia quản trị và thương mại có khả năng làm việc trong môi trường cạnh tranh cao. Bên cạnh đó việc thực hiện các chính sách vĩ mô để tăng năng lực cạnh tranh quốc gia như: đơn giản hoá thủ tục hành chính, hải quan, thuế vụ, hạ tầng cơ sở giao thông liên lạc…vẫn còn rất chậm chạp chưa đủ đáp được nhu cầu của doanh nghiệp. Ngoài ra sau năm 2008, khi Trung Quốc sẽ được các nước nhập khẩu lớn xoá bỏ các biện pháp tự vệ áp lực cạnh tranh sẽ gia tăng mạnh mẽ, lúc đó ngành dệt may Việt Nam phát triển như thế nào đó là một vấn đề đáng bàn?
Sắp tới các doanh nghiệp dệt may Việt Nam phải đương đầu với 3 thách thức mới: Tăng trưởng quá nhanh, chuyển tải hàng hoá từ sang các nước khác gặp khó khăn và nguy cơ Mỹ tiến hành điều tra chống bán phá giá.
2. Giải pháp
2.1. Giải pháp cho việc sản xuất hàng dệt may xuất khẩu
Để cho ngành dệt may có thể phát triển tốt hoàn thành kế hoạch 2006-2010 đã đề ra thì chúng ta cần phải chú ý thực hiện tốt các giải pháp chủ yếu sau:
Thứ nhất, là phải chú ý phát triển nguồn nguyên liệu, đảm bảo tốt cho nhu cầu nguyên liệu của ngành dệt may nói chung và dệt may xuất khẩu nói riêng. Hiện nay ngành dệt may còn phải nhập phần lớn về nguồn nguyên liệu, phụ liệu như: Bông, xơ sợi tổng hợp, hoá chất nhuộm, chất trợ, vải chất lượng cao, phụ liệu. Trước hết cần liên kết với bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn để tăng nhanh tỷ lệ cung cấp bông nội địa đến 70% năm 2010. Về xơ sợi tổng hợp, vì hiện nay đang phải nhập khẩu 100% cho nên cần phải phối hợp với cơ sở lọc dầu Dung Quất ngay khi đi vào sử dụng để xây dựng sớm nhà máy xơ sợi tổng hợp với công suất cao để đáp ứng chon nhu cầu xơ sợi tổng hợp của ngành.
Thứ hai, là phải chú ý phát triển ngành kéo sợi. Cần nâng cấp công nghệ kéo sợi truyền thống theo phương pháp cọc nồi tuy. Đồng thời mở rộng công nghệ kéo sợi OE rotor và kéo sợi thổi khí hiện đại vì nó có công suất gấp 8-10 lần công nghệ truyền thống. Có như thế thì ngành kéo sợi mới đảm bảo được số cũng như chất lượng phục vụ cho nhu cầu sản xuất sản phẩm dệt may xuất khẩu với yêu cầu ngày càng tăng của thị trường thế giới.
Thứ ba, là phải chú ý phát triển ngành dệt vải. Trước hết chúng ta cần nhanh chóng chuyển công nghệ thoi vốn đã quá lạc hậu, năng suất thấp, ô nhiễm môi trường sang công nghệ dệt không thoi như là: Dệt kiếm, dệt thổi khí, dệt phun nước với chất lượng tốt, năng suất cao.
Thứ tư là phát triển ngành dệt kim. Do tiêu dùng hàng dệt kim mở rộng(ở Mỹ chiếm tới 50% tổng nhu cầu hàng dệt) nhất là hàng dệt kim từ bông sợi đàn hồi, cho nên chúng ta cần chú trọng phát triển ngành này. Tuy nhiên, cần tính toán công suất tối ưu cho các nhà máy nhằm bảo đảm liên hoàn các khâu dệt- nhuộm- hoàn tất và sản phẩm vải tổng hợp Filamăng. Công nghệ in hoa- nhuộm- hoàn tất là phức tạp nhất trong quyết định chất lượng cao. Vậy lên ưu tiên chọn thiết bị công nghệ Tây Âu hay Nhật Bản với quy mô nhà may cỡ 25 triệu tấn mét/năm. Mặt khác, vải Filamăng rất cần để may áo Jắckét cần được đầu tư sản xuất kiểu công nghệ liên hợp dệt- nhuộm- hoàn tất
2.2. Giải pháp về nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng dệt may xuất khẩu
Đẩy mạnh hoạt động Marketing. Thời gian qua, chúng ta còn thiếu thông tin thị trường để có thể chớp kịp thời cơ kinh doanh trong từng thời điểm.Cần nhấn mạnh rằng hoạt động Marketing nghiên cứu thị trường là khâu đầu tiên quan trọng trong việc xuất khẩu hàng dệt may xuất khẩu.Chúng ta cần thúc đẩy phát triển hoạt động này để: Có được thông tin về nhu cầu và mức nhập của từng thị trường về mẫu mã, mốt của từng sản phẩm; thông tin về các quy định pháp lý hay thể chế hải quan của từng mặt hàng như các quy định buôn bán cụ thể của hiệp định hàng dệt may( ATC) hay hiệp định đa sợi (MFA), các quy định về an toàn và môi trường, chính sách buôn bán của nước nhập khẩu; Các thông tin về đối thủ cạnh tranh…Chỉ khi nắm bắt được đầy đủ các thông tin thì các doanh nghiệp xuất khẩu của chúng ta mới thực hiên được thành công kế hoạch xuất khẩu của mình đồng thời nâng cao được năng lực cạnh tranh tạo tiền đề cho việc phát triển bền vững.
Xây dựng kế hoạch thị trường. Thị trường xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam cho đến năm 2010 vẫn tập trung chủ yếu vào các thị trường các nước phát triển Bắc Mỹ, EU, Nhật Bản, thứ đến là các nước ASEAN nói riêng và Châu Á nói chung. Chúng ta phải xây dựng cơ cấu kế hoạch cho các thị trường chủ yếu này để có thể chủ động trong vấn đề sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Tuy nhiên kế hoạch này phải thể hiện được tính năng động, mềm dẻo và linh hoạt theo hoạt động của nền kinh tế thị trường.
Nâng cao chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản phẩm là công cụ cạnh tranh số 1 trong xuất khẩu. Trên thực tế tuy hàng dệt may Việt Nam đã thâm nhập được vào thị trường thế giới với kim ngạch tăng qua các năm tuy nhiên nhìn chung chất lượng sản phẩm của chúng ta vẫn còn nhiều hạn chế về năng lực cạnh tranh so với các nhà xuất khẩu trong khu vực như: Trung Quốc, Thái Lan, Inđônêxia, Ấn Độ…đây là vấn đề cấp thiết đang đặt ra cho chúng ta tuy nhiên trong điều kiện có hạn như hiện nay chúng ta cần tập trung vào: Thứ nhất là rà soát lại toàn bộ công nghệ kéo sợi, dệt vải đến công nghệ may. Trên cơ sở đó, cần chấn chỉnh và nâng cấp những khâu trọng điểm nhất để khẩn trương nâng cao chất lượng sản phẩm từ các khâu. Thứ hai là cần tập trung vào khâu nghiên cứu, cải tiến mẫu mã, thiết kế tạo “mốt” nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường các nước phát triển. Thứ ba là chấn chỉnh lại và nâng cấp khâu bao bì, đóng gói, nhãn mác theo tiêu chuẩn quốc tế. Và cuối cùng là đẩy mạnh hơn nữa tiêu chuẩn chất lượng quốc tế trong sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may đối với các doanh nghiệp trong toàn quốc. Cần có sự kiểm tra giám sát chặt chẽ đảm bảo chất lượng thật nghiêm ngặt. Bên cạnh đó cần phải áp dụng hướng đa dạng sản phẩm, mở rộng nhanh các mẫu mã đa dạng đặc biệt là các “mốt” mới độc đáo đáp ứng kịp thời nhu cầu thời trang khó tính ở các nước phát triển.
Quy hoạch và đào tạo nguồn nhân lực. Cần ưu tiên hợp lý việc đào tạo để có được những chuyên gia giỏi về tạo mốt, công nghệ, Marketing, kỹ thuật thương mại quốc tế…Những chuyên gia cần tiếp cận nhiều với thực tiễn thị trường các nước phát triển. Cần nhấn mạnh rằng, đội ngũ chuyên gia giỏi này không chỉ đủ mạnh về chuyên môn mà còn phải là người có trách nhiệm cao trong công việc. Tâm huyết với nghề, với sự phát triển ngành công nghiệp dệt may xuất khẩu của đất nước
KẾT LUẬN
Theo xu hướng phát triển chung của ngành dệt may toàn cầu, đầu tư vào ngành dệt may đã và đang tiếp tục chuyển dịch sang các nước đang phát triển triển trong quá trình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu với những lợi thế về lực lượng lao động đông đảo và giá nhân công ở mức thấp như Việt Nam. Những cải cách trong thể chế buôn bán hàng dệt may thế giới cũng tạo cho Việt Nam những cơ hội phát triển xuất khẩu, trở thành một trong những trung tâm xuất khẩu dệt may lớn nhất của thế giới.
Lúc này cách hữu hiệu duy nhất để thúc đẩy phát triển xuất khẩu là nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá sản xuất trong nước, thông qua nhiều biện pháp tổng hợp, từ thực hiện tốt phương châm “sản xuất cho thị trường vì thị trường” đến nhận thức và tăng cường hoạt động thực tiễn của từng doanh nghiệp trong hoạt động Marketing phục vụ xuất khẩu.
Với những thành tựu đạt được và những hạn chế còn tồn tại của ngành xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam thì vấn đề định hướng phát triển đúng đắn và hướng tới phát triển bền vững là một yêu cầu rất cấp thiết. Kế hoạch xuất khẩu hàng dệt may cần phát huy hơn nữa vai trò của mình trong định hướng và hướng dẫn hoạt động để đảm bảo được sự phát triển đúng hướng mà Đảng và Nhà Nước đã đề ra.
Vậy câu hỏi đặt ra là: “liệu thương hiệu hàng dệt may Made in Viet Nam có được cả thế giới biết đến hay không ?” còn đang bỏ ngỏ và chờ đợi từ những lỗ lực rất lớn của ngành dệt may Việt Nam trong thời gian tới, để có thể đưa ra được một đáp án một cách chính xác nhất!
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. giáo trình: Kế Hoạch hóa phát triển kinh tế xã hội
Nhà xuất bản Thống Kê Hà Nội- 2006.
2. Giáo trình: Kinh tế phát triển
Nhà xuất bản lao động- xã hội Hà Nội- 2005
3. Tạp chí: Kinh tế và dự Báo- Số 10/2007
4. Tạp chí Thương Nghiệp- Thị Trường- Số 4/2006
5. Tạp chí Ngoại Thương- Số 7-9/2/2006
6. Tạp chí Kinh Tế Châu Á Thái Bình Dương- Số 2 ngày 9/1/20077
7. Tạp chí Thị Trường Giá Cả- Số 8/2006
8. Trang Web của Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư
www.htp.mpi.gov.vn
9. Trang web của Tổng Cục Thống Kê Việt Nam
www.htp.gso.gov.vn
10. Trang Web của Ngân Hàng Thế Giới
www.htp.worldbank.org.vn
11. Trang Web của Tổng Công Ty Dệt May Việt Nam
www.htp.vinatex.com.vn
12. Trang Web thông tin Thương Mại Việt Nam
www.htp.tmvn.com
13. Trang Web Kinh Tế Châu Á Thái Bình Dương
www.htp.ktcatbd.cpm.vn
14. Trang Web Phát Triển Kinh Tế
www.htp.ueh.edu.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 61442.DOC