Kết quả ban đầu điều trị nhồi máu não tối cấp bằng dụng cụ lấy huyết khối Solitaire kết hợp tiêu sợi huyết đường động mạch: Nhân 2 trường hợp
Theo nghiên cứu đơn trung tâm của Dorn 20122
điều trị lấy huyết khối trong tắc mạch não cấp bằng
Solitaire có kết hợp với tiêu sợi huyết đường tĩnh mạch,
động mạch và hút qua ống thông, thực hiện trên 104
bệnh nhân với 108 vị trí tắc mạch. Kết quả cho thấy
tỉ lệ thành công đạt 83%, với thời gian can thiệp trung
bình 265 phút, và số lần mở và kéo Stent Solitaire trung
bình để đạt tái thông là 2,46 (tối đa 12 lần). Thang điểm
NIHSS ban đầu trung bình trước can thiệp là 15,3 điểm
và khi ra viện giảm xuống còn 7,8 điểm. Tỉ lệ tử vong
16% đối với vùng tuần hoàn trước và 47,85 đối với vùng
tuần hoàn sau. Tỉ lệ chảy máu trong quá trình can thiệp
1,925 (2/104) và huyết khối 3,7% (4/108).
So sánh với các dụng cụ lấy huyết khối khác: trong
nghiên cứu thử nghiệm Merci 2005, Multi Merci 2008
dùng dụng cụ kéo huyết khối Merci với bệnh nhân bị đột
quỵ trong vòng 8 tiếng cho thấy tỉ lệ đạt tái thông TIMI
II/III đạt 46-49%, tỉ lệ hồi phục lâm sàng tốt 27-36%. Tỉ
lệ biến chứng chảy máu nội sọ 7,8-9,8% và tỉ lệ tử vong
44- 34% %.4,5
Theo nghiên cứu thử nghiệm Penumbra 2009,
dùng dụng cụ hút huyết khối Penumbra chỉ định với
bệnh nhân bị đột quỵ trong vòng 8 tiếng. Kết quả cho
thấy đạt tỉ lệ tái thông cao 82%, nhưng tỉ lệ hồi phục lâm
sàng tốt chỉ đạt 25%. Tỉ lệ biến chứng chảy máu nội sọ
9,8% và tỉ lệ tử vong 34%.7 Các nghiên cứu cho thấy,
khi mức độ lâm sàng ban đầu nhẹ NIHSS <20 thì tỉ lệ
hồi phục sau can thiệp tốt hơn nhóm khi tình trạng ban
đầu nặng NIHSS >20.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 9 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả ban đầu điều trị nhồi máu não tối cấp bằng dụng cụ lấy huyết khối Solitaire kết hợp tiêu sợi huyết đường động mạch: Nhân 2 trường hợp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 08 - 07 / 2012
nghiÊn CỨU KhoA hỌC
SCientiFiC reSeArCh
254
SUMMARy
*Khoa Chẩn đoán hình ảnh
Bệnh Viện Bạch Mai
**Khoa Cấp cứu Bệnh viện
Bạch Mai
KẾT QUẢ BAN ĐẦU ĐIỀU TRỊ NHỒI MÁU NÃO
TỐI CẤP BẰNG DỤNG CỤ LẤY HUYẾT KHỐI
SOLITAIRE KẾT HỢP TIÊU SỢI HUYẾT ĐƯỜNG
ĐỘNG MẠCH: NHÂN 2 TRƯỜNG HỢP
Primary results of treatment of hyper acute
ischemia by thrombus retrieve with Solitaire devices
associated with intra-arterial fibrolytic with rtPA:
report of 2 cases
Vũ Đăng Lưu*, Trần Anh Tuấn*, Lê Hoàng Kiên*,
Nguyễn Quang Anh*, Nguyễn Duy Trinh*, Phạm Minh Thông*,
Mai Duy Tôn**, Nguyễn Đạt Anh**
Brain ischemia accounts for 85% of brain stroke and this is 3rd
leading cause of mortality or mobility in the world. The treatment
of hyper acute ischemia by intravenous infusion of fibrolytic (rtPA)
has been recently progressive. However, this indication is only
selected for the patient coming early during first 3 hours after
onset and it also gets some limitations in cases of main artery
occlusion. The super selective endovascular treatment of brain
ischemia by using thrombus retrieve device (solitaire) associated
with fibrolytic (rtPA) has been confirmed to be increased the rate of
recanalization and good outcome recently. We want to report our
2 cases of treatment of hyper acute ischemia by clot retrieve with
Solitaire devices and fibrolytic with rtPA and review the literature.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 08 - 04 / 2012 255
nghiên CỨU KHoa HỌC
i. giỚi thiỆU
Đột quỵ thiếu máu não chiếm khoảng 80% bệnh
cảnh đột quỵ, mà nguyên nhân là do tắc mạch não.
Đây là nguyên nhân đứng hàng thứ 3 gây tử vong tại
các nước phát triển và để lại di chứng nặng nề nếu
qua khỏi. Hiệu quả điều trị tiêu sợi huyết đường tĩnh
mạch đã được khẳng định làm tăng tỉ lệ hồi phục tốt tới
30%. Tuy nhiên chỉ áp dụng được khi bệnh nhân đến
sớm trước 3 tiếng.6 Có khoảng 95% tổng số bệnh nhân
đột quỵ thiếu máu não không đạt đủ các tiêu chuẩn
để được chọn lựa dùng thuốc tiêu huyết khối đường
tĩnh mạch. Hơn nữa bệnh nhân khi được dùng thuốc
tiêu huyết khối đường tĩnh mạch dễ có nguy cơ biến
chứng vì cần dùng liều thuốc lớn và ảnh hưởng toàn
thân. Can thiệp nội mạch điều trị đột quỵ thiếu máu não
do tắc mạch lớn được chỉ định với các bệnh nhân đến
sớm trước 6 tiếng hoặc thậm chí 12 đến 24 tiếng đối
với hệ động mạch đốt sống thân nền. Hiện nay, ở Việt
Nam chưa có báo cáo nào liên quan đến kĩ thuật và kết
quả điều trị thiếu máu não cấp bằng cách dùng dụng cụ
lấy huyết khối bằng can thiệp nội mạch. Chúng tôi báo
cáo 2 trường hợp dùng dụng cụ Solitaire lấy huyết khối
được điều trị tại Bệnh viện Bạch Mai.
ii. BỆnh Án
1. Bệnh án 1
Bệnh nhân Nam 53 tuổi, vào viện ngày 18/05/2012.
Lý do vào viện liệt nửa người phải. Tiền sử không mắc
bệnh. Khám lúc vào sau đột quỵ 3 tiếng thấy liệt nửa
người phải, thất ngôn, thang điểm NISHH 25 điểm.
Chẩn đoán lúc vào tai biến mạch não. Bệnh nhân được
chụp cắt lớp vi tính (CLVT) và cộng hưởng từ (CHT)
xác định nhồi máu bán cầu trái thuộc vùng cấp máu
động mạch (ĐM) não giữa, diện cấp máu <1/3 ranh
giới. Trên xung Diffusion thấy giảm khuếch tán nhân
bèo và đầu nhân đuôi trái. Trên CHT tưới máu thấy
vùng tranh tối tranh sáng rộng. Trên xung mạch thấy
có tắc ĐM cảnh trong và não giữa trái (Hình 1). Các
xét nghiệm đông máu trong giới hạn bình thường: PT
95.2%, APTT 1.08 và Fibrinogen: 3.098, khí máu bình
thường, Phosphatase kiềm: 84 (40-129). Đông máu:
D-Dimmer 0.636 (bt <0.48), Fibrinogen 5 (2- 4). INR và
APTT trong giới hạn bình thường. Protein S 114.4 và
Protein C 135.7 (70-130).
A B C
D E F
hình 1. Ảnh chụp cộng hưởng từ: A-Xung FLAIR thấy huyết khối tăng tín hiệu động mạch cảnh trong trái.
B- Hình giảm khuếch tán bao trong và đầu nhân đuôi trên xung Diffusion. C-F Hình giảm tưới máu diện rộng
bán cầu trái trên xung tưới máu TTP và CBV. D-E Hình tắc hoàn toàn động mạch cảnh trong và não giữa trái
trên chụp mạch CHT xung TOF 3D.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 08 - 04 / 2012256
nghiên CỨU KHoa HỌC
Chẩn đoán cuối cùng tắc ĐM cảnh trong và não
giữa trái gây nhồi máu cấp giờ thứ 4.
Chỉ định điều trị lấy huyết khối bằng Solitaire và
tiêu sợi huyết đường động mạch dùng rtPA.
Tiến hành lấy huyết khối bằng Solitaire: Luồn ống
thông dẫn đường Envoy 6F vào ĐM cảnh trong trái
chụp thấy tắc ngay sau gốc xuất phát động mạch cảnh
trong. Luồn vi ống thông Rebar qua huyết khối tới ĐM
não giữa đoạn M2, bơm thuốc thấy dòng chảy động
mạch não giữa đoạn M2-3 bình thường. Xác định
đoạn tắc từ sau gốc động mạch cảnh trong tới toàn bộ
đoạn M1 trái. Bơm thuốc tiêu sợi huyết Actylise- rtPA
trước trong và sau huyết khối với tổng liều 12mg. Luồn
Stent Solitaire AB qua đoạn huyết khối đoạn M1 mở
Stent chờ 5 phút, dùng xi lanh 50ml hút áp lực âm qua
ống thông dẫn đường 6F đồng thời kéo Stent ra. Sau
2 lần bung và kéo Stent lấy được nhiều cục huyết khối
nhỏ dính trên Stent. Chụp kiểm tra lưu thông lại dòng
chảy hoàn toàn. Dừng thủ thuật sau 1 tiếng can thiệp
(Hình 2).
A
B C
D E
hình 2. A- chụp mạch DSA, tắc
động mạch cảnh trong đoạn nội
sọ. B- Hình đầu trên đoạn tắc tới
đoạn nối M1-2. C- Hình mở Stent
Solitaire kéo huyết khối. D- Hình các
cục huyết khối sau lấy ra. E- Stent
Solitaire
F G
F-G Ảnh tái thông hoàn toàn động mạch cảnh trong trái và ĐM não trước trái cấp máu từ cảnh trong phải
MRI kiểm tra sau 2 tiếng can thiệp: tổn thương nhồi máu vùng nhân bèo và đầu nhân đuôi không thay đổi.
Không thấy tổn thương mới lan rộng. Không thấy giảm tưới máu trên Perfusion (Hình 3). Bệnh nhân hồi phục hoàn
toàn.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 08 - 04 / 2012 257
nghiên CỨU KHoa HỌC
A B C
hình 3. Ảnh chụp CHT kiểm tra ngay sau can thiệp 2 tiếng. Không thấy hình ảnh nhồi máu lan rộng sau
can thiệp trên xung Diffusion (A). Tưới máu cân đối hai bán cầu (B) và mạch tái thông hoàn toàn (C).
Đến 21h00 ngày 22/05/12 sau khi ăn cháo xong
bệnh nhân xuất hiện thất ngôn, có dấu hiệu rung nhĩ.
Chỉ định chụp MRI cấp cứu đánh giá, thấy tắc động
mạch cảnh trong trái lan lên động mạch não giữa trái.
Nhồi máu cấp bên trái (tương ứng vùng nhồi máu đã
biết do tắc động mạch lần trước), vùng nguy cơ nhồi
máu rộng. Tiến hành can thiệp như lần 1, sau 5 lần lấy
huyết khối bằng Solitaire và bơm 6mg rtPA, chụp kiểm
tra tái thông hoàn toàn.
Sau can thiệp bệnh nhân được dùng Plavix viên
75mg/ngày kèm Sintrom 4mg/ngày.
Bệnh nhân ra viện ngày 8/6. Tỉnh hoàn toàn, tự
sinh hoạt và đi lại được bình thường. Không liệt khu trú,
không liệt mặt. Vệ sinh tự chủ hoàn toàn. Phân độ hồi
phục mRS 0.
2. Bệnh án 2
Bệnh nhân nữ 67 tuổi, vào viện lúc 9h50’ngày
29/05/2012 sau 1 tiếng bị đột quỵ. Lý do vào viện liệt
nửa người phải kèm thất ngôn. Tiền sử tăng huyết áp
(HA) 5 năm, điều trị thường xuyên bằng Coversyl, HA
duy trì 180/100. Đã cắt ¾ dạ dày năm 1985 và cắt thận
trái năm 2008.
Khám lúc vào viện: bệnh nhân tỉnh, chậm G 13đ,
Sp02 97%, liệt nửa người phải (cơ lực tay 0/5, chân
2/5), babinski (+), đồng tử 2,5mm 2 bên, phản xạ ánh
sáng (+). Bộ phận khác bình thường. Truyền NaCl giữ
ven, đặt sonde dạ dày, chỉ định chụp MRI, chuẩn bị
điều trị bằng tiêu sợi huyết đường tĩnh mạch. Các xét
nghiệm đông máu IRN 1.0 (0.8-1.2); APTT 0.86, PT
137.6%, Fibrinogen: 2.95, sinh hóa: bình thường.
Bệnh nhân được chụp CHT (Hình 4).
A B C
hình 4. A- Ảnh khuếch tán trên
Diffusion thấy nhồi máu nhân bèo,
đầu nhân đuôi và ổ nhỏ thùy đảo
trái. B- Ảnh tưới máu TTP thấy
giảm tưới máu bán cầu trái rộng
thuộc vùng cấp máu đm não giữa
trái. C- Xung mạch TOF 3D thấy
tắc đm não giữa trái. E F
E-F Ảnh chụp mạch DSA thấy tắc động mạch não giữa trái đoạn gốc xuất phát M1.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 08 - 04 / 2012258
nghiên CỨU KHoa HỌC
Chẩn đoán xác định tắc ĐM não giữa trái gây nhồi
máu giờ thứ 2. Tiên lượng điều trị tiêu sợi huyết đường
tĩnh mạch tỉ lệ thành công không cao, nhiều nguy cơ
tai biến. Chỉ định tiêu sợi huyết đường động mạch nếu
không hiệu quả thì lấy huyết khối. Sau khi luồn ống
thông tới cục huyết khối bơm tổng liều 12mg, chụp
kiểm tra sau 30 phút không thấy tái thông. Tiến hành
lấy huyết khối bằng Solitaire (Hình 5).
A B C
hình 5. A-B Ảnh tái thông hoàn toàn ĐM não giữa trái đoạn M1 sau
can thiệp trên tư thế thẳng và nghiêng. C-D Ảnh cộng hưởng từ sau
thiệp 1 ngày thấy vùng nhồi máu trên xung Diffusion không lan rộng
và tái thông động mạch não giữa trái (độ 2 theo TIMI). Không thấy
chảy máu kèm theo.
D
Sau can thiệp bệnh nhân được dùng Plavix viên
75mg/ ngày. Ra viện ngày 19/6/2012. Hiện tỉnh hoàn
toàn, tự sinh hoạt và đi lại được bình thường. Tay và
chân phải còn tê bì và cảm giác nặng. Vệ sinh tự chủ
hoàn toàn. Nghe hiểu tốt, trả lời được. Phân độ hồi
phục mRS 1.
iii. Bàn LUận
1. triệu chứng lâm sàng
Nhồi máu não xuất hiện đột ngột, với triệu chứng
liệt khu trú, thất ngôn. Cả hai bệnh nhân của chúng tôi
biểu hiện thất ngôn và vùng nhồi máu đều bên bán cầu
trái. Mặc dù không rõ tiền sử bệnh lý tim mạch, nhưng
trong quá trình nằm viện, bệnh nhân thứ nhất có biểu
hiện rung nhĩ và bị tái phát sau can thiệp một tuần.
2. Phát hiện vùng tranh tối - tranh sáng trên hình ảnh
Cả hai bệnh nhân đều được chẩn đoán cộng
hưởng từ dùng xung Diffusion, FLAIR, T2*, xung mạch
TOF 3D không tiêm thuốc và xung tưới máu não có tiêm
đối quang từ. Trên ảnh Diffusion quan sát thấy rõ vùng
tăng tín hiệu, hay vùng giảm khuếch tán, ở giai đoạn
sớm của nhồi máu, vùng này nhồi máu tương ứng với
không có khả năng hồi phục sau can thiệp được thấy
khi so sánh với ảnh chụp sau can thiệp. Vùng giảm tưới
máu hay vùng “tranh tối-tranh sáng” rộng trên ảnh tưới
máu TTP so với ảnh Diffusion trước khi can thiệp và
mất hoàn toàn ngay sau khi được tái thông lòng mạch,
cho thấy khả năng hồi phục cao sau khi được tái thông
lòng mạch bằng lấy huyết khối.
Sử dụng các phương tiện chẩn đoán hình cắt lớp
vi tính hay cộng hưởng từ cho phép chẩn đoán nhanh
và rất chính xác tai biến thiếu máu não. Trên ảnh xung
mạch cộng hưởng từ hay chụp mạch não cắt lớp vi tính
đa dãy giúp xác định chính xác đoạn và vị trí mạch bị
tắc, từ đó định hướng điều trị can thiệp giúp giảm thời
gian can thiệp càng nhanh. Trên ảnh tưới máu cắt lớp vi
tính hoặc cộng hưởng từ cho phép xác định chính xác
vùng nhu mô não nhồi máu, vùng mà khó hồi phục dù
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 08 - 04 / 2012 259
nghiên CỨU KHoa HỌC
có được tái thông và vùng thiếu máu hay vùng “tranh
tối-tranh sáng”. Vùng tranh tối-tranh sáng được xác
định nhanh bằng cách chồng hình tưới máu não TTP
(time-to-peak) với xung khuếch tán Diffusion hoặc với
hình tưới máu CBV (Cerebral Blood Volume). Ngoài ra
để xác định chính xác thì dựa vào các thông số đo định
lượng hoặc so sánh vùng tương ứng bên đối diện trên
các ảnh TTP, CBF (Cerebral Blood Flow), MTT (Mean
Transite Time) và CBV để biết được mức độ thiếu máu
hay hoại tử của từng vùng. Khi CBF <18-20ml/100g/
phút sẽ có biểu hiện thiếu máu và khi dưới 8-10ml/100g/
phút sẽ bị nhồi máu hay hoại tử. Khi xác định có vùng
thiếu máu rộng, đồng nghĩa với tiên lượng hồi phục lâm
sàng tốt nếu được tái thông lòng mạch kịp thời.
3. Kĩ thuật lấy huyết khối và kết quả can thiệp
Cả 2 bệnh nhân đều được dùng dụng cụ lấy huyết
khối Solitaire. Với bệnh nhân 1 được làm 2 lần do tái
phát. Tái thông hoàn toàn lòng mạch sau khi mở và
kéo Stent lần lượt là 2 và 5 lần kết hợp hút áp lực âm
trong ống thông dẫn đường 6F Envoy với thời gian can
thiệp khoảng 60 phút và 90 phút dùng tổng lượng rtPA
lần lượt 12mg và 6mg. Với bệnh nhân thứ 2 mở và kéo
Stent 1 lần đã đạt tái thông hoàn toàn kết hợp hút áp lực
âm trên ống thông 6F Corail có gắn bóng ở đầu với thời
gian can thiệp khoảng 45 phút và tổng lượng rtPA dùng
là 18mg (trong đó 12mg được dùng chỉ định bơm chọn
lọc đường động mạch trước khi lấy huyết khối bằng
Solitaire). Khi kiểm tra Xilanh 50ml trong quá trình hút
áp lực âm, chúng tôi nhận thấy với bệnh nhân 1 mặc dù
hút nhiều lần nhưng chúng tôi không ghi nhận thấy cục
huyết khối nhỏ trong Xilanh. Với bệnh nhân thứ 2 có
lấy được cục huyết khối dài trong Xilanh 50 kèm theo.
Trên cả hai bệnh nhân chúng tôi đều quan sát thấy có
huyết khối di chuyển tắc nhánh mạch nhỏ đoạn M3. Khi
đó bệnh nhân được dùng thuốc tiêu sợi huyết chọn lọc
vào nhánh xa bị huyết khối với liều 6mg.
Cả hai bệnh nhân của chúng tôi với 3 lần can thiệp
đều đạt tái thông hoàn toàn ngay sau can thiệp, phân độ
TIMI III. Cả hai bệnh nhân đều có kết quả hồi phục tốt hoàn
toàn với bệnh nhân thứ nhất và gần hoàn toàn với bệnh
nhân thứ hai theo Rankin cải biên lần lượt độ 0 và 1.
Điều trị tiêu sợi huyết bằng đường tĩnh mạch cho
tới nay chỉ đạt tỉ lệ tái thông <50% các trường hợp. Mức
độ tái thông còn phụ thuộc vị trí động mạch bị tắc. Tỉ lệ
tái thông rất thấp khi có tắc ĐM lớn như ĐM cảnh trong
(tái thông đạt 8%) và tỉ lệ hồi phục lâm sàng đạt thấp
<50%.1
Điều trị tiêu sợi huyết chọn lọc đường động mạch
mang lại một số ưu điểm so với đường tĩnh mạch như
bơm trực tiếp thuốc tiêu sợi huyết vào cục huyết khối
tạo nồng độ cao, thời gian chỉ định sau khi bị đột quỵ lâu
hơn tới 6 tiếng và làm tăng tỉ lệ tái thông so với đường
tĩnh mạch. Tuy nhiên, vấn đề chảy máu não liên quan
dùng thuốc tiêu sợi huyết vẫn làm nặng thêm khả năng
hồi phục của bệnh nhân.
Cho đến nay, chỉ có một nghiên cứu thử nghiệm
lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng điều trị lấy huyết
khối trong nhồi máu não cấp với dụng cụ Solitaire,
SWIFT - Solitaire With the Intention for Thrombectomy.
Tuy nhiên kết quả vẫn chưa được công bố.
Theo nghiên cứu phân tích tổng hợp đa trung tâm
của tác giả Koh 20123, về hiệu quả và tính an toàn điều
trị nhồi máu não tối cấp bằng dụng cụ lấy huyết khối
Solitaire với tổng số 262 bệnh nhân, cho thấy thời gian
trung bình của quá trình can thiệp lấy huyết khối từ 37
đến 95.6 phút. Tỉ lệ thành công tái thông đạt khoảng
89,7% (từ 66,7 đến 100%). Tỉ lệ biến chứng chảy
máu không triệu chứng và tử vong lần lượt là 6,8% và
11,1%. Tỉ lệ hồi phục tốt theo Rankin cải biên với độ
0,1 và 2 đạt 47,3%. Các biến chứng liên quan quá trình
can thiệp khoảng 3,4%.
Theo nghiên cứu đơn trung tâm của Dorn 20122
điều trị lấy huyết khối trong tắc mạch não cấp bằng
Solitaire có kết hợp với tiêu sợi huyết đường tĩnh mạch,
động mạch và hút qua ống thông, thực hiện trên 104
bệnh nhân với 108 vị trí tắc mạch. Kết quả cho thấy
tỉ lệ thành công đạt 83%, với thời gian can thiệp trung
bình 265 phút, và số lần mở và kéo Stent Solitaire trung
bình để đạt tái thông là 2,46 (tối đa 12 lần). Thang điểm
NIHSS ban đầu trung bình trước can thiệp là 15,3 điểm
và khi ra viện giảm xuống còn 7,8 điểm. Tỉ lệ tử vong
16% đối với vùng tuần hoàn trước và 47,85 đối với vùng
tuần hoàn sau. Tỉ lệ chảy máu trong quá trình can thiệp
1,925 (2/104) và huyết khối 3,7% (4/108).
So sánh với các dụng cụ lấy huyết khối khác: trong
nghiên cứu thử nghiệm Merci 2005, Multi Merci 2008
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 08 - 04 / 2012260
nghiên CỨU KHoa HỌC
dùng dụng cụ kéo huyết khối Merci với bệnh nhân bị đột
quỵ trong vòng 8 tiếng cho thấy tỉ lệ đạt tái thông TIMI
II/III đạt 46-49%, tỉ lệ hồi phục lâm sàng tốt 27-36%. Tỉ
lệ biến chứng chảy máu nội sọ 7,8-9,8% và tỉ lệ tử vong
44- 34% %.4,5
Theo nghiên cứu thử nghiệm Penumbra 2009,
dùng dụng cụ hút huyết khối Penumbra chỉ định với
bệnh nhân bị đột quỵ trong vòng 8 tiếng. Kết quả cho
thấy đạt tỉ lệ tái thông cao 82%, nhưng tỉ lệ hồi phục lâm
sàng tốt chỉ đạt 25%. Tỉ lệ biến chứng chảy máu nội sọ
9,8% và tỉ lệ tử vong 34%.7 Các nghiên cứu cho thấy,
khi mức độ lâm sàng ban đầu nhẹ NIHSS <20 thì tỉ lệ
hồi phục sau can thiệp tốt hơn nhóm khi tình trạng ban
đầu nặng NIHSS >20.
iV. KẾt LUận
Mặc dù với số lượng còn ít và qua điểm các y văn,
chúng tôi nhận thấy điều trị thiếu máu não cấp do tắc
mạch lớn bằng dụng cụ lấy huyết khối Solitaire với kĩ
thuật đơn giản, an toàn, tỉ lệ tái thông và hồi phục cao.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Del Zoppo GJ, Poeck K, Pessin MS et al.
Recombinant tissue plasminogen activator in acute
thrombotic and embolic stroke. Ann Neurol., 1992 Jul;
32(1):78-86.
2. Dorn F, Stehle S, Lockau H, et al, Endovascular
Treatment of Acute Intracerebral Artery Occlusions with
the Solitaire Stent: Single-Centre Experience with 108
Recanalization Procedures. Cerebrovasc Dis. 2012 Jun
30; 34(1):70-77.
3. Koh JS, Lee SJ, Ryu CW, Kim HS, Safety and
efficacy of mechanical thrombectomy with solitaire stent
retrieval for acute ischemic stroke: a systematic review.
Neurointervention. 2012 Feb;7(1):1-9. Epub 2012.
4. Shi ZS, Loh Y, Walker G, et al., Clinical
outcomes in middle cerebral artery trunk occlusions
versus secondary division occlusions after mechanical
thrombectomy: pooled analysis of the mechanical
embolus removal in cerebral ischemia (MERCI) and
Multi MERCI trials. Stroke 2010;41:953-960.
5. Smith WS, Sung G, et al., Mechanical
thrombectomy for acute ischemic stroke: final results of
the Multi MERCI trial. Stroke 2008; 39:1205-1212.
6. The National Institute of Neurological Disorders
and Stroke rt-PA Stroke Study Group, Tissue
plasminogen activator for acute ischemic stroke. N Engl
J Med. 1995 Dec 14; 333(24):1581-7.
7. The penumbra pivotal stroke trial: safety and
effectiveness of a new generation of mechanical devices
for clot removal in intracranial large vessel occlusive
disease. Stroke 2009; 40:2761-2768.
TÓM TẮT
Nhồi máu não chiếm khoảng 85% các tai biến mạch não, là một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng
đầu trên thế giới, nếu qua khỏi cũng thường để lại di chứng nặng nề. Những tiến bộ trong điều trị nhồi máu não, theo
cơ chế sinh lý bệnh, dùng thuốc tiêu sợi huyết bằng đường tĩnh mạch giai đoạn sớm trước 3 tiếng đã được khẳng
định có hiệu quả. Tuy nhiên chỉ định còn hạn chế liên quan thời gian và các ảnh hưởng toàn thân, hơn nữa phương
pháp này tỏ ra kém hiệu quả với các trường hợp tắc mạch lớn. Điều trị tiêu sợi huyết và lấy huyết khối bằng can
thiệp nội mạch được thực hiện bằng cách luồn ống thông theo đường động mạch vào vị trí huyết khối để bơm thuốc
tiêu sợi huyết và/hoặc lấy cục huyết khối. Các nghiên cứu đa trung tâm đã chỉ ra rằng, điều trị tiêu sợi huyết và lấy
huyết khối đường động mạch làm tăng tỉ lệ tái thông, tăng tỉ lệ hồi phục lâm sàng trong nhồi máu não cấp. Chúng
tôi báo cáo kết quả ban đầu nhân 2 trường hợp được điều trị bằng lấy huyết khối qua Solitaire kèm bơm thuốc tiêu
sợi huyết rtPA đường động mạch.
NGƯỜI THẩM ĐỊNH: TS. Bùi Văn Giang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
ket_qua_ban_dau_dieu_tri_nhoi_mau_nao_toi_cap_bang_dung_cu_l.pdf