KẾT LUẬN
Đóng OĐM bằng dụng cụ ở trẻ dưới 4 kg có
tỷ lệ thành công cao tuy nhiên còn nhiều biến
chứng nhất là ở trẻ non tháng, kèm dị tật khác
và trẻ nhiễm trùng nặng. Tỷ lệ tử vong liên quan
đến nhiễm trùng bệnh viện cũng khá cao. Qua
đó chúng tôi nhận thấy rằng việc tiên hành
thông tim can thiệp đóng OĐM ở trẻ dưới 4 kg
là hoàn toàn có thể nhưng cần thận trọng hơn ở
trẻ non tháng kèm nhiễm trùng, nhiều dị tật.
Tuy nhiên nghiên cứu của chúng tôi còn một số
hạn chế như: cỡ mẫu nhỏ, sót những trường hợp
thất bại do không tiếp cận được mạch máu
(những trường hợp này không được ghi nhận
trong danh sách ở đơn vị thông tim can thiệp),
thời gian theo dõi ngắn.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 07/02/2022 | Lượt xem: 124 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả của đóng ống động mạch bằng dụng cụ ở trẻ có cân nặng dưới 4 kg tại bệnh viện Nhi đồng 2, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Ngoại Nhi 545
KẾT QUẢ CỦA ĐÓNG ỐNG ĐỘNG MẠCH BẰNG DỤNG CỤ
Ở TRẺ CÓ CÂN NẶNG DƯỚI 4 KG TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 2
Lê Thị Thanh Liêm*,Vũ Minh Phúc*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm và kết quả của đóng ống động mạch (OĐM) bằng dụng cụ ở trẻ có cân nặng
dưới 4 kg tại Bệnh viện Nhi Đồng 2.
Phương pháp:Nghiên cứu tôi mô tả hồi cứu 40 bệnh nhân dưới 4 kg đã được thông tim đóng OĐM tại
Bệnh viện Nhi Đồng 2 từ tháng 04 – 2010 đến tháng 08 – 2012.
Kết quả: Tuổi trung bình lúc can thiệp là 72,4 ± 47,51 ngày ( trung vị là 62 ngày). Cận nặng trung bình
lúc can thiệp là 2,87 ± 0,81 kg. Đường kính trung bình của OĐM là 4,09 ± 0,93 mm. Thả dụng cụ thành công ở
37/40 bệnh nhân ( 92,5%). Có 10 bệnh nhân tử vong(25%), 2 trong số đó có nguyên nhân tử vong liên quan đến
thủ thuật. Biến chứng nặng xảy ra ở 7 bệnh nhân (17,5%) bao gồm: 4 bệnh nhân bị trôi dụng cụ, 2 bệnh nhân bị
giảm nhịp tim và 1 bệnh nhân bị rách tĩnh mạch chậu. Hầu hết những bệnh nhân này đều là những trẻ non
tháng, có kèm tật tim khác và có nhiễm trùng. Trong suốt thời gian theo dõi ≥ 6 tháng, có một bệnh nhân có
thông tồn lưu và cần can thiệp lại.
Kết luận: Đóng OĐM bằng thông tim can thiệp có thể được xem xét ở trẻ nhỏ thậm chí ở trẻ có cân nặng
dưới 4 kg. Tuy nhiên nên thận trọng ở những trẻ non tháng có kèm nhiều dị tật timkhác và nhiễm trùng nặng vì
tỷ lệ tử vong và biến chứng khá cao.
Từ khóa: Tồn tại ống động mạch, Nhũ nhi, Thông tim can thiệp, Dụng cụ, Đóng, Trẻ non tháng.
ABSTRACT
RESULTS OF CLOSING PATENT DUCTUS ARTERIOSUS WITH DEVICES
IN CHILDREN LESS THAN 4 KG AT CHILDREN’S HOSPITAL 2
Le Thi Thanh Liem,Vu Minh Phuc
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 545 ‐ 550
Objectives:To determine thecharacteristics and result of patent ductus arteriosus(PDA) closure by device in
infants with body weight less than 4 kg at Children’s Hospital 2.
Methods:A retrospective study was done in 40 patients whohad the body weight less than 4 kg and PDA
closure by device from April2010toAugust 2012 at Children’s Hospital 2.
Results:At the time of procedure,the mean age was 72.4 ± 47.51 days (median age: 62 days) and the mean
weight was2.87 ± 0.81 kg. The mean diameter of PDA was 4.09 ± 0.93 mm. The rate of successful procedurewas
92.5%. 10 patients died in which 2 patients due to procedure. Severe complications occurred in 7 patients
(17.5%): device embolization in 4 patients, bradycardia in 2 patients and teared iliac vein in 1 patient. Most of
them were preterm infants, had associated defects and severe infection. After following up 6 months, one patient
had important shunt.
Conclusions:Transcatheter occlusion PDA can be considered in infants with body weight less than 4 kg.
However, it should be careful in preterm infants who had associated defects and heavy infection because of the
high rate of complications.
Key words: Patent ductus arteriosus, Infant, Intervention catheterization, Device,Closure, Pre‐term
* Bộ môn Nhi, ĐH Y Dược Tp. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BS. Lê Thị Thanh Liêm ĐT: 01665558347 Email: liemnoitru@yahoo.com.vn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 546
infants.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tồn tại ống động mạch (TTOĐM) chiếm
khoảng 1/2000 trẻ sơ sinh đủ tháng và 5 ‐ 10%
các bệnh tim bẩm sinh (18,12).Để điều trị triệt để
TTOĐM có nhiều phương pháp: dùng thuốc ở
trẻ sơ sinh, thông timcan thiệp hoặc phẫu
thuật.Thông tim can thiệp ngày càng phát triển
và được ưa chuộng bởi nhiều ưu điểm: không
cần phẫu thuật, không có sẹo, thời gian nằm
viện ngắn và tránh các biến chứng do phẫu
thuật cũng như hồi sức (7). Tuy nhiên thông
timcan thiệp ở trẻ có cân nặng thấp thực tế gặp
một số khó khăn như: mạch máu quá nhỏ so với
dụng cụ, trẻ thường có bệnh lý kèm theo, khả
năng xảy ra nhiều biến chứng: chảy máu, tắc
mạch, huyết khối, hẹp động mạch, tán huyết,
trôi dụng cụTrên thế giới đã có nhiều nghiên
cứu tiến hành thông tim đóng OĐM trên trẻ có
cân nặng thấp và cả những trẻ sơ sinh non
tháng. Kết quả cho thấy tỷ lệ thành công khá
cao(5,6). Trong nước cũng đã có một số báo cáo về
thông tim can thiệp(8,16) nhưng chưa có nghiên
cứu ở những trẻ dưới 4 kg. Vì vậy, chúng tôi tiến
hành nghiên cứu nàyvới hy vọngcó thể góp
phần nhỏ trong việc điều trị tim bẩm sinh ở trẻ
có cân nặng thấp.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp nghiên cứu
Mô tả hàng loạt ca.
Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân TTOĐM được đóng bằng dụng
cụ tại Bệnh Viện Nhi Đồng 2 trong khoảng thời
gian từ tháng 04 ‐ 2010 đến tháng 08 ‐ 2012, có
cân nặng dưới 4 kg
Tiêu chí chọn bệnh
Tiêu chí chọn vào lô nghiên cứu
Tất cả bệnh nhân TTOĐM được đóng bằng
dụng cụ tại Bệnh Viện Nhi Đồng 2 trong khoảng
thời gian từ tháng 04 ‐ 2010 đến tháng 08 ‐ 2012,
có cân nặng dưới 4 kg.
Tiêu chí loại ra khỏi lô nghiên cứu
Những bệnh nhân mà hồ sơ không ghi nhận
được hơn 80% các biến trong nghiên cứu.
Cỡ mẫu
Lấy tất cả những bênh nhân thỏa tiêu chí
chọn bệnh.
Phương pháp thống kê
Lưu trữ và xử lý số liệu bằng phần mềm
SPSS 11.5
KẾT QUẢ
≥ 6 tháng
40 ca dưới 4 kg được đóng OĐM bằng dụng
cụ
7 ca tử vong ngay sau
can thiệp
24 ca liên lạc được 9 ca mất liên lạc
21 ca tái khám 3 ca tử vong
33 ca còn sống
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Ngoại Nhi 547
Sơ đồ1: Sơ đồ diễn tiến của dân số nghiên cứu
Qua nghiên cứu mô tả 40 trường hợp ( 25
nam, 15 nữ) TTOĐM có cân nặng dưới 4 kg
được can thiệp đóng OĐM bằng dụng cụ tại
Bệnh Viện Nhi Đồng 2 chúng tôi có kết quả
như sau:
Tuổi trung bình là 72 ± 47,51 ngày tuổi
(trung vị: 62 ngày) với cân nặng trung bình
2,87±0,81 kg, khoảng một nửa là sanh non, hầu
hết có tiền căn nhiễm trùng sơ sinh, viêm phổi
và kèm tật tim khác (bảng 1), hai phần ba có dị
tật bẩm sinh đặc biệt là Rubella bẩm sinh
(bảng 2). Ngay trước can thiệp phần lớn đều
có nhiễm trùng, suy dinh dưỡng, thiếu máu,
suy tim, tim to, tăng tuần hoàn phổi và tăng áp
phổi. Đa số OĐM có kích thước đo trên siêu
âm> 3 mm (3,84±0,94 mm) với luồng thông trái
– phải hoặc hai chiều.
Bảng 1. Phân bố các tật tim bẩm sinh kèm theo của
dân số nghiên cứu
Tật tim kèm theo Số ca Tỷ lệ %
Hở van 3 lá
Thông liên nhĩ
Thông liên nhĩ + thông liên thất
Ebstein type C
Hẹp van ĐMP
Hẹp van ĐMC
Hẹp van ĐMC + hẹp van ĐMP + hở van
2 lá
Thông liên nhĩ + hở van 2 lá
5
3
2
1
1
1
1
1
12,5
7,5
5
2,5
2,5
2,5
2,5
2,5
Tổng 15 37,5
ĐMP: động mạch phổi; ĐMC: động mạch chủ
Bảng 2: Các dị tật bẩm sinh
Dị tật Số ca Tỷ lệ %
Rubella bẩm sinh
Rubella + CMV bẩm sinh
Dị hình
CMV bẩm sinh
Teo thực quản
Teo thực quản + Không hậu môn
Thoát vị rốn
Lõm ngực bẩm sinh
Teo ruột non
15
2
2
1
1
1
1
1
1
37,5
5
5
2,5
2,5
2,5
2,5
2,5
2,5
Tổng 25 62,5
CMV: Cytomegalovirus
Đường tiếp cận chủ yếu là tĩnh mạch đùi
chiếm 60%, thường sử dụng ống thông 5F cho
tĩnh mạch và 4F cho động mạch. Đường kính
trung bình OĐM đo lúc can thiệp là 4,09 ± 0,93
mm với sai lệch trung bình so với siêu âm là 0,86
± 0,67 mm. Có 5 loại dụng cụ được dùng là coil,
ADO, ADO II, AVP và AMV với tỷ lệ tương ứng
là 65%, 12,5%, 12,5%, 7,5 và 2,5%. Thời gian can
thiệp trung vị là 54,17 phút (30 – 210 phút).
Đóng OĐM bằng dụng cụ thành công ở
92,5% trẻ. Trong số 3 trường hợp thất bại có 1
trường hợp trôi coil thu hồi thất bại phải phẫu
thuật, 1 trường hợp trôi coil thu hồi thành công
và 1 trường hợp Ebstein phụ thuộc OĐM phải
thu hồi coil.
Biến chứng xảy ra ở 27,5%, tỷ lệ biến chứng
nặng 17,5% (bảng 3). Nhóm có biến chứng có tỷ
lệ sanh non, tật tim kèm theo, nhiễm trùng sơ
sinh cao hơn nhóm không biến chứng.
Bảng 03: Biến chứng của thủ thuật
Biến chứng Số ca Tỷ lệ%
Biến chứng nặng 7 17,5
Trôi dụng cụ
Rách tĩnh mạch chậu
Chậm nhịp tim
4
1
2
10
2,5
5
Biến chứng nhẹ 4 10
Thiếu máu
Hẹp ĐMC
3
1
7,5
2,5
Tổng 11 27,5
Phải phẫu thuật lấy dụng cụ 1 2,5
Cả 4 trường hợp trôi dụng cụ đều được
đóng bằng coil và đường kính OĐM là 5 mm,
4,5 mm, 4 mm và 3,5 mm. 2 trong 4 trường hợp
trôi dụng cụ ngay sau khi thả coil, thu hồi coil
dễ dàng và thay thế thành công bằng
Amplatzer. 1 trường hợp phát hiện trôi coil
sau thả coil 2,5 giờ, thu hồi coil thành công và
sau đó bệnh nhân được đóng OĐM bằng
Amplatzer. 1 trường hợp phát hiện trôi coil
sau thả coil 90 phút, thu hồi được coil nhưng
trong quá trình rút ống thông bị kẹt ở tĩnh
mạch chủ. Bệnh nhân được mổ khẩn tĩnh
mạch chủ dưới lấy dụng cụ, rút ống thông khó
khăn làm đứt tĩnh mạch chậu, sốc mất máu.
Sau khi hồi sức, cột tĩnh mạch chậu cầm máu
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 548
bệnh nhân ổn dần và được phẫu thuật cột
OĐM vào 10 ngày sau.
1 trường hợp rách tĩnh mạch chậu lúc rút
ống thông mất nhiều máu dẫn đến tử vong sau
thông tim 4 ngày.
2 trường hợp chậm nhịp tim sau can thiệp.
Đó là 1 trường hợp 3 tháng tuổi bị Viêm phổi ‐
Ebstein type C nặng – TTOĐM và cuối cùng tử
vong, 1 trường hợp 3 tháng tuổi bị Viêm phổi –
Rubella bẩm sinh – Hở 3 lá trung bình‐nặng –
TTOĐM.
Sau thời gian theo dõi trung bình 13,6 ± 5,41
tháng (6,5 – 26,5 tháng), có 24 trường hợp liên
lạc được. Suy dinh dưỡng còn 42,9%, nhóm trẻ
còn suy dinh dưỡng có tỷ lệ dị tật bẩm sinh, suy
tim trước can thiệp và thời gian hỗ trợ hô hấp,
nằm ICU, nằm viện sau can thiệp nhiều hơn
nhóm không suy dinh dưỡng. 66,7% trẻ có chậm
phát triển vận động. 2 trường hợp (9,5%) còn
thông tồn lưu nhiều. Trong đó 1 trường hợp
(4,8%) thông tồn lưu nhiều, suy tim, tăng tuần
hoàn phổi, tim to, cao áp phổi cần can thiệp lại.
Tử vong ngay sau can thiệp xảy ra ở 17,5%,
trong đó 5% là có liên quan đến thông tim can
thiệp còn những trường hợp còn lại chủ yếu là
do nhiễm trùng bệnh viện (bảng 4). Sau thời
gian theo dõi ≥ 6 tháng , có thêm 3 trường hợp
tử vong chiếm 12,5%. Hầu hết các trường hợp tử
vong đều có tuổi can thiệp < 2 tháng, có cân
nặng dưới 3 kg và kèm theo các tật tim khác,
đồng thời có nhiễm trùng nặng trước can thiệp
phải hỗ trợ hô hấp bằng máy thở. 1 trong 2
trường hợp tử vong liên quan đến thông tim là
một bé sơ sinh sanh non 29 tuần, bệnh màng
trong độ IV đã bơm surfactant, nặng 1,2 kg có
OĐM 3 mm ảnh hưởng huyết động. Bé được
thông tim vào lúc 11 ngày tuổi, đóng OĐM bằng
coil 7x6 mm, thả coil thành công với ống thông
5F qua TM đùi (P). Khi rút ống thông làm rách
TM chậu (T) một đoạn dài mất nhiều máu. Em
được truyền máu, vận mạch với Adrenalin, mổ
khẩn cầm máu. Em tử vong sau 4 ngày thông
tim. Trường hợp còn lại là bé bị Ebstein nặng, bị
chậm nhịp tim sau thả dụng cụ nghĩ Ebstein phụ
thuộc OĐM và tử vong sau đó 3 ngày.
Bảng 4: Tử vong và nguyên nhân tử vong sau can thiệp
Nguyên nhân tử vong Số ca Tỷ lệ %
Sốc mất máu + nhiễm trùng/ Rách TM chậu
trái, hoại tử chân trái do đóng coil OĐM ,
nhiễm trùng sơ sinh, non 29 tuần
1 2,5
Nhiễm trùng huyết do nấm Candida, viêm
phổi Acinetobacter, non 31,5 tuần 1 2,5
Viêm phổi do Acinetobacter, suy tim, cao áp
phổi nặng/ VACTERL 1 2,5
Viêm phổi nặng kéo dài, loạn sản phổi 1 2,5
Viêm phổi nặng, nhiễm trùng huyết do nấm
Candida, non 27 tuần 1 2,5
Viêm phổi nặng, Rubella bẩm sinh 1 2,5
Viêm phổi nặng, tật Ebstein nặng phụ thuộc
OĐM, Nhiễm CMV 1 2,5
Tổng 7 17,5
BÀN LUẬN
Trong nghiên cứu của chúng tôi tỉ lệ thành
công khá cao 92,5%, cho thấy thông tim can
thiệp đóng OĐM ở trẻ dưới 4 kg hoàn toàn
khả thi.
Dimas V. ghi nhận tỷ lệ thành công là 94%
khi phân tích 62 bệnh nhân thông tim đóng
OĐM ≤ 6 kg (5), trong nghiên cứu của Park Y. ở
115 trẻ ≤ 10 kg tỷ lệ thành công là 99% (9) và một
tỷ lệ cao 98,4% cũng được ghi nhận trong nghiên
cứu của Vijaylakshi I. ở trẻ< 6 kg (17).
Tỷ lệ thành công của chúng tôi so với những
nghiên cứu khác khá tương đương. Tuy nhiên
trên thực tế, tỷ lệ thành công của chúng tôi còn
thấp hơn con số 92,5% bởi vì chúng tôi lấy mẫu
bằng cách lấy tên bệnh nhân từ sổ ghi chép của
phòng thông tim can thiệp mà có những trường
hợp có thể không được ghi vào sổ chẳng hạn
như: không tiếp cận được mạch máu hay khi
chụp cản quang OĐM quá lớn không thể đóng
bằng dụng cụ phải ngưng thủ thuật. Trong khi
đó hầu hết các nghiên cứu nước ngoài đều có
mô tả những trường hợp này. Chúng tôi đã
tham khảo ý kiến các nhân viên tại phòng thông
tim can thiệp Bệnh Viện Nhi Đồng 2 về vấn đề
này và được biết số lượng các bệnh nhân như
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Ngoại Nhi 549
trên không nhiều. Như vậy tỷ lệ thành công
thấp hơn tỷ lệ đã mô tả có thể là không nhiều,
cũng còn nằm ở mức độ khá cao.
Trong số 40 trường hợp ban đầu có 7
trường hợp tử vong (17,5%), trong đó có 2
trường hợp tử vong liên quan đến can thiệp
(2,5%), còn những trường hợp còn lại tử vong
do nhiễm trùng nặng. Hầu hết các trường hợp
tử vong đều có tuổi can thiệp < 2 tháng, có cân
nặng dưới 3 kg và kèm theo các tật tim khác,
đồng thời có nhiễm trùng nặng trước can thiệp
phải hỗ trợ hô hấp bằng máy thở. Cả 2 trường
hợp tử vong có liên quan đến thông tim đều
đã có bệnh cảnh nền rất nặng. Còn trong số 3
trường hợp tử vong sau xuất viện thì không
trường hợp nào có bằng chứng là tử vong do
biến chứng của thủ thuật.
Hầu hết các nghiên cứu cho thấy tỷ lệ tử
vong liên quan đến thông tim can thiệp thường
bằng 0 (2,10,11,13,14). Abadir S. ghi nhận có 1 trường
hợp tử vong (1,7%) khi mô tả 58 bệnh nhân ≤ 6
kg đóng OĐM bằng dụng cụ, nguyên nhân là do
ngưng tim lúc thông tim (1). Một nghiên cứu ở
bệnh nhân lớn hơn (tuổi trung vị 4,5 tuổi) của
Choi DY. cũng có 1/111 bệnh nhân tử vong do
rối loạn nhịp lúc can thiệp (0,9%) (4). Tỷ lệ tử
vong không liên quan đến thông tim cũng được
ghi nhận 1% trong nghiên cứu của
Vijayyalakshmi IB. (17), 2% trong nghiên cứu của
Behjati – Ardakani M. (3).
Như vậy, tỷ lệ tử vong có liên quan đến
thông tim hay không liên quan đến thông tim
trong nghiên cứu của chúng tôi đều cao hơn so
với các nghiên cứu khác. Nguyên nhân của sự
khác biệt này có thể là do khả năng kiểm soát
nhiễm trùng của chúng tôi còn kém nên đa số
bệnh nhân vẫn còn nhiễm trùng khá nặng lúc
can thiệp và sau can thiệp lại bị nhiễm trùng
bệnh viện.
Biến chứng xảy ra ở 11 trường hợp (27,5%).
Trong đó biến chứng nặng chiếm 17,5% còn lại
là 10% biến chứng nhẹ. Cả 4 trường hợp trôi
dụng cụ đều được đóng bằng coil và đường
kính OĐM ≥ 3,5mm.
Tỷ lệ biến chứng của nhiều báo cáo khác ở
lứa tuổi tương tự dao động từ 0% đến
40%(2,10,11,13), kết quả của chúng tôi cũng nằm
trong giới hạn này nhưng ở mức khá cao. Mặc
khác tỷ lệ biến chứng nặng của chúng tôi cũng
hơi cao hơn các nghiên cứu khác. Trong số 58 trẻ
≤ 6 kg Abadir S. ghi nhận có 4 trường hợp biến
chứng nặng (6,9%) (1), Tomita H. cũng chỉ có
9,4% biến chứng nặng ở 32 trẻ nhũ nhi(15). Nhóm
trẻ có biến chứng của chúng tôi có tỷ lệ trẻ non
tháng, có dị tật tim kèm theo, nhiễm trùng sơ
sinh cao hơn 2 lần so với nhóm không biến
chứng. Điều này cho thấy việc tiến hành thông
tim can thiệp trên những trẻ này còn gặp nhiều
khó khăn. Ngoài ra chúng tôi cũng nhận thấy
những bệnh nhân này có tỉ lệ phải tiếp cận bằng
đường động mạch cao hơn, chênh áp qua OĐM
thấp hơn và đương nhiên là thời gian nằm viện
kéo dài hơn.
Có 2 trường hợp có thông tồn lưu (9,5%),
trong đó có 1 trường hợp thông tồn lưu nhiều.
Bệnh nhân này được phát hiện thông tồn lưu
còn nhiều sau đóng coil 10,5 tháng gây suy tim,
tăng áp phổi. Bé được thông tim lại đóng OĐM
bằng ADO.
Tất cả những trường hợp còn lại chúng tôi
không phát hiện biến chứng gì cả.
Kết quả của chúng tôi tương đồng với báo
cáo của những tác giả khác trên thế giới.
Abadir S. ghi nhận 2,2% thông tồn lưu và
không biến chứng sau thời gian theo dõi trung
vị 10 tháng (0,5 – 91 tháng) (1). Al‐ Ata J. thì có
tỷ lệ thông tồn lưu là 7,14% sau thời gian theo
dõi 1 tuần – 6 tháng (2).
KẾT LUẬN
Đóng OĐM bằng dụng cụ ở trẻ dưới 4 kg có
tỷ lệ thành công cao tuy nhiên còn nhiều biến
chứng nhất là ở trẻ non tháng, kèm dị tật khác
và trẻ nhiễm trùng nặng. Tỷ lệ tử vong liên quan
đến nhiễm trùng bệnh viện cũng khá cao. Qua
đó chúng tôi nhận thấy rằng việc tiên hành
thông tim can thiệp đóng OĐM ở trẻ dưới 4 kg
là hoàn toàn có thể nhưng cần thận trọng hơn ở
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 550
trẻ non tháng kèm nhiễm trùng, nhiều dị tật.
Tuy nhiên nghiên cứu của chúng tôi còn một số
hạn chế như: cỡ mẫu nhỏ, sót những trường hợp
thất bại do không tiếp cận được mạch máu
(những trường hợp này không được ghi nhận
trong danh sách ở đơn vị thông tim can thiệp),
thời gian theo dõi ngắn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Abadir S, Boudjemline Y, Rey C, Petit J, Sassolas F, Acar P,
Fraisse A, Dauphin C, Piechaud JF, Chantepie A, Lusson JR
(2009), “Significant persistent ductus arteriosus in infants less or
equal to 6 kg: Percutaneous closure or surgery?”, Arch
Cardiovasc Dis, 102(6‐7), pp. 533‐540.
2. Al‐Ata J, Arfi AM, Hussain A, Kouatli AA, Jalal MO (2005),
“The efficacy and safety of the Amplatzer ductal occluder in
young children and infants”, Cardiol Young, 15(3), pp. 279‐285.
3. Behjati‐Ardakani M, Behjati‐Ardakani MA, Hosseini SH, Noori
N (2013), “Long‐ Term Results of Transcatheter Closure of
Patent Ductus Arteriosus in Infants Using Amplatzer Duct
Occluder”, Iran J Pediatr, vol 23.
4. Choi DY, Kim NY, Jung MJ, Kim SH (2010), “The results of
transcatheter occlusion of patent ductus arteriosus: success rate
and complications over 12 years in a single center” Korean Circ J,
40(5), pp. 230‐234.
5. Dimas VV, Takao C, Ing FF, Mattamal R, Nugent AW, Grifka
RG, Mullins CE, Justino H (2010), “Outcomes of transcatheter
occlusion of patent ductus arteriosus in infants weighing ≤ 6
kg”, JACC Cardiovasc Interv, 3(12), pp. 1295‐1299.
6. Hijazi ZM, Lloyd TR, Beekman RH 3rd, Geggel RL (1996),
“Transcatheter closure with single or multiple Gianturco coils of
patent ductus arteriosus in infants weighing 8 kg”, American
Heart Journal, 132(4), pp. 827‐835.
7. Human DG, McIntyre L, Gniewek A, Hanna BD (1995),
“Technology Assessment of Nonsurgical Closure of Patent
Ductus Arteriosus An Evaluation of the Clinical
Effectiveness and Costs of a New Medical Device”,
Pediatrics, 96(4), pp. 703‐706.
8. Nguyễn Lân Hiếu, Phạm Gia Khải (2011), “Đánh giá kết quả
của phương pháp bít ống động mạch qua da bằng dụng cụ
Amplatzer”, Thư viện Y Học Việt Nam.
9. Park YA, Kim NK, Park SJ, Yun BS, Choi JY, Sul JH (2010),
“Clinical outcome of transcatheter closure of patent ductus
arteriosus in small children weighing 10 kg or less”, Korean J
Pediatr, 53(12), pp. 1012‐1017.
10. Parra‐Bravo R, Cruz‐Ramírez A, Rebolledo‐Pineda V, Robles‐
Cervantes J, Chávez‐Fernández A, Beirana‐Palencia L, Jiménez‐
Montufar L, Estrada‐Loza Mde J, Estrada‐Flores J, Báez‐
Zamudio N, Escobar‐Ponce M (2009), “Transcatheter closure of
patent ductus arteriosus using the amplatzer duct occluder in
infants under 1 year of age”, Rev Esp Cardiol, 62(8), pp. 867‐874.
11. Roberts P, Adwani S, Archer N, Wilson N (2007), “Catheter
closure of the arterial duct in preterm infants”, Arch Dis Child
Fetal Neonatal Ed, 92(4), pp. 248‐250.
12. Rudolph AM (2009), “The ductus arteriosus and persistent
patency of the ductus arteriosus”, Congenital Diseases of the Heart
Clinical‐ Physiological Considerations, Wiley‐Blackwell, 3rd ed, pp.
115‐145.
13. Sivakumar K, Francis E, Krishnan P (2008), “Safety and
feasibility of transcatheter closure of large patent ductus
arteriosus measuring >or=4 mm in patients weighing <or=6 kg”,
J Interv Cardiol, 21(2), pp. 196‐203.
14. Thanopoulos B, Eleftherakis N, Tzannos K, Stefanadis C (2008),
“Transcatheter closure of the patent ductus arteriosus using the
new Amplatzer duct occluder: initial clinical applications in
children”, Am Heart J, 156(5), pp. 917.e1‐917.e6.
15. Tomita H, Uemura S, Haneda N, Soga T, Matsuoka T, Nishioka
T, Yazaki S, Hatakeyama K, Takamuro M, Horita N (2009),
“Coil occlusion of PDA in patients younger than 1 year: risk
factors for adverse events”, J Cardiol, 53(2), pp. 208‐213.
16. Trương Quang Bình, Đỗ Nguyên Tín, Vũ Hoàng Vũ (2009),
“Đánh giá hiệu quả bước đầu của thông tim can thiệp tim bẩm
sinh tại bệnh viện Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh”, Tạp Chí Y
Học, Tập 13, Phụ bản số 1, Bộ Y Tế xuất bản, tr. 46‐49.
17. Vijayalakshmi IB, Chitra N, Praveen J, Prasanna SR (2013),
“Challenges in device closure of a large patent ductus
arteriosus in infants weighing less than 6 kg”, J Interv
Cardiol, 26(1), pp. 69‐76.
18. Vũ Minh Phúc, Hoàng Trọng Kim (2004), “Bệnh tim bẩm sinh”,
Bài giảng nhi khoa chương trình đại học, Nhà xuất bản Y học, tập 2,
tr. 50‐52.
Ngày nhận bài báo: 01/11/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 05/11/2013
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ket_qua_cua_dong_ong_dong_mach_bang_dung_cu_o_tre_co_can_nan.pdf