Về tổ chức y tế xã, phờng, thị trấn
Thống nhất tên gọi là trạm y tế xã, phờng,
thị trấn; là đơn vị chuyên môn, kỹ thuật nằm
trong hệ thống y tế Nhà nớc đợc thành lập
thống nhất trên địa bàn xã, phờng, thị trấn.
Trạm y tế chịu sự quản lý, chỉ đạo và hớng
dẫn của trung tâm y tếhuyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh về chuyên môn, nghiệp vụ, kinh
phí và nhân lực.
Trạm y tế xã chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo của
Chủ tịch ủy ban nhân dân xã, phờng, thị trấn
(sau đây gọi chung là ủy ban nhân dân xã) trong
việc xây dựng kế hoạch triển khai công tác y tế
để trình cơ quan có thẩm quyền và chịu trách
nhiệm tổ chức thực hiện kế hoạch đó sau khi đã
đợc phê duyệt; phối hợp với các ngành, đoàn
thể trong xã tham gia vào các hoạt động chăm
sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân.
Việc thành lập, giải thể, sáp nhập trạm y tế xã
do ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ơng quyết định hoặc ủy quyền cho Giám
đốc Sở Y tế quyết định theo thẩm quyền để phù
hợp với các quy định hiện nay về phân cấp quản lý.
Về nhân lực
Viên chức làm việc tại trạm y tế xã là viên
chức sự nghiệp y tếthuộc biên chếcủa trung tâm
y tế huyện đợc phân công, bố trí làm việc tại
trạm y tế xã. Việc tuyển dụng, sử dụng, hợp
đồng làm việc và các quy định khác thực hiện
theo quy định của Luật viên chức. Các chức
danh làm việc tại trạm y tếxã phải đạt tiêu chuẩn
chuyên môn nghiệp vụ ngành y tế
Định mức biên chế đợc xác định trên cơ sở
nhiệm vụ và nhu cầu về chăm sóc sức khỏe nhân
dân, theo đặc điểm địa lý và quy mô dân số, trạm
y tế đợc bố trí từ 06 đến 11 ngời có hệ số điều
chỉnh theo vùng địa lý. Đối với các xã có dân số
đông, địa bàn hoạt động khó khăn, sau khi tính
ố lợng biên chế theo số dân và hệ số điều
chỉnh mà cao hơn 11 ngời/01trạm thì ủy ban
nhân dân tỉnh xem xét trình Hội đồng nhân dân
tỉnh quyết định.
Số lao động thuộc diện hợp đồng theo Quyết
định số 58/1994/QĐ/TTg của Thủ tớng Chính
phủ không phải là viên chức nhng đợc hởng
mọi quyền lợi nh viên chức có văn bằng, chứng
chỉ đào tạo trình độ đại học, trung học và sơ học
về chuyên môn kỹ thuật y tế và có đủ điều kiện,
tiêu chuẩn theo quy định thì đợc xét tuyển
chuyển thành viên chức. Trung tâm y tế huyện
có trách nhiệm hoàn tất các thủ tục để bảo đảm
các quyền lợi, chế độ chính sách về ổn định việc
làm, chế độ tiền lơng và các quyền lợi khác
đang đợc hởng
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 41 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả thực hiện chức năng nhiệm vụ của một số trạm y tế xã khu vực miền núi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
20
Nghiên cứu chính sách
Kết quả thực hiện chức năng nhiệm vụ của
một số trạm y tế xã khu vực miền núi
Trần Thị Mai Oanh, Nguyễn Thị Thắng, Dương Huy Lương,
1 2
Hoàng Thu Thủy, Nguyễn Hoàng Giang và cộng sự
Y tế tuyến cơ sở (bao gồm y tế tuyến huyện
và xã) đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ
thống y tế, là tuyến đầu tiên cung cấp các dịch
vụ y tế cơ bản cho người dân. Với vai trò này,
trạm y tế xã (TYT) có chức năng, nhiệm vụ
chính là khám chữa bệnh ban đầu (KCBBĐ),
phòng chống bệnh dịch, chăm sóc sức khỏe bà
mẹ trẻ em và thực hiện các chương trình mục
tiêu y tế.
Trong thời gian qua, với việc thực hiện các
chính sách của Đảng, Nhà nước về củng cố và
hoàn thiện hoạt động y tế tuyến cơ sở, y tế tuyến
xã đã đạt được những thành quả nhất định. Với
95% số xã có cơ sở trạm, trong đó khoảng 60%
số trạm đạt chuẩn, ngành y tế đã cơ bản xóa
được vùng "trắng" về y tế. Người dân được tiếp
cận tốt hơn với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe
ban đầu (CSSKBĐ) tại xã khi công tác khám
chữa bệnh bảo hiểm y tế được đưa về tuyến
xã...Tuy nhiên, trong bối cảnh bệnh dịch (cúm
H5N1, H1N1, sốt xuất huyết...) phát triển, nhu
cầu khám chữa bệnh của người dân ngày càng
tăng, trong khi đó điều kiện cơ sở vật chất, trang
thiết bị, nguồn nhân lực tại tuyến xã có xu
hướng giảm, đặc biệt là khu vực miền núi [1] thì
việc rà soát lại việc thực hiện chức năng, nhiệm
vụ của trạm y tế ở khu vực này là rất cần thiết.
Nghiên cứu này nhằm mục tiêu đánh giá thực
trạng việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ cơ
bản của trạm y tế xã khu vực miền núi, phân tích
khả năng đáp ứng của trạm y tế xã với nhu cầu
CSSKBĐ của người dân trong tình hình mới từ
đó đề xuất giải pháp về chính sách nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động của trạm y tế xã ở khu
vực miền núi.
Đặt vấn đề Đối tượng, địa điểm và phương pháp
nghiên cứu
Đối tượng, địa điểm nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là cán bộ y tế làm công
tác quản lý ở tuyến tỉnh, huyện, toàn bộ cán bộ
công tác tại trạm y tế xã và người dân.
Nghiên cứu được tiến hành tại 4 tỉnh miền
núi bao gồm Điện Biên, Cao Bằng, Kon Tum và
Bình Định, tại mỗi tỉnh khảo sát 2 huyện và tất
cả các xã thuộc 2 huyện.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng thiết kế điều tra mô tả
cắt ngang, kết hợp với thu thập thông tin hồi cứu
(trong vòng 5 năm trước thời điểm nghiên cứu).
Mẫu nghiên cứu được chọn theo phương pháp
chọn mẫu có chủ đích. 4 tỉnh được lựa chọn là 4
tỉnh miền núi đại diện cho vùng miền núi Đông
Bắc, Tây Bắc, Tây Nguyên và Trung Bộ. Mỗi
tỉnh lựa chọn 02 huyện theo tiêu chí 1 huyện
thuận lợi và 1 huyện khó khăn trong tiếp cận về
địa lý. Tại mỗi huyện chọn toàn bộ các xã (tổng
số 112 xã thuộc 8 huyện của 4 tỉnh) để khảo sát
về cơ sở vật chất, họat động của trạm và thông
tin về nhân lực tại trạm. Các kỹ thuật thu thập số
liệu bao gồm thảo luận nhóm, phỏng vấn sâu,
thu thập số liệu bằng bảng hỏi sẽ được sử dụng
trong nghiên cứu này.
1
Khoa Nghiên cứu Y tế Công cộng, Viện Chiến lược và
Chính sách Y tế
2
Viện Chiến lược và Chính sách Y tế
21
Chính sách - Số 10/2012 Y tế
Tạp chí
Tình hình thực hiện chức năng, nhiệm vụ
cơ bản của TYT khu vực miền núi
Về hoạt động khám chữa bệnh: kết quả khảo
sát cho thấy bình quân người dân ở cả 4 tỉnh
được khám trung bình tại trạm là 1,2 lần/năm,
trong đó cao nhất là Cao Bằng (1,4 lần) và Bình
Định thấp nhất (0,9 lần/năm). Trong số các xã
khảo sát, có xã chỉ khám trung bình 0,1 lượt
khám/người/năm (Điện Biên), trong khi đó có
xã ở Cao Bằng tỷ lệ này là 5,1 lần. Tỷ lệ người
dân có BHYT đến KCB tại TYT xã chiếm tỷ lệ
cao ở các tỉnh Cao Bằng, Điện Biên và Kon Tum
(trên 80% tổng số bệnh nhân đến KCB tại trạm).
Tỷ lệ trung bình bệnh nhân chuyển tuyến ở xã
có bác sĩ (5,4%) thấp hơn so với xã không có bác
sỹ (7,8%).
Về lĩnh vực CSSKBMTE: tỷ lệ các ca sinh tại
trạm khá thấp (24,4%), đặc biệt tỷ lệ sinh tại
TYT xã của Bình Định chỉ chiếm 10,7% tổng số
các ca sinh đẻ trong năm. Có 45/112 TYT xã
không có ca sinh nào tại trạm trong năm 2009,
bao gồm: Cao Bằng: 16/28 TYT, Bình Định:
19/24 TYT, Điện Biên: 5/28 TYT, Kon Tum:
5/22 TYT. Tỷ lệ sinh tại nhà là 28,4%. Kết quả từ
nghiên cứu định tính phần nào phản á nh nguyên
nhân người dân không đến sinh con tại trạm
xuất phát từ cả hai phía người dân và cung ứng
dịch vụ. Về phía người dân, đó là vấn đề phong
tục, khả năng tiếp cận “Do phong tục tập quán
nên mặc dù chúng tôi đã cố gắng tích cực truyền
thông đấy nhưng dân vẫn không chấp nhận và
đến trạm sinh đẻ”, “ở đây có đi được ô tô đâu,
chủ yếu là xe máy hay đi bộ thôi nên dân ngại đi
xa đẻ lắm. Thói quen vẫn là đẻ ở nhà thôi”.
(TLN trưởng trạm). Về phía ngành y tế, “Tỷ lệ
đẻ tại trạm thấp do CSVC ở nhiều xã chưa đảm
bảo yêu cầu về phòng đẻ, chật hẹp, không có
nước. Có xã gần bệnh viện nên người dân đến đẻ
luôn lại bệnh viện...” (TLN cán bộ TTYT)
Về hoạt động phòng chống dịch và thực hiện
các chương trình y tế: Kết quả nghiên cứu cho
Kết quả nghiên cứu thấy đa số các TYT đều có xây dựng kế hoạch
phòng chống dịch hàng năm. Số chương trình y
tế trung bình thực hiện tại các TYT được khảo
sát là 15,9 chương trình, trong đó xã thực hiện ít
chương trình nhất là 13 và nhiều nhất là 19. Các
chương trình ít được thực hiện là các chương
trình y tế học đường, phòng chống đái tháo
đường, phòng chống tăng huyết áp, ung thư...
Công tác ghi chép sổ sách của các chương trình
cũng là một vấn đề đáng quan tâm. Số sổ sách
trung bình tại các xã là 42,5 quyển, trong đó xã
nhiều nhất là 76 quyển, ít nhất là 27 quyển. Việc
ghi chép nhiều sổ sách như vậy gây mất thời
gian của cán bộ tại trạm nhưng tính chính xác
của thông tin lại không cao “... nói thật ra thì
thông tin chỉ chính xác khoảng 50, 60% là cùng
thôi. Nhiều số liệu ước các năm trước mà cho
vào. Hơn nữa nhiều số liệu có kiểm tra cũng
không thể biết đúng hay sai, vì làm sao mà tính
được” (TLN trưởng TYT)
Khả năng đáp ứng của trạm y tế đối với nhu
cầu CSSKBĐ của người dân
Về cơ sở vật chất: Trong số 112 trạm y tế của
8 huyện khảo sát vẫn còn tới 6% cơ sở trạm là
nhà tạm. Theo đánh giá của các trưởng trạm,
tình trạng cơ sở vật chất của TYT ở dưới mức
chấp nhận được là 38%. Tỷ lệ TYT có đủ số
phòng theo quy định Chuẩn quốc gia y tế xã chỉ
chiếm 16,5%.
Về trang thiết bị: Đa số các TYT đều đánh
giá các TTB văn phòng ở tình trạng thiếu hoặc
chấp nhận được. Theo đánh giá của các trưởng
TYT Bình Định và Kon Tum, tỷ lệ TYT thiếu
các TTB văn phòng chiếm khoảng 54% (chủ
yếu là bàn ghế, tủ hồ sơ, máy tính, máy in...).
Đối với các TTB y tế, Điện Biên có 50% TYT
đánh giá là đủ TTB y tế, trong khi đó tỷ lệ này ở
Kon Tum là 27,3%, Cao Bằng là 18,4%, đặc biệt
Bình Định chỉ có 8,3%.
Về cung ứng dược của trạm y tế: Tỷ lệ các
TYT thiếu thuốc trong danh mục ở cả 4 tỉnh
nghiên cứu là 44,9% trong đó cao nhất là Cao
22
Nghiên cứu chính sách
Bằng với tỷ lệ thiếu thuốc trong danh mục lên tới
72%. Tương tự như vậy về thuốc, hóa chất cho
phòng chống dịch thì chỉ có Bình Định là đủ với
tỷ lệ trên 90%.
Về nhân lực y tế: Số liệu khảo sát cho thấy tỷ
lệ TYT có đủ cơ cấu nhân lực theo quy định
Chuẩn quốc gia về y tế xã chiếm 23%. So sánh
với qui định của Thông tư 08 thì tỷ lệ trạm có đủ
cán bộ theo qui định chỉ chiếm 43,2%, trong đó
2 tỉnh có tỷ lệ này khá thấp là Kon Tum (18,2%)
và Cao Bằng (5,3%). Tỷ lệ TYT có bác sĩ chiếm
42,3%%, trong số này chủ yếu là đào tạo
chuyên tu chiếm 90%. Bàn về vấn đề nhân lực, ý
kiến của một cán bộ quản lý tuyến tỉnh cho biết
“...nhân lực TYT vừa thiếu lại vừa thừa. Thiếu là
thiếu cán bộ y tế có trình độ, đủ khả năng thực
hiện KCB và các chương trình y tế như bác sĩ,
cán bộ dược Thừa là nói đến mặt chất lượng
nhân lực, TYT chủ yếu là cán bộ sơ cấp, chuyên
môn hạn chế. Nôm na là những cái cần chưa có,
những cái có chưa cần” (TLN Sở Y tế).
Về năng lực chuyên môn của cán bộ y tế: Tỷ
lệ các TYT có thể thực hiện được toàn bộ các kỹ
thuật so với danh mục phân tuyến theo quy định
số 23/2005/QĐ-BYT rất thấp (2,7%). Kiến thức
chuyên môn của cán bộ công tác tại trạm y tế
cũng là một vấn đề cần quan tâm. Trong điều tra
đánh giá kiến thức của đối tượng cán bộ trạm y
tế xã là bác sĩ, y sĩ về xử trí một số bệnh thông
thường, sơ cấp cứu và phòng chống bệnh dịch,
kết quả cho thấy tỷ lệ cán bộ có kiến thức đúng
về chẩn đoán bệnh lao cao (93,4%), các nội
dung còn lại có tỷ lệ trả lời đúng dưới 50%, đặc
biệt kiến thức về sơ cấp cứu trong cấp cứu dị vật
đường hô hấp và kiến thức về các tiêu chí để
chẩn đoán bệnh sốt rét có tỷ lệ trả lời đúng rất
thấp, lần lượt là 9,8% và 6,6%. Khi chia kiến
thức theo nhóm vấn đề và lấy thang điểm tối đa
là 5 điểm thì điểm trung bình cho nhóm kiến
thức về sơ cấp cứu ban đầu chỉ đạt 1,7 điểm;
nhóm kiến thức về chẩn đoán bệnh thông
thường là 2,4 điểm và nhóm kiến thức về phòng
chống bệnh dịch là 1 điểm.
Thực trạng việc thực hiện chức năng,
nhiệm vụ cơ bản của TYT khu vực miền núi
Về hoạt động khám chữa bệnh, toàn bộ các
xã trong địa bàn khảo sát đều thực hiện chức
năng KCB với tỷ lệ khám trung bình/dân/năm là
1,2 lần (năm 2010). Tỷ lệ này cao hơn so với kết
quả của nghiên cứu về tình hình KCB tại TYT xã
do Hội Kinh tế Y tế (0,89 lần) và nghiên cứu 5
tỉnh miền núi phía Bắc và Tây Nguyên do Viện
Chiến lược và Chính sách Y tế thực hiện (1,0
lần) [2,3]. Kết quả này cũng cao hơn so với qui
định tại Chuẩn quốc gia về Y tế xã giai đoạn
2001 - 2010 (0,6 lần/người/năm). Điều này có
thể do nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người dân
ngày càng cao, khả năng tiếp cận dịch vụ y tế tốt
hơn so với trước đây do giao thông thuận tiện, tỷ
lệ người dân có thẻ bảo hiểm y tế tăng lên và việc
khám chữa bệnh bảo hiểm y tế được thực hiện
ngay tại TYT xã. Nghiên cứu về tình hình sử
dụng dịch vụ y tế của người nghèo tại 5 tỉnh của
Dự án HEMA cũng cho thấy người dân có thẻ
BHYT sử dụng dịch vụ y tế với tỷ lệ cao hơn
người không có thẻ BHYT [2]. KCB BHYT tại
TYT xã chiếm tỷ lệ tương đối cao (80%), cho
kết quả tương tự với nghiên cứu của Hội Kinh tế
Y tế (84,6.%)[3]. Điều này góp phần vào công
cuộc xóa đói giảm nghèo, định hướng công
bằng và hiệu quả trong CSSK ban đầu, phù hợp
với định hướng BHYT toàn dân vào năm 2014.
Tỷ lệ bệnh nhân chuyển tuyến ở xã có bác sĩ
(5,4%) thấp hơn so với xã không có bác sỹ
(7,8%). Điều này có thể lý giải trên thực tế khi
trạm có bác sĩ thì trình độ chuyên môn cao hơn,
xử trí bệnh tốt hơn, do vậy tỷ lệ chuyển tuyến sẽ
thấp hơn ở trạm không có bác sĩ.
Về lĩnh vực CSSKBMTE: Tỷ lệ sinh tại trạm
của các tỉnh nghiên cứu khá thấp, chiếm 24,4%.
Kết quả này thấp hơn so với kết quả từ nghiên
cứu về chức năng nhiệm vụ của trạm y tế xã do
Hội Kinh tế Y tế thực hiện năm 2010 (31,65%).
Tỷ lệ đẻ tại nhà là 28,4%, tương đồng với kết
quả (30,7%) từ nghiên cứu của Lý Văn Cảnh,
2006 [4] về huy động cộng đồng truyền thông
Bàn luận
23
Chính sách - Số 10/2012 Y tế
Tạp chí
giáo dục sức khỏe CSSKBĐ. Tỷ lệ sinh tại trạm
chưa cao cũng có thể do công tác truyền thông
CSSKSS nhằm cải thiện việc sinh đẻ tại trạm ở
các tỉnh miền núi còn hạn chế [5,6]. Phong tục
tập quán lạc hậu là một trong những nguyên
nhân chủ yếu của việc đẻ tại nhà của đồng bào
dân tộc miền núi [2].
Về hoạt động phòng chống dịch và thực hiện
các chương trình y tế: Kết quả nghiên cứu cho
thấy đa số các TYT đều có xây dựng kế hoạch
phòng chống dịch hàng năm thể hiện sự chủ
động đối phó với bệnh dịch của các TYT. Một
mảng quan trọng trong dự phòng là việc thực
hiện các chương trình y tế. Số chương trình y tế
trung bình thực hiện tại các TYT được khảo sát
là 15,9 chương trình, trong đó xã thực hiện ít
chương trình nhất là 13 và nhiều nhất là 19. Số
liệu từ nghiên cứu này cho thấy với nhân lực
bình quân là 5 nhân viên/trạm thì khối lượng
công việc không phải là quá lớn. Tuy nhiên công
tác ghi chép sổ sách của các chương trình lại là
một vấn đề cần quan tâm. Số sổ sách trung bình
tại các xã là 42,5 quyển, trong khi đó việc quản
lý, theo dõi thông tin đều được cán bộ y tế thực
hiện bằng tay, do vậy sẽ có ảnh hưởng không
nhỏ tới thời gian KCB, gây quá tải cho tuyến xã.
Các nghiên cứu trước đây về thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của trạm y tế xã cũng hoàn toàn
phù hợp với nhận định này [7,8].
Khả năng đáp ứng của trạm y tế
Về cơ sở vật chất, trang thiết bị: Với kết quả
thu được từ nghiên cứu này có thể thấy không
còn tình trạng xã “trắng” về TYT ở 4 tỉnh nghiên
cứu. Đây là một thành công của ngành y tế trong
việc xóa xã trắng về TYT ở khu vực miền núi.
Tuy nhiên tỷ lệ CSVC xuống cấp dưới mức
trung bình (38%) theo đánh giá của trạm trưởng
là một chỉ số ảnh hưởng không nhỏ tới chất
lượng KCB và thu hút người bệnh. Bên cạnh đó
tỷ lệ TYT có đủ số phòng theo qui định của
Chuẩn còn ở mức thấp (16,5%), 30% số trạm
được đánh giá đủ TTB cũng là một thách thức
trong việc phấn đấu thực hiện bộ tiêu chí quốc
gia về y tế xã giai đoạn 2011-2020.
Về cung ứng thuốc: tỷ lệ các TYT xã thiếu
thuốc so với danh mục thuốc thiết yếu vẫn còn
cao (45%) ở cả 4 tỉnh nghiên cứu. Nhìn chung
công tác dược tại TYT còn nhiều hạn chế trong
đảm bảo về số lượng, và chủng loại thuốc, cũng
như nhân lực [3], nhưng hoạt động cung cấp
thuốc thiết yếu tại tuyến YTCS đã bước đầu đảm
bảo nhu cầu điều trị bệnh thông thường của
người dân tại cộng đồng.
Về nhân lực y tế: So sánh với qui định trong
Thông tư 08 thì tỷ lệ trạm có đủ cán bộ theo qui
định mới chiếm 43,2%. Sự thiếu hụt về cán bộ y
tế là tình trạng phổ biến và thách thức lớn nhất
của YTCS, đặc biệt ở các tỉnh miền núi. Đây
cũng là khó khăn đối với TYT trong việc phấn
đấu đạt tiêu chí quốc gia về y tế xã giai đoạn
2011-2020. Bên cạnh đó, cơ cấu và số lượng cán
bộ đủ đáp ứng công việc theo đánh giá của
CBYT chỉ chiếm 25,7%. Tỷ lệ bác sĩ ở nghiên
cứu này chỉ chiếm 50% và có tới 90% là đào tạo
chuyên tu, phù hợp với phát hiện từ nghiên cứu
năm 2001 của Nguyễn Thị Hoài Nga. Điều này
phần nào giải thích cho tỷ lệ khám, tỷ lệ sinh con
tại trạm thấp ở nghiên cứu này.
Về năng lực chuyên môn của cán bộ y tế: Tỷ
lệ trạm thực hiện được tất cả các kỹ thuật theo
danh mục rất thấp, chỉ chiếm 2,7%. Đây là một
kết quả đáng lo ngại về công tác KCB tại tuyến
xã các tỉnh miền núi. Kiến thức chuyên môn của
cán bộ công tác tại trạm y tế cũng là một vấn đề
cần quan tâm. Kiến thức cơ bản về sơ cấp cứu
trong cấp cứu dị vật đường hô hấp và kiến thức
về các tiêu chí để chẩn đoán bệnh sốt rét có tỷ lệ
trả lời đúng rất thấp (dưới 10%). Điều đáng nói
ở đây là kiến thức của nhóm CBYT là bác sỹ
cũng rất thấp.
Về cơ bản các TYT đã thực hiện đủ các chức
năng nhiệm vụ theo quy định và đã làm tăng khả
năng tiếp cận dịch vụ y tế của người dân ngay tại
tuyến y tế cơ sở. Tuy nhiên, chất lượng khám
chữa bệnh tại TYT xã vẫn còn hạn chế do tình
Kết luận
24
Nghiên cứu chính sách
trạng CSVC xuống cấp (38% CSVC xuống cấp
dưới mức trung bình), TTB thiếu (chiếm 30% số
xã khảo sát), thiếu thuốc trong danh mục (chiếm
tỷ lệ 45%), thiếu nhân lực (chiếm 43% theo
TT08) và kiến thức chuyên môn của CBYT
tuyến xã còn nhiều hạn chế (tỷ lệ trạm thực hiện
được toàn bộ kỹ thuật so với danh mục mới đạt
gần 3%). Việc ghi chép quá nhiều sổ sách (trung
bình 42,5 quyển sổ/trạm) đang là một gánh
nặng công việc cho cán bộ tại trạm y tế hiện nay.
Tài liệu tham khảo:
1. Liêm, T.T., Hòa, Đ.T.P, Đánh giá kiến thức cán bộ y tế và trang thiết bị tại TYT xã về chăm sóc trẻ sơ
sinh, 2009, Hà Nội.
2. Cương, D.V, Oanh, T.M và cs, Đánh giá tình hình chăm sóc sức khỏe cho người nghèo tại 5 tỉnh miền
núi phía Bắc và Tây Nguyên, 2007, Hà Nội.
3. Hội Khoa học Kinh tế y tế Việt Nam, Đánh giá thực trạng công tác khám chữa bệnh tại trạm y tế xã,
phường, 2010, Hội khoa học kinh tế y tế Việt Nam: Hà Nội. p. 2010/09/25.
4. Cảnh, L.V, Huy động cồng đồng trong truyền thông giáo dục sức khỏe chăm sóc sức khỏe ban đầu,
2006.
5. Dũng, T.V, Nghiên cứu theo dõi điểm (SENTINEL) về tình hình cung cấp và sử dụng dịch vụ y tế tại
28 xã nông thôn trong 2 năm 2000-2001, 2002, Đơn vị chính sách-Vụ kế hoạch Bộ Y tế, Hà Nội.
6. Vừng, V.V., Đ.T. Đạt, cộng sự, Thực trạng về vệ sinh môi trường tại một số phòng khám và TYT xã
thuộc tỉnh Đăk Lăk, 2005, Viện Vệ sinh Dịch tễ Tây Nguyên, Viện Vệ sinh Dịch tễ Tây Nguyên,
Buôn Ma Thuột, Đăk Lăk.
7. Hội Khoa học Kinh tế Y tế Việt Nam, Tình hình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của TYT khu vực đô
thị. 2010, Hà Nội.
8. Hùng, N.V, Đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, 2009,
Đại học Y Hải Phòng, Hải Phòng.
25
Chính sách - Số 10/2012 Y tế
Tạp chí
MộT Số NHậN XéT Về THựC TRạNG NGUồN NHÂN LựC
TRạM Y Tế Xã, PHƯờNG, THị TRấN TạI
MộT Số TỉNH, THàNH PHố TRONG TOàN QUốC
1
Nguyễn Tuấn Hưng
Hệ thống y tế cơ sở trên địa bàn xã, phường,
thị trấn (gọi chung là y tế cơ sở) được xác định là
đơn vị kỹ thuật y tế đầu tiên tiếp xúc với nhân
dân, nằm trong hệ thống y tế nhà nước có nhiệm
vụ thực hiện các dịch vụ kỹ thuật chăm sóc sức
khoẻ ban đầu, phát hiện dịch sớm, chữa các
bệnh và đỡ đẻ thông thường, vận động nhân dân
thực hiện các biện pháp kế hoạch hoá gia đình,
vệ sinh phòng bệnh, tăng cường sức khoẻ
(Quyết định số 58/1994/QĐ-TTg).
Trước nhu cầu ngày càng cao của người dân
với dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu; nhằm
góp phần thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ về
đầu tư phát triển con người, việc xem xét, đánh
giá, đổi mới sắp xếp về tổ chức, cơ cấu nhân lực
và nhiệm vụ của trạm y tế xã đáp ứng với tình
hình hiện nay và phù hợp với các vùng, miền.
Các quy định về tổ chức và chế độ chính sách đối
với y tế cơ sở được quy định tại Quyết định số
58/1994/QĐ-TTg và Quyết định 131/1995/QĐ-
TTg của Thủ tướng Chính phủ đến nay đã được
điều chỉnh một số nội dung liên quan về chế độ
tiền lương, chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y
tế, định mức biên chế đối với trạm y tế xã.
Xuất phát từ thực tế trên, chúng tôi thực hiện
đề tài "Thực trạng nguồn nhân lực trạm y tế xã,
phường, thị trấn tại một số tỉnh, thành phố trong
toàn quốc" với mục tiêu: Mô tả thực trạng về tổ
chức, cơ cấu nhân lực của trạm y tế xã tại một số
tỉnh/thành phố từ đó đề xuất thay đổi mô hình tổ
chức, cơ cấu chức danh và số lượng nhân lực tại
trạm y tế cho phù hợp với tình hình mới.
Đặt vấn đề
1
Phó Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ, Bộ Y tế
Đối tượng nghiên cứu
Lãnh đạo Sở Y tế, Sở Nội vụ, Phòng Y tế,
Trung tâm Y tế huyện, Trung tâm Dân số -
KHHGĐ, ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn,
Trưởng trạm và cán bộ y tế của trạm y tế xã,
phường, thị trấn.
Địa điểm nghiên cứu và thời gian nghiên
cứu
- Nghiên cứu được thực hiện tại 04 tỉnh: Hà
Giang, Hà Nội, Kon Tum, Trà Vinh.
- Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 01 năm
2011 đến tháng 9 năm 2011
Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp nghiên cứu mô tả cắt
ngang có phân tích, kết hợp kỹ thuật thu thập
thông tin định tính và định lượng.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
Thông tin về đối tượng tham gia nghiên
cứu
Trong số 366 nhân viên y tế (NVYT) đang
làm việc tại các trạm y tế thuộc 4 tỉnh tham gia
điều tra có 20,2% NVYT là nam giới, 79,8%
NVYT là nữ giới, 73,8% NVYT là người dân
tộc Kinh, 41,0% làm việc tại trạm y tế phường,
thị trấn (59,0% làm việc tại trạm y tế xã), 19,7%
làm việc tại trạm y tế thuộc khu vực khó khăn và
Kết quả và bàn luận
Xỏc
định
/đỏn
h gi
ỏ vấ
n đề
Xỏc
định
vấn
đề v
à cỏc
chủ
đề c
hớnh
Tổ c
hức
in tư
vấn
của
cỏc b
ờn li
ờn
quan
- Chu
ẩn b
ị RIA
sơ b
ộ
Chu
ẩn b
ị RI
A
mộ
t ph
ần
Chu
ẩn b
ị cỏ
c v
ăn b
ản th
am v
ấn (b
ao
gồm
RIA
một
phầ
n) v
à ph
ổ biế
n
Tha
m v
ấn c
ủa c
ỏc b
ờn li
ờn q
uan
T
iến h
ành
chớn
h thứ
c xin
tham
vấn
,
và/h
oặc
thu t
hập
cỏc t
ờ trỡn
h viế
t
tay
T
iến h
ành
điều
tra n
ếu c
ần th
iết
Thu
thậ
p số
liệu
và p
hõn
tớch
Túm
tắt c
ỏc th
am v
ấn, t
hu th
ập v
à
phõn
tớch
số l
iệu.
Xỏc
định
cỏc
vấn
đề tồ
n tại
Chu
ẩn b
ị bỏ
o cỏ
o RI
A
đầy
đủ
Chu
ẩn b
ị RIA
đầy
đủ, b
ao g
ồm
túm
tắt cỏ
c tha
m vấ
n
Thụ
ng q
ua b
ỏo c
ỏo R
IA
Đệ t
rỡnh
lấy
chữ
ký c
ủa th
ủ trư
ởng
cỏc c
ơ qu
an n
hà n
ước
cú tr
ỏch
nhiệ
m
Cú c
ần p
hải t
ham
vấn
và/h
oặc c
ần
thờm
số
liệu
sõu
hơn
khụn
g?
Cú Khụ
ng
Nhữ
ng k
ết qu
ả ban
đầu
cú g
iỳp ớ
ch ch
o RI
A
một
phần
khụ
ng?
Cú Khụ
ng
26
Nghiên cứu chính sách
đặc biệt khó khăn, 16,9% làm việc tại trạm y tế
có phòng khám đa khoa khu vực đóng trên địa
bàn, 42,6% có thâm niên công tác trên 10 năm,
20,5% có thâm niên công tác từ 6 đến 10 năm,
83,6% là nhân viên của trạm y tế.
Đối với y tế thôn, bản
Thực trạng việc thực hiện những quy định về tổ chức, nhân lực, chế độ chính sách đối với y tế
cơ sở
Biểu đồ 1. Tỷ lệ nhân viên y tế thôn, bản được đào tạo 3 tháng trở lên
Tỷ lệ nhân viên y tế thôn, bản có trình độ đào
tạo từ 3 tháng trở lên duy trì ở mức trên 70% từ
năm 2003 đến 2008; ngày 11/5/2009 Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
75/2009/QĐ-TTg về việc quy định chế độ phụ
cấp đối với nhân viên y tế thôn, bản với mức
phụ cấp được hưởng là 0,3 và 0,5 mức lương tối
thiểu chung;
Bảng 1. Tổ chức trạm y tế xã, phường, thị trấn thuộc 4 tỉnh nghiên cứu
Tổ chức trạm y tế:
Số đơn vị cấp xã thành lập trạm y tế tại 4 tỉnh
điều tra cao nhất ở Hà Nội 99,8%, thấp nhất là
Trà Vinh 88,5%, Hà Giang 90,3% và Kon Tum
96,7%. ở những xã, phường, thị trấn có phòng
khám đa khoa khu vực đóng trên địa bàn, việc
thành lập trạm y tế có sự khác nhau, tỉnh Hà
Giang có 19 phòng khám đa khoa khu vực thì 19
đơn vị cấp xã này (100%) không thành lập trạm
y tế mà giao cho phòng khám đa khoa khu vực
đảm nhận thực hiện các nhiệm vụ của trạm y tế,
Trà Vinh có 15 phòng khám đa khoa khu vực thì
12 đơn vị cấp xã không thành lập trạm y tế
Chỉ số Hà Giang Hà Nội Kon Tum Trà Vinh
Tổng số đơn vị xã, phường, thị trấn 195 577 97 104
Số phòng khám đa khoa khu vực 19 40 17 15
Số đơn vị cấp xã thành lập trạm y tế 176
90,3%
576
99,8%
94
96,9%
92
88,5%
Số đơn vị cấp xã có PKĐKKV đóng trên
địa bàn nhưng vẫn thành lập trạm y tế
0 39
97,5%
14
82,4%
3
20%
Số đơn vị cấp xã có PKĐKKV đóng trên
địa bàn nhưng không thành lập trạm y tế
19
100%
1
2,5%
3
17,6%
12
80%
27
Chính sách - Số 10/2012 Y tế
Tạp chí
(80%); ngược lại 2 tỉnh trên, Hà Nội có 40 và
Kon Tum có 17 phòng khám đa khoa khu vực
nhưng ở đơn vị cấp xã có phòng khám đa khoa
khu vực này vẫn thành lập trạm y tế (Hà Nội
97,5%, Kon Tum 82,4%).
Nhân lực y tế
Bảng 2. Số lượng NVYT làm việc tại trạm y tế
Bình quân NVYT/trạm cao nhất ở Trà Vinh
(7,2), thấp nhất ở Hà Giang (4,8), Hà Nội và
Kon Tum ở mức gần với bình quân chung của 63
tỉnh, thành phố (5,8). Số NVYT trong định biên
có sự khác nhau về tỷ lệ giữa NVYT thuộc biên
chế nhà nước và thuộc diện hợp đồng theo
Quyết định 58; Hà Nội có số NVYT làm việc tại
trạm y tế chủ yếu thuộc diện hợp đồng (91,7%),
trong khí đó 3 tỉnh còn lại chủ yếu thuộc biên
chế nhà nước (Hà Giang 92,8%, Kon Tum
87,4%, Trà Vinh 100%).
Bảng 3: Loại hình lao động tại trạm y tế
Bảng 4: Cơ cấu các chức danh chuyên môn tại trạm y tế
Chỉ số nhân lực Hà Giang Hà Nội Kon Tum Trà Vinh 63 tỉnh
Tổng số NVYT xã, phường, thị trấn 943 3.725 525 747 64.450
Số NVYT thuộc
biên chế Nhà nước
Số NVYT thuộc diện
hợp đồng theo QĐ 58
Số lượng
Số lượng
875
68
310
3.415
459
66
747
0
31.753
32.697
Tỷ lệ %
Tỷ lệ %
92,8
7,2
8,3
91,7
87,4
12,6
100,0
0
49,3
50,7
Bình quân NVYT/trạm 4,8 5,7 5,4 7,2 5,8
Hà Giang
(n = 84 )
Hà Nội
(n = 89)
Kon Tum
(n = 95)
Trà Vinh
(n = 98)
Cộng (N=366)Đơn vị
Loại hình lao động
Đã được tuyển dụng
Hợp đồng theo QĐ 58
TTYT huyện hợp đồng
59
70,2%
25
29,8%
0
SL %
16
18,0%
69
77,5%
4
4,5%
78
82,1%
17
17,9%
0
97
99,0%
0
1
1,0%
250
111
5
68,3
30,3
1,4
Sở Y tế
(n = 8 )
TTYT
(n = 8)
Trạm y tế
(n = 16)
Cộng (N=32)Đơn vị
Chức danh chuyên môn
Bác sỹ
Y sỹ Đa khoa
Y sỹ Sản Nhi
Y sỹ Y học dân tộc
Hộ sinh trung học
Điều dưỡng
Dược sỹ trung học
Khác
SL %
90,6
90,6
50,0
81,3
93,8
84,4
93,8
28,1
7
7
5
7
7
8
7
1
8
8
5
7
8
8
8
5
14
14
6
12
15
11
15
3
29
29
16
26
30
27
30
9
28
Nghiên cứu chính sách
Trong số 32 cán bộ là đại diện lãnh đạo Sở Y
tế, trung tâm y tế huyện và trưởng trạm y tế tham
gia phỏng vấn sâu có ý kiến trả lời về cơ cấu
chức danh chuyên môn làm việc tại trạm y tế cần
có tập trung ở 5 nhóm chính: Chức danh bác sỹ
90,6%, chức danh y sỹ (bao gồm y sỹ Đa khoa
90,6%, y sỹ Sản Nhi 50,0%, y sỹ Y học dân tộc
81,3%), chức danh hộ sinh trung học 93,8%,
chức danh điều dưỡng 84,4% và chức danh dược
sỹ trung học 93,8%; ngoài ra có 28,1% ý kiến
cung nêu ra cơ cấu cần quy định có chức danh
khác như kỹ thuật viên để thực hiện một số hoạt
động chuyên môn trong công tác chẩn đoán
bệnh.
Kết luận
Về tổ chức y tế xã, phường, thị trấn
Thống nhất tên gọi là trạm y tế xã, phường,
thị trấn; là đơn vị chuyên môn, kỹ thuật nằm
trong hệ thống y tế Nhà nước được thành lập
thống nhất trên địa bàn xã, phường, thị trấn.
Trạm y tế chịu sự quản lý, chỉ đạo và hướng
dẫn của trung tâm y tế huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh về chuyên môn, nghiệp vụ, kinh
phí và nhân lực.
Trạm y tế xã chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo của
Chủ tịch ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn
(sau đây gọi chung là ủy ban nhân dân xã) trong
việc xây dựng kế hoạch triển khai công tác y tế
để trình cơ quan có thẩm quyền và chịu trách
nhiệm tổ chức thực hiện kế hoạch đó sau khi đã
được phê duyệt; phối hợp với các ngành, đoàn
thể trong xã tham gia vào các hoạt động chăm
sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân.
Việc thành lập, giải thể, sáp nhập trạm y tế xã
do ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương quyết định hoặc ủy quyền cho Giám
đốc Sở Y tế quyết định theo thẩm quyền để phù
hợp với các quy định hiện nay về phân cấp quản lý.
Về nhân lực
Viên chức làm việc tại trạm y tế xã là viên
chức sự nghiệp y tế thuộc biên chế của trung tâm
y tế huyện được phân công, bố trí làm việc tại
trạm y tế xã. Việc tuyển dụng, sử dụng, hợp
đồng làm việc và các quy định khác thực hiện
theo quy định của Luật viên chức. Các chức
danh làm việc tại trạm y tế xã phải đạt tiêu chuẩn
chuyên môn nghiệp vụ ngành y tế
Định mức biên chế được xác định trên cơ sở
nhiệm vụ và nhu cầu về chăm sóc sức khỏe nhân
dân, theo đặc điểm địa lý và quy mô dân số, trạm
y tế được bố trí từ 06 đến 11 người có hệ số điều
chỉnh theo vùng địa lý. Đối với các xã có dân số
đông, địa bàn hoạt động khó khăn, sau khi tính
Tổ chức trạm y tế được thành lập theo địa giới
hành chính (kể cả những xã, phường, thị trấn có
trung tâm y tế huyện đóng trên địa bàn), những
nơi có phòng khám đa khoa khu vực thì việc
thành lập trạm y tế có khác nhau ở các địa
phương, không thành lập trạm y tế theo cụm dân
cư (98,7% xã, phường, thị trấn có trạm y tế).
Thẩm quyền thành lập do ủy ban nhân dân cấp
tỉnh quyết định; 100% trạm y tế được xác định là
đơn vị chuyên môn, kỹ thuật, nằm trong hệ
thống y tế nhà nước.
Nhân lực làm việc tại các trạm y tế được tăng
cường cả về số lượng và chất lượng; loại hình
NVYT đã được tuyển dụng (tập trung các ở các
tỉnh thuộc khu vực phía nam), hợp đồng theo
Quyết định 58 (tập trung ở các tỉnh thuộc khu
vực phía bắc), hợp đồng theo công việc (do
Trung tâm Y tế huyện hoặc UBND xã ký hợp
đồng và trả phụ cấp); các chức danh chuyên
môn gồm bác sỹ, y sỹ (y sỹ Đa khoa, y sỹ Sản
Nhi, y sỹ Y học dân tộc), hộ sinh, điều dưỡng,
chức danh dược trung cấp đã được thực hiện ở
các tỉnh phía nam, các tỉnh khu vực phía bắc chủ
yếu là kiêm nhiệm để đáp ứng với công việc
theo nhiệm vụ.
Những nhiệm vụ của trạm y tế theo quy định
tại Thông tư số 08/TTLB năm 1995 đến nay cơ
bản vẫn còn phù hợp; việc triển khai khám
BHYT tại trạm y tế đã tạo điều kiện cho nhân dân
tiếp cận với dịch vụ khám chữa bệnh tại cơ sở.
Khuyến nghị
29
Chính sách - Số 10/2012 Y tế
Tạp chí
số lượng biên chế theo số dân và hệ số điều
chỉnh mà cao hơn 11 người/01trạm thì ủy ban
nhân dân tỉnh xem xét trình Hội đồng nhân dân
tỉnh quyết định.
Số lao động thuộc diện hợp đồng theo Quyết
định số 58/1994/QĐ/TTg của Thủ tướng Chính
phủ không phải là viên chức nhưng được hưởng
mọi quyền lợi như viên chức có văn bằng, chứng
chỉ đào tạo trình độ đại học, trung học và sơ học
về chuyên môn kỹ thuật y tế và có đủ điều kiện,
tiêu chuẩn theo quy định thì được xét tuyển
chuyển thành viên chức. Trung tâm y tế huyện
có trách nhiệm hoàn tất các thủ tục để bảo đảm
các quyền lợi, chế độ chính sách về ổn định việc
làm, chế độ tiền lương và các quyền lợi khác
đang được hưởng.
TàI LIệU THAM KHảO
1. Ban Bí thư Trung ương Đảng (2002), Chỉ thị số 06-CT/TW ngày 22/01/2002 về củng cố và hoàn thiện
mạng lưới y tế cơ sở.
2. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 46-NQ/TW ngày 23/02/2005 về công tác bảo vệ, chăm sóc và
nâng cao sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới.
3. Bộ Y tế - Tài chính - Lao động thương binh xã hội - Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ (1995), Thông tư
liên bộ số 08/TT-LB ngày 20/4/1995 hướng dẫn một số vấn đề về tổ chức và chế độ chính sách đối với
y tế cơ sở.
4. Bộ Y tế - Bộ Nội vụ (2008), Thông tư Liên tịch số 03/2008/TTLT-BYT-BNV ngày 25/4/2008 của liên
Bộ Y tế và Nội vụ hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Y tế, Phòng Y tế
thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện.
5. Bộ Y tế (1995, 2000, 2007, 2008, 2009, 6 tháng 2010), Thống kê về tổ chức, nhân lực y tế địa phương.
6. Chính phủ (1994), Quyết định số 58/1994/QĐ-TTg ngày 03/02/1994 của Thủ tướng Chính phủ quy
định một số vấn đề về tổ chức và chế độ chính sách đối với y tế cơ sở.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
ket_qua_thuc_hien_chuc_nang_nhiem_vu_cua_mot_so_tram_y_te_xa.pdf