Kết quả thực hiện chức năng nhiệm vụ của một số trạm y tế xã khu vực miền núi

Về tổ chức y tế xã, phờng, thị trấn Thống nhất tên gọi là trạm y tế xã, phờng, thị trấn; là đơn vị chuyên môn, kỹ thuật nằm trong hệ thống y tế Nhà nớc đợc thành lập thống nhất trên địa bàn xã, phờng, thị trấn. Trạm y tế chịu sự quản lý, chỉ đạo và hớng dẫn của trung tâm y tếhuyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh về chuyên môn, nghiệp vụ, kinh phí và nhân lực. Trạm y tế xã chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo của Chủ tịch ủy ban nhân dân xã, phờng, thị trấn (sau đây gọi chung là ủy ban nhân dân xã) trong việc xây dựng kế hoạch triển khai công tác y tế để trình cơ quan có thẩm quyền và chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện kế hoạch đó sau khi đã đợc phê duyệt; phối hợp với các ngành, đoàn thể trong xã tham gia vào các hoạt động chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân. Việc thành lập, giải thể, sáp nhập trạm y tế xã do ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ơng quyết định hoặc ủy quyền cho Giám đốc Sở Y tế quyết định theo thẩm quyền để phù hợp với các quy định hiện nay về phân cấp quản lý. Về nhân lực Viên chức làm việc tại trạm y tế xã là viên chức sự nghiệp y tếthuộc biên chếcủa trung tâm y tế huyện đợc phân công, bố trí làm việc tại trạm y tế xã. Việc tuyển dụng, sử dụng, hợp đồng làm việc và các quy định khác thực hiện theo quy định của Luật viên chức. Các chức danh làm việc tại trạm y tếxã phải đạt tiêu chuẩn chuyên môn nghiệp vụ ngành y tế Định mức biên chế đợc xác định trên cơ sở nhiệm vụ và nhu cầu về chăm sóc sức khỏe nhân dân, theo đặc điểm địa lý và quy mô dân số, trạm y tế đợc bố trí từ 06 đến 11 ngời có hệ số điều chỉnh theo vùng địa lý. Đối với các xã có dân số đông, địa bàn hoạt động khó khăn, sau khi tính ố lợng biên chế theo số dân và hệ số điều chỉnh mà cao hơn 11 ngời/01trạm thì ủy ban nhân dân tỉnh xem xét trình Hội đồng nhân dân tỉnh quyết định. Số lao động thuộc diện hợp đồng theo Quyết định số 58/1994/QĐ/TTg của Thủ tớng Chính phủ không phải là viên chức nhng đợc hởng mọi quyền lợi nh viên chức có văn bằng, chứng chỉ đào tạo trình độ đại học, trung học và sơ học về chuyên môn kỹ thuật y tế và có đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định thì đợc xét tuyển chuyển thành viên chức. Trung tâm y tế huyện có trách nhiệm hoàn tất các thủ tục để bảo đảm các quyền lợi, chế độ chính sách về ổn định việc làm, chế độ tiền lơng và các quyền lợi khác đang đợc hởng

pdf10 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 41 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả thực hiện chức năng nhiệm vụ của một số trạm y tế xã khu vực miền núi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
20 Nghiên cứu chính sách Kết quả thực hiện chức năng nhiệm vụ của một số trạm y tế xã khu vực miền núi Trần Thị Mai Oanh, Nguyễn Thị Thắng, Dương Huy Lương, 1 2 Hoàng Thu Thủy, Nguyễn Hoàng Giang và cộng sự Y tế tuyến cơ sở (bao gồm y tế tuyến huyện và xã) đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống y tế, là tuyến đầu tiên cung cấp các dịch vụ y tế cơ bản cho người dân. Với vai trò này, trạm y tế xã (TYT) có chức năng, nhiệm vụ chính là khám chữa bệnh ban đầu (KCBBĐ), phòng chống bệnh dịch, chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em và thực hiện các chương trình mục tiêu y tế. Trong thời gian qua, với việc thực hiện các chính sách của Đảng, Nhà nước về củng cố và hoàn thiện hoạt động y tế tuyến cơ sở, y tế tuyến xã đã đạt được những thành quả nhất định. Với 95% số xã có cơ sở trạm, trong đó khoảng 60% số trạm đạt chuẩn, ngành y tế đã cơ bản xóa được vùng "trắng" về y tế. Người dân được tiếp cận tốt hơn với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu (CSSKBĐ) tại xã khi công tác khám chữa bệnh bảo hiểm y tế được đưa về tuyến xã...Tuy nhiên, trong bối cảnh bệnh dịch (cúm H5N1, H1N1, sốt xuất huyết...) phát triển, nhu cầu khám chữa bệnh của người dân ngày càng tăng, trong khi đó điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị, nguồn nhân lực tại tuyến xã có xu hướng giảm, đặc biệt là khu vực miền núi [1] thì việc rà soát lại việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của trạm y tế ở khu vực này là rất cần thiết. Nghiên cứu này nhằm mục tiêu đánh giá thực trạng việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ cơ bản của trạm y tế xã khu vực miền núi, phân tích khả năng đáp ứng của trạm y tế xã với nhu cầu CSSKBĐ của người dân trong tình hình mới từ đó đề xuất giải pháp về chính sách nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của trạm y tế xã ở khu vực miền núi. Đặt vấn đề Đối tượng, địa điểm và phương pháp nghiên cứu Đối tượng, địa điểm nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là cán bộ y tế làm công tác quản lý ở tuyến tỉnh, huyện, toàn bộ cán bộ công tác tại trạm y tế xã và người dân. Nghiên cứu được tiến hành tại 4 tỉnh miền núi bao gồm Điện Biên, Cao Bằng, Kon Tum và Bình Định, tại mỗi tỉnh khảo sát 2 huyện và tất cả các xã thuộc 2 huyện. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu sử dụng thiết kế điều tra mô tả cắt ngang, kết hợp với thu thập thông tin hồi cứu (trong vòng 5 năm trước thời điểm nghiên cứu). Mẫu nghiên cứu được chọn theo phương pháp chọn mẫu có chủ đích. 4 tỉnh được lựa chọn là 4 tỉnh miền núi đại diện cho vùng miền núi Đông Bắc, Tây Bắc, Tây Nguyên và Trung Bộ. Mỗi tỉnh lựa chọn 02 huyện theo tiêu chí 1 huyện thuận lợi và 1 huyện khó khăn trong tiếp cận về địa lý. Tại mỗi huyện chọn toàn bộ các xã (tổng số 112 xã thuộc 8 huyện của 4 tỉnh) để khảo sát về cơ sở vật chất, họat động của trạm và thông tin về nhân lực tại trạm. Các kỹ thuật thu thập số liệu bao gồm thảo luận nhóm, phỏng vấn sâu, thu thập số liệu bằng bảng hỏi sẽ được sử dụng trong nghiên cứu này. 1 Khoa Nghiên cứu Y tế Công cộng, Viện Chiến lược và Chính sách Y tế 2 Viện Chiến lược và Chính sách Y tế 21 Chính sách - Số 10/2012 Y tế Tạp chí Tình hình thực hiện chức năng, nhiệm vụ cơ bản của TYT khu vực miền núi Về hoạt động khám chữa bệnh: kết quả khảo sát cho thấy bình quân người dân ở cả 4 tỉnh được khám trung bình tại trạm là 1,2 lần/năm, trong đó cao nhất là Cao Bằng (1,4 lần) và Bình Định thấp nhất (0,9 lần/năm). Trong số các xã khảo sát, có xã chỉ khám trung bình 0,1 lượt khám/người/năm (Điện Biên), trong khi đó có xã ở Cao Bằng tỷ lệ này là 5,1 lần. Tỷ lệ người dân có BHYT đến KCB tại TYT xã chiếm tỷ lệ cao ở các tỉnh Cao Bằng, Điện Biên và Kon Tum (trên 80% tổng số bệnh nhân đến KCB tại trạm). Tỷ lệ trung bình bệnh nhân chuyển tuyến ở xã có bác sĩ (5,4%) thấp hơn so với xã không có bác sỹ (7,8%). Về lĩnh vực CSSKBMTE: tỷ lệ các ca sinh tại trạm khá thấp (24,4%), đặc biệt tỷ lệ sinh tại TYT xã của Bình Định chỉ chiếm 10,7% tổng số các ca sinh đẻ trong năm. Có 45/112 TYT xã không có ca sinh nào tại trạm trong năm 2009, bao gồm: Cao Bằng: 16/28 TYT, Bình Định: 19/24 TYT, Điện Biên: 5/28 TYT, Kon Tum: 5/22 TYT. Tỷ lệ sinh tại nhà là 28,4%. Kết quả từ nghiên cứu định tính phần nào phản á nh nguyên nhân người dân không đến sinh con tại trạm xuất phát từ cả hai phía người dân và cung ứng dịch vụ. Về phía người dân, đó là vấn đề phong tục, khả năng tiếp cận “Do phong tục tập quán nên mặc dù chúng tôi đã cố gắng tích cực truyền thông đấy nhưng dân vẫn không chấp nhận và đến trạm sinh đẻ”, “ở đây có đi được ô tô đâu, chủ yếu là xe máy hay đi bộ thôi nên dân ngại đi xa đẻ lắm. Thói quen vẫn là đẻ ở nhà thôi”. (TLN trưởng trạm). Về phía ngành y tế, “Tỷ lệ đẻ tại trạm thấp do CSVC ở nhiều xã chưa đảm bảo yêu cầu về phòng đẻ, chật hẹp, không có nước. Có xã gần bệnh viện nên người dân đến đẻ luôn lại bệnh viện...” (TLN cán bộ TTYT) Về hoạt động phòng chống dịch và thực hiện các chương trình y tế: Kết quả nghiên cứu cho Kết quả nghiên cứu thấy đa số các TYT đều có xây dựng kế hoạch phòng chống dịch hàng năm. Số chương trình y tế trung bình thực hiện tại các TYT được khảo sát là 15,9 chương trình, trong đó xã thực hiện ít chương trình nhất là 13 và nhiều nhất là 19. Các chương trình ít được thực hiện là các chương trình y tế học đường, phòng chống đái tháo đường, phòng chống tăng huyết áp, ung thư... Công tác ghi chép sổ sách của các chương trình cũng là một vấn đề đáng quan tâm. Số sổ sách trung bình tại các xã là 42,5 quyển, trong đó xã nhiều nhất là 76 quyển, ít nhất là 27 quyển. Việc ghi chép nhiều sổ sách như vậy gây mất thời gian của cán bộ tại trạm nhưng tính chính xác của thông tin lại không cao “... nói thật ra thì thông tin chỉ chính xác khoảng 50, 60% là cùng thôi. Nhiều số liệu ước các năm trước mà cho vào. Hơn nữa nhiều số liệu có kiểm tra cũng không thể biết đúng hay sai, vì làm sao mà tính được” (TLN trưởng TYT) Khả năng đáp ứng của trạm y tế đối với nhu cầu CSSKBĐ của người dân Về cơ sở vật chất: Trong số 112 trạm y tế của 8 huyện khảo sát vẫn còn tới 6% cơ sở trạm là nhà tạm. Theo đánh giá của các trưởng trạm, tình trạng cơ sở vật chất của TYT ở dưới mức chấp nhận được là 38%. Tỷ lệ TYT có đủ số phòng theo quy định Chuẩn quốc gia y tế xã chỉ chiếm 16,5%. Về trang thiết bị: Đa số các TYT đều đánh giá các TTB văn phòng ở tình trạng thiếu hoặc chấp nhận được. Theo đánh giá của các trưởng TYT Bình Định và Kon Tum, tỷ lệ TYT thiếu các TTB văn phòng chiếm khoảng 54% (chủ yếu là bàn ghế, tủ hồ sơ, máy tính, máy in...). Đối với các TTB y tế, Điện Biên có 50% TYT đánh giá là đủ TTB y tế, trong khi đó tỷ lệ này ở Kon Tum là 27,3%, Cao Bằng là 18,4%, đặc biệt Bình Định chỉ có 8,3%. Về cung ứng dược của trạm y tế: Tỷ lệ các TYT thiếu thuốc trong danh mục ở cả 4 tỉnh nghiên cứu là 44,9% trong đó cao nhất là Cao 22 Nghiên cứu chính sách Bằng với tỷ lệ thiếu thuốc trong danh mục lên tới 72%. Tương tự như vậy về thuốc, hóa chất cho phòng chống dịch thì chỉ có Bình Định là đủ với tỷ lệ trên 90%. Về nhân lực y tế: Số liệu khảo sát cho thấy tỷ lệ TYT có đủ cơ cấu nhân lực theo quy định Chuẩn quốc gia về y tế xã chiếm 23%. So sánh với qui định của Thông tư 08 thì tỷ lệ trạm có đủ cán bộ theo qui định chỉ chiếm 43,2%, trong đó 2 tỉnh có tỷ lệ này khá thấp là Kon Tum (18,2%) và Cao Bằng (5,3%). Tỷ lệ TYT có bác sĩ chiếm 42,3%%, trong số này chủ yếu là đào tạo chuyên tu chiếm 90%. Bàn về vấn đề nhân lực, ý kiến của một cán bộ quản lý tuyến tỉnh cho biết “...nhân lực TYT vừa thiếu lại vừa thừa. Thiếu là thiếu cán bộ y tế có trình độ, đủ khả năng thực hiện KCB và các chương trình y tế như bác sĩ, cán bộ dược Thừa là nói đến mặt chất lượng nhân lực, TYT chủ yếu là cán bộ sơ cấp, chuyên môn hạn chế. Nôm na là những cái cần chưa có, những cái có chưa cần” (TLN Sở Y tế). Về năng lực chuyên môn của cán bộ y tế: Tỷ lệ các TYT có thể thực hiện được toàn bộ các kỹ thuật so với danh mục phân tuyến theo quy định số 23/2005/QĐ-BYT rất thấp (2,7%). Kiến thức chuyên môn của cán bộ công tác tại trạm y tế cũng là một vấn đề cần quan tâm. Trong điều tra đánh giá kiến thức của đối tượng cán bộ trạm y tế xã là bác sĩ, y sĩ về xử trí một số bệnh thông thường, sơ cấp cứu và phòng chống bệnh dịch, kết quả cho thấy tỷ lệ cán bộ có kiến thức đúng về chẩn đoán bệnh lao cao (93,4%), các nội dung còn lại có tỷ lệ trả lời đúng dưới 50%, đặc biệt kiến thức về sơ cấp cứu trong cấp cứu dị vật đường hô hấp và kiến thức về các tiêu chí để chẩn đoán bệnh sốt rét có tỷ lệ trả lời đúng rất thấp, lần lượt là 9,8% và 6,6%. Khi chia kiến thức theo nhóm vấn đề và lấy thang điểm tối đa là 5 điểm thì điểm trung bình cho nhóm kiến thức về sơ cấp cứu ban đầu chỉ đạt 1,7 điểm; nhóm kiến thức về chẩn đoán bệnh thông thường là 2,4 điểm và nhóm kiến thức về phòng chống bệnh dịch là 1 điểm. Thực trạng việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ cơ bản của TYT khu vực miền núi Về hoạt động khám chữa bệnh, toàn bộ các xã trong địa bàn khảo sát đều thực hiện chức năng KCB với tỷ lệ khám trung bình/dân/năm là 1,2 lần (năm 2010). Tỷ lệ này cao hơn so với kết quả của nghiên cứu về tình hình KCB tại TYT xã do Hội Kinh tế Y tế (0,89 lần) và nghiên cứu 5 tỉnh miền núi phía Bắc và Tây Nguyên do Viện Chiến lược và Chính sách Y tế thực hiện (1,0 lần) [2,3]. Kết quả này cũng cao hơn so với qui định tại Chuẩn quốc gia về Y tế xã giai đoạn 2001 - 2010 (0,6 lần/người/năm). Điều này có thể do nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người dân ngày càng cao, khả năng tiếp cận dịch vụ y tế tốt hơn so với trước đây do giao thông thuận tiện, tỷ lệ người dân có thẻ bảo hiểm y tế tăng lên và việc khám chữa bệnh bảo hiểm y tế được thực hiện ngay tại TYT xã. Nghiên cứu về tình hình sử dụng dịch vụ y tế của người nghèo tại 5 tỉnh của Dự án HEMA cũng cho thấy người dân có thẻ BHYT sử dụng dịch vụ y tế với tỷ lệ cao hơn người không có thẻ BHYT [2]. KCB BHYT tại TYT xã chiếm tỷ lệ tương đối cao (80%), cho kết quả tương tự với nghiên cứu của Hội Kinh tế Y tế (84,6.%)[3]. Điều này góp phần vào công cuộc xóa đói giảm nghèo, định hướng công bằng và hiệu quả trong CSSK ban đầu, phù hợp với định hướng BHYT toàn dân vào năm 2014. Tỷ lệ bệnh nhân chuyển tuyến ở xã có bác sĩ (5,4%) thấp hơn so với xã không có bác sỹ (7,8%). Điều này có thể lý giải trên thực tế khi trạm có bác sĩ thì trình độ chuyên môn cao hơn, xử trí bệnh tốt hơn, do vậy tỷ lệ chuyển tuyến sẽ thấp hơn ở trạm không có bác sĩ. Về lĩnh vực CSSKBMTE: Tỷ lệ sinh tại trạm của các tỉnh nghiên cứu khá thấp, chiếm 24,4%. Kết quả này thấp hơn so với kết quả từ nghiên cứu về chức năng nhiệm vụ của trạm y tế xã do Hội Kinh tế Y tế thực hiện năm 2010 (31,65%). Tỷ lệ đẻ tại nhà là 28,4%, tương đồng với kết quả (30,7%) từ nghiên cứu của Lý Văn Cảnh, 2006 [4] về huy động cộng đồng truyền thông Bàn luận 23 Chính sách - Số 10/2012 Y tế Tạp chí giáo dục sức khỏe CSSKBĐ. Tỷ lệ sinh tại trạm chưa cao cũng có thể do công tác truyền thông CSSKSS nhằm cải thiện việc sinh đẻ tại trạm ở các tỉnh miền núi còn hạn chế [5,6]. Phong tục tập quán lạc hậu là một trong những nguyên nhân chủ yếu của việc đẻ tại nhà của đồng bào dân tộc miền núi [2]. Về hoạt động phòng chống dịch và thực hiện các chương trình y tế: Kết quả nghiên cứu cho thấy đa số các TYT đều có xây dựng kế hoạch phòng chống dịch hàng năm thể hiện sự chủ động đối phó với bệnh dịch của các TYT. Một mảng quan trọng trong dự phòng là việc thực hiện các chương trình y tế. Số chương trình y tế trung bình thực hiện tại các TYT được khảo sát là 15,9 chương trình, trong đó xã thực hiện ít chương trình nhất là 13 và nhiều nhất là 19. Số liệu từ nghiên cứu này cho thấy với nhân lực bình quân là 5 nhân viên/trạm thì khối lượng công việc không phải là quá lớn. Tuy nhiên công tác ghi chép sổ sách của các chương trình lại là một vấn đề cần quan tâm. Số sổ sách trung bình tại các xã là 42,5 quyển, trong khi đó việc quản lý, theo dõi thông tin đều được cán bộ y tế thực hiện bằng tay, do vậy sẽ có ảnh hưởng không nhỏ tới thời gian KCB, gây quá tải cho tuyến xã. Các nghiên cứu trước đây về thực hiện chức năng, nhiệm vụ của trạm y tế xã cũng hoàn toàn phù hợp với nhận định này [7,8]. Khả năng đáp ứng của trạm y tế Về cơ sở vật chất, trang thiết bị: Với kết quả thu được từ nghiên cứu này có thể thấy không còn tình trạng xã “trắng” về TYT ở 4 tỉnh nghiên cứu. Đây là một thành công của ngành y tế trong việc xóa xã trắng về TYT ở khu vực miền núi. Tuy nhiên tỷ lệ CSVC xuống cấp dưới mức trung bình (38%) theo đánh giá của trạm trưởng là một chỉ số ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng KCB và thu hút người bệnh. Bên cạnh đó tỷ lệ TYT có đủ số phòng theo qui định của Chuẩn còn ở mức thấp (16,5%), 30% số trạm được đánh giá đủ TTB cũng là một thách thức trong việc phấn đấu thực hiện bộ tiêu chí quốc gia về y tế xã giai đoạn 2011-2020. Về cung ứng thuốc: tỷ lệ các TYT xã thiếu thuốc so với danh mục thuốc thiết yếu vẫn còn cao (45%) ở cả 4 tỉnh nghiên cứu. Nhìn chung công tác dược tại TYT còn nhiều hạn chế trong đảm bảo về số lượng, và chủng loại thuốc, cũng như nhân lực [3], nhưng hoạt động cung cấp thuốc thiết yếu tại tuyến YTCS đã bước đầu đảm bảo nhu cầu điều trị bệnh thông thường của người dân tại cộng đồng. Về nhân lực y tế: So sánh với qui định trong Thông tư 08 thì tỷ lệ trạm có đủ cán bộ theo qui định mới chiếm 43,2%. Sự thiếu hụt về cán bộ y tế là tình trạng phổ biến và thách thức lớn nhất của YTCS, đặc biệt ở các tỉnh miền núi. Đây cũng là khó khăn đối với TYT trong việc phấn đấu đạt tiêu chí quốc gia về y tế xã giai đoạn 2011-2020. Bên cạnh đó, cơ cấu và số lượng cán bộ đủ đáp ứng công việc theo đánh giá của CBYT chỉ chiếm 25,7%. Tỷ lệ bác sĩ ở nghiên cứu này chỉ chiếm 50% và có tới 90% là đào tạo chuyên tu, phù hợp với phát hiện từ nghiên cứu năm 2001 của Nguyễn Thị Hoài Nga. Điều này phần nào giải thích cho tỷ lệ khám, tỷ lệ sinh con tại trạm thấp ở nghiên cứu này. Về năng lực chuyên môn của cán bộ y tế: Tỷ lệ trạm thực hiện được tất cả các kỹ thuật theo danh mục rất thấp, chỉ chiếm 2,7%. Đây là một kết quả đáng lo ngại về công tác KCB tại tuyến xã các tỉnh miền núi. Kiến thức chuyên môn của cán bộ công tác tại trạm y tế cũng là một vấn đề cần quan tâm. Kiến thức cơ bản về sơ cấp cứu trong cấp cứu dị vật đường hô hấp và kiến thức về các tiêu chí để chẩn đoán bệnh sốt rét có tỷ lệ trả lời đúng rất thấp (dưới 10%). Điều đáng nói ở đây là kiến thức của nhóm CBYT là bác sỹ cũng rất thấp. Về cơ bản các TYT đã thực hiện đủ các chức năng nhiệm vụ theo quy định và đã làm tăng khả năng tiếp cận dịch vụ y tế của người dân ngay tại tuyến y tế cơ sở. Tuy nhiên, chất lượng khám chữa bệnh tại TYT xã vẫn còn hạn chế do tình Kết luận 24 Nghiên cứu chính sách trạng CSVC xuống cấp (38% CSVC xuống cấp dưới mức trung bình), TTB thiếu (chiếm 30% số xã khảo sát), thiếu thuốc trong danh mục (chiếm tỷ lệ 45%), thiếu nhân lực (chiếm 43% theo TT08) và kiến thức chuyên môn của CBYT tuyến xã còn nhiều hạn chế (tỷ lệ trạm thực hiện được toàn bộ kỹ thuật so với danh mục mới đạt gần 3%). Việc ghi chép quá nhiều sổ sách (trung bình 42,5 quyển sổ/trạm) đang là một gánh nặng công việc cho cán bộ tại trạm y tế hiện nay. Tài liệu tham khảo: 1. Liêm, T.T., Hòa, Đ.T.P, Đánh giá kiến thức cán bộ y tế và trang thiết bị tại TYT xã về chăm sóc trẻ sơ sinh, 2009, Hà Nội. 2. Cương, D.V, Oanh, T.M và cs, Đánh giá tình hình chăm sóc sức khỏe cho người nghèo tại 5 tỉnh miền núi phía Bắc và Tây Nguyên, 2007, Hà Nội. 3. Hội Khoa học Kinh tế y tế Việt Nam, Đánh giá thực trạng công tác khám chữa bệnh tại trạm y tế xã, phường, 2010, Hội khoa học kinh tế y tế Việt Nam: Hà Nội. p. 2010/09/25. 4. Cảnh, L.V, Huy động cồng đồng trong truyền thông giáo dục sức khỏe chăm sóc sức khỏe ban đầu, 2006. 5. Dũng, T.V, Nghiên cứu theo dõi điểm (SENTINEL) về tình hình cung cấp và sử dụng dịch vụ y tế tại 28 xã nông thôn trong 2 năm 2000-2001, 2002, Đơn vị chính sách-Vụ kế hoạch Bộ Y tế, Hà Nội. 6. Vừng, V.V., Đ.T. Đạt, cộng sự, Thực trạng về vệ sinh môi trường tại một số phòng khám và TYT xã thuộc tỉnh Đăk Lăk, 2005, Viện Vệ sinh Dịch tễ Tây Nguyên, Viện Vệ sinh Dịch tễ Tây Nguyên, Buôn Ma Thuột, Đăk Lăk. 7. Hội Khoa học Kinh tế Y tế Việt Nam, Tình hình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của TYT khu vực đô thị. 2010, Hà Nội. 8. Hùng, N.V, Đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, 2009, Đại học Y Hải Phòng, Hải Phòng. 25 Chính sách - Số 10/2012 Y tế Tạp chí MộT Số NHậN XéT Về THựC TRạNG NGUồN NHÂN LựC TRạM Y Tế Xã, PHƯờNG, THị TRấN TạI MộT Số TỉNH, THàNH PHố TRONG TOàN QUốC 1 Nguyễn Tuấn Hưng Hệ thống y tế cơ sở trên địa bàn xã, phường, thị trấn (gọi chung là y tế cơ sở) được xác định là đơn vị kỹ thuật y tế đầu tiên tiếp xúc với nhân dân, nằm trong hệ thống y tế nhà nước có nhiệm vụ thực hiện các dịch vụ kỹ thuật chăm sóc sức khoẻ ban đầu, phát hiện dịch sớm, chữa các bệnh và đỡ đẻ thông thường, vận động nhân dân thực hiện các biện pháp kế hoạch hoá gia đình, vệ sinh phòng bệnh, tăng cường sức khoẻ (Quyết định số 58/1994/QĐ-TTg). Trước nhu cầu ngày càng cao của người dân với dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu; nhằm góp phần thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ về đầu tư phát triển con người, việc xem xét, đánh giá, đổi mới sắp xếp về tổ chức, cơ cấu nhân lực và nhiệm vụ của trạm y tế xã đáp ứng với tình hình hiện nay và phù hợp với các vùng, miền. Các quy định về tổ chức và chế độ chính sách đối với y tế cơ sở được quy định tại Quyết định số 58/1994/QĐ-TTg và Quyết định 131/1995/QĐ- TTg của Thủ tướng Chính phủ đến nay đã được điều chỉnh một số nội dung liên quan về chế độ tiền lương, chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, định mức biên chế đối với trạm y tế xã. Xuất phát từ thực tế trên, chúng tôi thực hiện đề tài "Thực trạng nguồn nhân lực trạm y tế xã, phường, thị trấn tại một số tỉnh, thành phố trong toàn quốc" với mục tiêu: Mô tả thực trạng về tổ chức, cơ cấu nhân lực của trạm y tế xã tại một số tỉnh/thành phố từ đó đề xuất thay đổi mô hình tổ chức, cơ cấu chức danh và số lượng nhân lực tại trạm y tế cho phù hợp với tình hình mới. Đặt vấn đề 1 Phó Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ, Bộ Y tế Đối tượng nghiên cứu Lãnh đạo Sở Y tế, Sở Nội vụ, Phòng Y tế, Trung tâm Y tế huyện, Trung tâm Dân số - KHHGĐ, ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn, Trưởng trạm và cán bộ y tế của trạm y tế xã, phường, thị trấn. Địa điểm nghiên cứu và thời gian nghiên cứu - Nghiên cứu được thực hiện tại 04 tỉnh: Hà Giang, Hà Nội, Kon Tum, Trà Vinh. - Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 01 năm 2011 đến tháng 9 năm 2011 Phương pháp nghiên cứu Sử dụng phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích, kết hợp kỹ thuật thu thập thông tin định tính và định lượng. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu Thông tin về đối tượng tham gia nghiên cứu Trong số 366 nhân viên y tế (NVYT) đang làm việc tại các trạm y tế thuộc 4 tỉnh tham gia điều tra có 20,2% NVYT là nam giới, 79,8% NVYT là nữ giới, 73,8% NVYT là người dân tộc Kinh, 41,0% làm việc tại trạm y tế phường, thị trấn (59,0% làm việc tại trạm y tế xã), 19,7% làm việc tại trạm y tế thuộc khu vực khó khăn và Kết quả và bàn luận Xỏc định /đỏn h gi ỏ vấ n đề Xỏc định vấn đề v à cỏc chủ đề c hớnh Tổ c hức in tư vấn của cỏc b ờn li ờn quan - Chu ẩn b ị RIA sơ b ộ Chu ẩn b ị RI A mộ t ph ần Chu ẩn b ị cỏ c v ăn b ản th am v ấn (b ao gồm RIA một phầ n) v à ph ổ biế n Tha m v ấn c ủa c ỏc b ờn li ờn q uan T iến h ành chớn h thứ c xin tham vấn , và/h oặc thu t hập cỏc t ờ trỡn h viế t tay T iến h ành điều tra n ếu c ần th iết Thu thậ p số liệu và p hõn tớch Túm tắt c ỏc th am v ấn, t hu th ập v à phõn tớch số l iệu. Xỏc định cỏc vấn đề tồ n tại Chu ẩn b ị bỏ o cỏ o RI A đầy đủ Chu ẩn b ị RIA đầy đủ, b ao g ồm túm tắt cỏ c tha m vấ n Thụ ng q ua b ỏo c ỏo R IA Đệ t rỡnh lấy chữ ký c ủa th ủ trư ởng cỏc c ơ qu an n hà n ước cú tr ỏch nhiệ m Cú c ần p hải t ham vấn và/h oặc c ần thờm số liệu sõu hơn khụn g? Cú Khụ ng Nhữ ng k ết qu ả ban đầu cú g iỳp ớ ch ch o RI A một phần khụ ng? Cú Khụ ng 26 Nghiên cứu chính sách đặc biệt khó khăn, 16,9% làm việc tại trạm y tế có phòng khám đa khoa khu vực đóng trên địa bàn, 42,6% có thâm niên công tác trên 10 năm, 20,5% có thâm niên công tác từ 6 đến 10 năm, 83,6% là nhân viên của trạm y tế. Đối với y tế thôn, bản Thực trạng việc thực hiện những quy định về tổ chức, nhân lực, chế độ chính sách đối với y tế cơ sở Biểu đồ 1. Tỷ lệ nhân viên y tế thôn, bản được đào tạo 3 tháng trở lên Tỷ lệ nhân viên y tế thôn, bản có trình độ đào tạo từ 3 tháng trở lên duy trì ở mức trên 70% từ năm 2003 đến 2008; ngày 11/5/2009 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 75/2009/QĐ-TTg về việc quy định chế độ phụ cấp đối với nhân viên y tế thôn, bản với mức phụ cấp được hưởng là 0,3 và 0,5 mức lương tối thiểu chung; Bảng 1. Tổ chức trạm y tế xã, phường, thị trấn thuộc 4 tỉnh nghiên cứu Tổ chức trạm y tế: Số đơn vị cấp xã thành lập trạm y tế tại 4 tỉnh điều tra cao nhất ở Hà Nội 99,8%, thấp nhất là Trà Vinh 88,5%, Hà Giang 90,3% và Kon Tum 96,7%. ở những xã, phường, thị trấn có phòng khám đa khoa khu vực đóng trên địa bàn, việc thành lập trạm y tế có sự khác nhau, tỉnh Hà Giang có 19 phòng khám đa khoa khu vực thì 19 đơn vị cấp xã này (100%) không thành lập trạm y tế mà giao cho phòng khám đa khoa khu vực đảm nhận thực hiện các nhiệm vụ của trạm y tế, Trà Vinh có 15 phòng khám đa khoa khu vực thì 12 đơn vị cấp xã không thành lập trạm y tế Chỉ số Hà Giang Hà Nội Kon Tum Trà Vinh Tổng số đơn vị xã, phường, thị trấn 195 577 97 104 Số phòng khám đa khoa khu vực 19 40 17 15 Số đơn vị cấp xã thành lập trạm y tế 176 90,3% 576 99,8% 94 96,9% 92 88,5% Số đơn vị cấp xã có PKĐKKV đóng trên địa bàn nhưng vẫn thành lập trạm y tế 0 39 97,5% 14 82,4% 3 20% Số đơn vị cấp xã có PKĐKKV đóng trên địa bàn nhưng không thành lập trạm y tế 19 100% 1 2,5% 3 17,6% 12 80% 27 Chính sách - Số 10/2012 Y tế Tạp chí (80%); ngược lại 2 tỉnh trên, Hà Nội có 40 và Kon Tum có 17 phòng khám đa khoa khu vực nhưng ở đơn vị cấp xã có phòng khám đa khoa khu vực này vẫn thành lập trạm y tế (Hà Nội 97,5%, Kon Tum 82,4%). Nhân lực y tế Bảng 2. Số lượng NVYT làm việc tại trạm y tế Bình quân NVYT/trạm cao nhất ở Trà Vinh (7,2), thấp nhất ở Hà Giang (4,8), Hà Nội và Kon Tum ở mức gần với bình quân chung của 63 tỉnh, thành phố (5,8). Số NVYT trong định biên có sự khác nhau về tỷ lệ giữa NVYT thuộc biên chế nhà nước và thuộc diện hợp đồng theo Quyết định 58; Hà Nội có số NVYT làm việc tại trạm y tế chủ yếu thuộc diện hợp đồng (91,7%), trong khí đó 3 tỉnh còn lại chủ yếu thuộc biên chế nhà nước (Hà Giang 92,8%, Kon Tum 87,4%, Trà Vinh 100%). Bảng 3: Loại hình lao động tại trạm y tế Bảng 4: Cơ cấu các chức danh chuyên môn tại trạm y tế Chỉ số nhân lực Hà Giang Hà Nội Kon Tum Trà Vinh 63 tỉnh Tổng số NVYT xã, phường, thị trấn 943 3.725 525 747 64.450 Số NVYT thuộc biên chế Nhà nước Số NVYT thuộc diện hợp đồng theo QĐ 58 Số lượng Số lượng 875 68 310 3.415 459 66 747 0 31.753 32.697 Tỷ lệ % Tỷ lệ % 92,8 7,2 8,3 91,7 87,4 12,6 100,0 0 49,3 50,7 Bình quân NVYT/trạm 4,8 5,7 5,4 7,2 5,8 Hà Giang (n = 84 ) Hà Nội (n = 89) Kon Tum (n = 95) Trà Vinh (n = 98) Cộng (N=366)Đơn vị Loại hình lao động Đã được tuyển dụng Hợp đồng theo QĐ 58 TTYT huyện hợp đồng 59 70,2% 25 29,8% 0 SL % 16 18,0% 69 77,5% 4 4,5% 78 82,1% 17 17,9% 0 97 99,0% 0 1 1,0% 250 111 5 68,3 30,3 1,4 Sở Y tế (n = 8 ) TTYT (n = 8) Trạm y tế (n = 16) Cộng (N=32)Đơn vị Chức danh chuyên môn Bác sỹ Y sỹ Đa khoa Y sỹ Sản Nhi Y sỹ Y học dân tộc Hộ sinh trung học Điều dưỡng Dược sỹ trung học Khác SL % 90,6 90,6 50,0 81,3 93,8 84,4 93,8 28,1 7 7 5 7 7 8 7 1 8 8 5 7 8 8 8 5 14 14 6 12 15 11 15 3 29 29 16 26 30 27 30 9 28 Nghiên cứu chính sách Trong số 32 cán bộ là đại diện lãnh đạo Sở Y tế, trung tâm y tế huyện và trưởng trạm y tế tham gia phỏng vấn sâu có ý kiến trả lời về cơ cấu chức danh chuyên môn làm việc tại trạm y tế cần có tập trung ở 5 nhóm chính: Chức danh bác sỹ 90,6%, chức danh y sỹ (bao gồm y sỹ Đa khoa 90,6%, y sỹ Sản Nhi 50,0%, y sỹ Y học dân tộc 81,3%), chức danh hộ sinh trung học 93,8%, chức danh điều dưỡng 84,4% và chức danh dược sỹ trung học 93,8%; ngoài ra có 28,1% ý kiến cung nêu ra cơ cấu cần quy định có chức danh khác như kỹ thuật viên để thực hiện một số hoạt động chuyên môn trong công tác chẩn đoán bệnh. Kết luận Về tổ chức y tế xã, phường, thị trấn Thống nhất tên gọi là trạm y tế xã, phường, thị trấn; là đơn vị chuyên môn, kỹ thuật nằm trong hệ thống y tế Nhà nước được thành lập thống nhất trên địa bàn xã, phường, thị trấn. Trạm y tế chịu sự quản lý, chỉ đạo và hướng dẫn của trung tâm y tế huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh về chuyên môn, nghiệp vụ, kinh phí và nhân lực. Trạm y tế xã chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo của Chủ tịch ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là ủy ban nhân dân xã) trong việc xây dựng kế hoạch triển khai công tác y tế để trình cơ quan có thẩm quyền và chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện kế hoạch đó sau khi đã được phê duyệt; phối hợp với các ngành, đoàn thể trong xã tham gia vào các hoạt động chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân. Việc thành lập, giải thể, sáp nhập trạm y tế xã do ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định hoặc ủy quyền cho Giám đốc Sở Y tế quyết định theo thẩm quyền để phù hợp với các quy định hiện nay về phân cấp quản lý. Về nhân lực Viên chức làm việc tại trạm y tế xã là viên chức sự nghiệp y tế thuộc biên chế của trung tâm y tế huyện được phân công, bố trí làm việc tại trạm y tế xã. Việc tuyển dụng, sử dụng, hợp đồng làm việc và các quy định khác thực hiện theo quy định của Luật viên chức. Các chức danh làm việc tại trạm y tế xã phải đạt tiêu chuẩn chuyên môn nghiệp vụ ngành y tế Định mức biên chế được xác định trên cơ sở nhiệm vụ và nhu cầu về chăm sóc sức khỏe nhân dân, theo đặc điểm địa lý và quy mô dân số, trạm y tế được bố trí từ 06 đến 11 người có hệ số điều chỉnh theo vùng địa lý. Đối với các xã có dân số đông, địa bàn hoạt động khó khăn, sau khi tính Tổ chức trạm y tế được thành lập theo địa giới hành chính (kể cả những xã, phường, thị trấn có trung tâm y tế huyện đóng trên địa bàn), những nơi có phòng khám đa khoa khu vực thì việc thành lập trạm y tế có khác nhau ở các địa phương, không thành lập trạm y tế theo cụm dân cư (98,7% xã, phường, thị trấn có trạm y tế). Thẩm quyền thành lập do ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định; 100% trạm y tế được xác định là đơn vị chuyên môn, kỹ thuật, nằm trong hệ thống y tế nhà nước. Nhân lực làm việc tại các trạm y tế được tăng cường cả về số lượng và chất lượng; loại hình NVYT đã được tuyển dụng (tập trung các ở các tỉnh thuộc khu vực phía nam), hợp đồng theo Quyết định 58 (tập trung ở các tỉnh thuộc khu vực phía bắc), hợp đồng theo công việc (do Trung tâm Y tế huyện hoặc UBND xã ký hợp đồng và trả phụ cấp); các chức danh chuyên môn gồm bác sỹ, y sỹ (y sỹ Đa khoa, y sỹ Sản Nhi, y sỹ Y học dân tộc), hộ sinh, điều dưỡng, chức danh dược trung cấp đã được thực hiện ở các tỉnh phía nam, các tỉnh khu vực phía bắc chủ yếu là kiêm nhiệm để đáp ứng với công việc theo nhiệm vụ. Những nhiệm vụ của trạm y tế theo quy định tại Thông tư số 08/TTLB năm 1995 đến nay cơ bản vẫn còn phù hợp; việc triển khai khám BHYT tại trạm y tế đã tạo điều kiện cho nhân dân tiếp cận với dịch vụ khám chữa bệnh tại cơ sở. Khuyến nghị 29 Chính sách - Số 10/2012 Y tế Tạp chí số lượng biên chế theo số dân và hệ số điều chỉnh mà cao hơn 11 người/01trạm thì ủy ban nhân dân tỉnh xem xét trình Hội đồng nhân dân tỉnh quyết định. Số lao động thuộc diện hợp đồng theo Quyết định số 58/1994/QĐ/TTg của Thủ tướng Chính phủ không phải là viên chức nhưng được hưởng mọi quyền lợi như viên chức có văn bằng, chứng chỉ đào tạo trình độ đại học, trung học và sơ học về chuyên môn kỹ thuật y tế và có đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định thì được xét tuyển chuyển thành viên chức. Trung tâm y tế huyện có trách nhiệm hoàn tất các thủ tục để bảo đảm các quyền lợi, chế độ chính sách về ổn định việc làm, chế độ tiền lương và các quyền lợi khác đang được hưởng. TàI LIệU THAM KHảO 1. Ban Bí thư Trung ương Đảng (2002), Chỉ thị số 06-CT/TW ngày 22/01/2002 về củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở. 2. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 46-NQ/TW ngày 23/02/2005 về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới. 3. Bộ Y tế - Tài chính - Lao động thương binh xã hội - Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ (1995), Thông tư liên bộ số 08/TT-LB ngày 20/4/1995 hướng dẫn một số vấn đề về tổ chức và chế độ chính sách đối với y tế cơ sở. 4. Bộ Y tế - Bộ Nội vụ (2008), Thông tư Liên tịch số 03/2008/TTLT-BYT-BNV ngày 25/4/2008 của liên Bộ Y tế và Nội vụ hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Y tế, Phòng Y tế thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện. 5. Bộ Y tế (1995, 2000, 2007, 2008, 2009, 6 tháng 2010), Thống kê về tổ chức, nhân lực y tế địa phương. 6. Chính phủ (1994), Quyết định số 58/1994/QĐ-TTg ngày 03/02/1994 của Thủ tướng Chính phủ quy định một số vấn đề về tổ chức và chế độ chính sách đối với y tế cơ sở.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfket_qua_thuc_hien_chuc_nang_nhiem_vu_cua_mot_so_tram_y_te_xa.pdf
Tài liệu liên quan