Khai thác chung tại các vùng biển
tranh chấp hoặc tại các nguồn tài nguyên
nằm trên vùng biển thuộc hai quốc gia đã
được thực hiện từ khá lâu trên thế giới. Thực
tiễn quốc tế gần đây chứng minh rằng, biện
pháp khai thác chung có thể đem lại những
lợi ích to lớn trong việc khai thác và phân
chia nguồn tài nguyên giữa các quốc gia liên
quan với nhau. Tuy nhiên, việc khai thác
chung phải đáp ứng được các yêu cầu sau:
1. Khai thác chung phải được thực
hiện trong một khu vực chồng lấn hoặc khi
một nguồn tài nguyên nằm tại vùng biển
thuộc hai quốc gia khác nhau, được xác định
rõ ràng, phù hợp với luật pháp quốc tế.
2. Cơ chế, phương thức hợp tác khai
thác chung phải dựa trên trên cơ sở luật pháp
quốc tế. Tranh chấp biển Đông là một trong
những tranh chấp phức tạp nhất thế giới, vì
thế không có một mô hình nào hay phương
thức hợp tác chung duy nhất nào có thể áp
dụng thành công ở biển Đông. Trong đó,
điều quan trọng là hợp tác khai thác chung
phải đảm bảo phân chia lợi ích của các bên
một cách bình đẳng.
3. Việc khai thác chung này không
làm ảnh hưởng đến quá trình đàm phán cũng
như yêu sách chủ quyền của mỗi bên. Các
bên liên quan có thể đi tới một thỏa thuận
về khai thác chung và thỏa thuận này không
phương hại đến lập trường, quá trình đàm
phán cũng như giải pháp cuối cùng là phân
định vùng biển chồng lấn giữa các bên
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 232 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khai thác chung và những khuyến cáo về khai thác chung trên khu vực biển Đông, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHAI THÁC CHUNG VÀ NHỮNG KHUYẾN CÁO VỀ KHAI THÁC CHUNG
TRÊN KHU VỰC BIỂN ĐÔNG
Tóm tắt:
Khai thác chung đã được quy định trong Công ước Luật Biển năm
1982 cũng như trong thực tiễn quốc tế. Những năm gần đây, các
quốc gia đã có nhiều nỗ lực tìm kiếm các phương án để khai thác
chung tại khu vực tranh chấp trên biển Đông, trong đó Trung Quốc
đã đề xuất phương án “gác tranh chấp, cùng khai thác”. Và có quốc
gia đã ký kết bản ghi nhớ về khai thác chung trên khu vực biển
Đông với Trung Quốc. Vì vậy, việc tìm hiểu và đánh giá khả năng
thực hiện, nêu ra các cảnh báo về khai thác chung giữa các quốc
gia là cần thiết.
Hoàng Việt*
* Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh
Abstract
Joint exploitation has been defined in the of the United Nations
Convention on the Law of the Sea of 1982 as well as in international
practice. In recent years, the nations have made great efforts
to find options for joint exploitation in the disputed area in the
South China Sea, for which China has proposed a plan known as
"dispute pending, joint exploitation". And, nations have signed a
memorandum on joint exploitation in the South China Sea with
China. Therefore, it is necessary to understand and evaluate the
posibility for implementation, to find out warnings about joint
exploitation among the nations.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: khai thác chung, gác tranh
chấp cùng khai thác, biển Đông
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 11/12/2018
Biên tập : 27/12/2018
Duyệt bài : 05/01/2019
Article Infomation:
Keywords: joint exploitation; dispute
pending, joint exploitation; South China
Sea
Article History:
Received : 11 Dec. 2018
Edited : 27 Dec. 2018
Approved : 05 Jan. 2019
Truyền thông thế giới cho biết, trong
chuyến thăm của Chủ tịch Trung Quốc Tập
Cận Bình tới Philippines gần đây, hai bên đã
ký kết 29 thỏa thuận, trong đó có một bản
ghi nhớ (MOU) về khai thác chung trên khu
vực biển Đông1. Trong khi đó, biển Đông
1 https://www.philstar.com/headlines/2018/11/21/1870458/philippines-china-sign-mou-joint-gas-oil-developement
vốn là khu vực có nhiều tranh chấp phức
tạp, luôn tiềm ẩn nhiều nguy cơ xung đột. Vì
vậy, khai thác chung luôn là vấn đề mà nhiều
quốc gia trong khu vực cùng quan tâm, vì
có thể dẫn tới những thay đổi nhất định trên
khu vực biển Đông.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
60 Số 2+3(378+379) T1/2019
1. Quan niệm về khai thác chung
Hiện nay chưa có một quan niệm thống
nhất về khai thác chung. Nhưng có một quan
niệm về khai thác chung đã được nhiều nhà
khoa học sử dụng, đó là quan niệm do Giáo
sư người Đức - Rainer Lagoni đưa ra. Theo
đó, “khai thác chung là sự hợp tác giữa hai
quốc gia về việc thăm dò hoặc khai thác
các trầm tích, các vùng hoặc các khu vực
chứa các tài nguyên không sinh vật mà các
vùng hoặc khu vực đó vắt ngang đường biên
giới hoặc nằm trên các khu vực có những
yêu sách chồng lấn”2. Học giả Thomas A.
Mensah thì cho rằng: “Các khu vực khai thác
chung được xác định hoặc bởi vì các bên rất
khó khăn hoặc không thể cùng nhất trí với
nhau về một đường biên giới chung giữa họ
hay là bởi vì có một nguồn tài nguyên nằm
vắt ngang đường biên giới đã được thống
nhất, theo đó, mỗi bên không thể tự mình
khai thác hiệu quả và công bằng nguồn tài
nguyên đó được”3.
Như vậy, theo quan điểm của Rainer
Lagoni và Thomas A. Mensah, có thể thấy
việc áp dụng khai thác chung có thể diễn ra
trong hai trường hợp sau:
Thứ nhất, khi có một nguồn tài nguyên
nằm vắt ngang biên giới biển của các quốc gia
liên quan. Trong trường hợp này, do các quốc
gia liên quan, mặc dù đã phân định biên giới
biển, nhưng vẫn cần thỏa thuận về việc thăm
dò, khai thác các tài nguyên trong khu vực
2 Rainer Lagoni, Report on Joint Development of Non-living Resources in the Exclusive Economic Zone, I.L.A. Report
of the Sixty-Third Conference, p. 509, at pp. 511–512 (1988), quoted in Mensah, Joint Development Zones as an
Alternative Dispute Settlement Approach in Maritime Boundary Delimitation, in Rainer Lagoni and Daniel Vignes,
Maritime Delimitation, p. 143, at p. 146 (Nijhoff, 2006).
3 Thomas A. Mensah, “Joint Development Zones as an Alternative Dispute Settlement Approach in Maritime Boundary
Delimitation”, in Maritime Delimitation, ed. Rainer Lagoni and Daniel Vignes (Leiden/Boston: Martinus Nijhoff
Publishers, 2006), p. 147
4 Examples are Iran-Sharjah and Saudi Arabia and Sudan. See Vicuna, “Regional cooperation in nonliving resources.”
5 The Ems-Dollard 1960 Treaty between Germany and Netherlands where a joint development zone in Ems Estuary
is divided by a provisional line into two subzones for each country. See Vicuna, “Regional cooperation in nonliving
resources.”
6 Australia and Indonesia have zone of cooperation divided into three areas depending on the type of arrangement/activ-
ity. See Vicuna, “Regional cooperation in nonliving resources.”
đó. Đặc biệt là các tài nguyên năng lượng, bởi
vì các trầm tích có thể chạy cắt ngang đường
biên giới biển của các quốc gia.
Thứ hai, khi nguồn tài nguyên nằm
trong khu vực chồng lấn các yêu sách giữa
các quốc gia ven biển và chưa thể phân định
được. Trong trường hợp này, vì nhiều lý do,
các quốc gia liên quan muốn cùng nhau phát
triển nguồn tài nguyên tại khu vực chồng
lấn các yêu sách đó. Khai thác chung trong
trường hợp này là một hình thức của dàn
xếp tạm thời khi mà khu vực tranh chấp vẫn
chưa thể phân định.
Thực tiễn về khai thác chung cũng rất
phong phú, các loại hình khai thác chung
cũng rất đa dạng. Chỉ tính riêng về phạm
vi địa lý, đã có nhiều cách xây dựng khai
thác chung khác nhau. Có thể là thiết lập
một khu vực chung4, hoặc một khu vực khai
thác chung với phân khu nhỏ5, hay là một
khu vực phức hợp trong đó gồm nhiều khu
vực nhỏ là các khu vực hợp tác khai thác
chung giữa các quốc gia liên quan, các khu
vực hợp tác này tùy thuộc vào loại hình hợp
tác mà các bên thỏa thuận6. Trong việc thăm
dò và khai thác tài nguyên dầu mỏ và khí
đốt có rất nhiều hình thức hợp tác, từ đơn
giản đến phức tạp. Tuy nhiên, các thỏa thuận
khai thác chung thường tồn tại dưới các hình
thức: (1) Một quốc gia đứng ra thực hiện
khai thác chung; (2) Một liên doanh đứng ra
khai thác; (3) Một cơ quan sẽ được các bên
trao thẩm quyền để tiến hành khai thác.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
61Số 2+3(378+379) T1/2019
Hình thức một quốc gia đứng ra khai
thác7: Mặc dù có ít nhất hai quốc gia liên
quan đến việc khai thác chung nhưng chỉ
giao cho một quốc gia đứng ra thực hiện
việc này, quốc gia còn lại sẽ được chia sẻ lợi
nhuận từ việc khai thác tài nguyên đó, sau
khi trừ đi chi phí khai thác mà quốc gia thực
hiện khai thác đã bỏ ra. Nhiều thỏa thuận
khai thác chung ban đầu trên thế giới đã
được thực hiện theo hình thức này8. Trong
mô hình này, các quốc gia liên quan phải
từ bỏ một phần trong các quyền của mình,
để giao cho một quốc gia duy nhất quản lý
nguồn tài nguyên đó. Các thỏa thuận khai
thác chung theo mô hình này chủ yếu được
thực hiện đối với các vùng đáy biển chồng
lấn. Ở ASEAN, thỏa thuận giữa Malaysia -
Brunei năm 2009 là theo mô hình này9.
Hình thức thứ hai là liên doanh khai
thác chung. Đây là mô hình được ưa chuộng
nhất hiện nay. Mô hình này đòi hỏi các bên
liên quan thành lập ra một liên doanh khai
thác. Thành viên của liên doanh có thể là các
công ty dầu khí quốc doanh của quốc gia đó,
hoặc các công ty dầu khí đại diện cho các
quốc gia tham gia khai thác chung.
Mô hình liên doanh khai thác này lại có
hai dạng thức. Dạng thức thứ nhất là các bên
thiết lập một liên doanh khai thác trên nguồn
tài nguyên mà các bên cùng chia sẻ. Dạng
thức thứ hai là các bên thiết lập một thỏa
thuận để cho một công ty liên doanh điều
hành việc khai thác một nguồn tài nguyên
nằm vắt ngang biên giới biển đã được phân
định trước đây của hai quốc gia. Dạng thức
7 David Ong, „Implications of recent Southeast Asian State practice for the international law on offshore joint devel-
opment‟, in Beckman, et al, eds, Beyond Territorial Disputes in the South China Sea: Legal Framework for the Joint
Development of Hydrocarbon Resources (Edward Elgar Publishing, 2013), at 192-193.
8 Robert Beckman and Leonardo Bernard, Framework For The Joint Development Of Hydrocarbon Resources, Center
for International Law, National University of Singapore, p. 20, at https://cil.nus.edu.sg/wp-content/uploads/2010/08/
BECKMAN-AND-BERNARD-FRAMEWORK-FOR-THE-JOINT-DEVELOPMENT-OF-HYDROCARBON-
RESOURCES.pdf
9 https://www.kln.gov.my/archive/content.php?t=7&articleId=735675; https://www.peacepalacelibrary.nl/ebooks/
files/353834688.pdf
10 Robert Beckman and Leonardo Bernard,Ibid, p. 21
11 Robert Beckman and Leonardo Bernard, Ibid, p. 21
12 Robert Beckman and Leonardo Bernard, Ibid, p. 21
thứ hai này được các quốc gia khu vực biển
Bắc thực hiện10.
Hình thức thứ ba trong thỏa thuận khai
thác chung phức tạp hơn và đòi hỏi các bên
hợp tác ở mức độ cao hơn hai phương thức
kia. Các bên liên quan sẽ chọn một cơ quan
có thẩm quyền chung hoặc là một Ủy ban
như một pháp nhân độc lập, Ủy ban này sẽ
đại diện cho các quốc gia tham gia khai thác
chung, có các thẩm quyền ủy trị cần thiết để
phát triển khu vực khai thác chung đã được
xác định rõ11. Thỏa thuận năm 1979 và thỏa
thuận năm 1990 giữa Malaysia - Thái Lan
thuộc hình thức này12.
2. Cơ sở pháp lý cho việc khai thác chung
Khoản 3 Điều 74 và Điều 83 Công ước
Luật Biển năm 1982 (UNCLOS) quy định:
“Trong khi chờ ký kết thỏa thuận ở khoản 1,
các quốc gia hữu quan, trên tinh thần hiểu
biết và hợp tác, làm hết sức mình để đi đến
các dàn xếp tạm thời có tính chất thực tiễn và
để không phương hại hay cản trở việc ký kết
các thỏa thuận dứt khoát trong giai đoạn quá
độ này. Các dàn xếp tạm thời không phương
hại đến việc hoạch định cuối cùng” Đây
chính cơ sở pháp lý của Công ước trong việc
tiến hành hợp tác khai thác chung trong khi
chờ phân định.
Theo quy định trên, có ba yếu tố mà
các quốc gia liên quan phải thực hiện:
Thứ nhất, các quốc gia phải làm hết
sức mình để đi đến các dàn xếp tạm thời
có tính chất thực tiễn. Quy định này mang
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
62 Số 2+3(378+379) T1/2019
hàm ý các bên có nghĩa vụ “đàm phán trên
nguyên tắc thiện chí”13;
Thứ hai, các quốc gia phải thực hiện
“thương lượng bằng phương cách hòa hoãn
để sao cho các bên cùng đi tới các dàn xếp
tạm thời”14. Trong suốt quá trình đàm phán,
thương lượng, các bên có nghĩa vụ không
được phá hoại hay cản trở việc đi đến một
thỏa thuận cuối cùng về phân định biển.
Nghĩa vụ này đã được các Tòa án quốc tế
giải thích là nghĩa vụ này phản ánh tình
trạng cân bằng mỏng manh giữa ngăn ngừa
các hành vi đơn phương có thể xâm hại tới
các quyền của bên kia, và trong thời điểm
đó, không được ngăn trở bên kia có những
hành động phát triển kinh tế tại khu vực biển
tranh chấp trong suốt thời gian tranh chấp.
Tòa án quốc tế đã khẳng định “Bất kỳ những
hành động nào của một bên gây ra những tổn
hại không thể bù đắp cho bên kia trong quá
trình thương lượng để đi tới một thỏa thuận
phân định cuối cùng”15 là vi phạm tới nghĩa
vụ này, và sự khác biệt được tạo ra bởi các
hành động này để dẫn tới một sự thay đổi
vật lý lâu dài, ví dụ như việc khai thác các
mỏ dầu hoặc khí hoặc các hành vi thăm dò
địa chấn”16. Trong vụ Guyana v. Suriname,
Tòa đã phán quyết việc khoan thăm dò trên
vùng biển đang tranh chấp là đã vi phạm
đến nghĩa vụ làm hết sức mình không gây
phương hại hay cản trở đến việc hoạch định
cuối cùng bởi vì các hành động đó có thể
tạo ra sự thay đổi vật lý đến môi trường biển
và làm thay đổi tình trạng đã có sẵn (status
quo)17.
13 Guyana/Suriname Arbitration, UN Law of the Sea Annex VII Arb Trib, award on 17 September 2007, at para 461,
online: Permanent Court of Arbitration ;
14 Guyana/Suriname, Ibid, at paras 471-478.
15 Ranier Lagoni, Interim Measures Pending Maritime Delimitation Agreements‟ (1984) 78 AJIL 345, at 366.
16 Guyana/Suriname Arbitration, para. 467.
17 Guyana/Suriname Arbitration, para. 480
18 Guyana/Suriname Arbitration, para. 461
19 ‘Set Aside Dispute and Pursue Joint Development’, 17 November 2000, online: Ministry of Foreign Affairs of the
People’s Republic of China. https://www.fmprc.gov.cn/mfa_eng/ziliao_665539/3602_665543/3604_665547/t18023.
shtml
20 “Set Aside Dispute and Pursue Joint Development’, 17 November 2000, online: Ministry of Foreign Affairs of the
People’s Republic of China
Thứ ba, “các dàn xếp tạm thời có tính
chất thực tiễn này không ảnh hưởng đến việc
phân định biển cuối cùng”18.
3. Chính sách “gác tranh chấp, cùng khai
thác” của Trung Quốc
Chính sách “gác tranh chấp, cùng
khai thác” của Trung Quốc được Đặng Tiểu
Bình đưa ra lần đầu tại Tokyo tháng 10 năm
198219. Đây là một phương án được Trung
Quốc đưa ra với quan điểm cùng hợp tác
khai thác chung tại khu vực biển Đông.
Chính sách này được phía Trung Quốc
diễn giải: “Khái niệm “gác tranh chấp cùng
khai thác” bao gồm 4 nội dung:
1. Chủ quyền lãnh thổ là thuộc Trung
Quốc;
2. Khi điều kiện cần thiết không xuất
hiện để giải quyết toàn diện tranh chấp lãnh
thổ, việc thảo luận vấn đề chủ quyền lãnh
thổ sẽ tạm gác sang bên cạnh. Việc gác lại
tranh chấp chủ quyền lãnh thổ không có
nghĩa là từ bỏ chủ quyền. Đó chỉ là tạm gác
tranh chấp trong một thời gian;
3. Lãnh thổ tranh chấp có thể được
cùng khai thác;
4. Mục đích của cùng khai thác là duy
trì sự hiểu biết lẫn nhau thông qua sự hợp tác
và tạo ra các điều kiện cho việc giải quyết
quyền sở hữu lãnh thổ”20.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
63Số 2+3(378+379) T1/2019
Phân tích chính sách này của Trung
Quốc cho thấy, mặc dù Trung Quốc đề nghị
khai thác chung, nhưng mặt khác Trung
Quốc vẫn khẳng định khu vực khai thác
chung “chủ quyền lãnh thổ là thuộc Trung
Quốc”. Trên biển Đông, dù rất muốn khai
thác chung, nhưng Trung Quốc vẫn duy trì
yêu sách “đường lưỡi bò” chiếm gần 80%
biển Đông và chủ quyền đối với hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa cùng với hai
khu vực khác là Pratas và Macclesfield mà
Trung Quốc gọi là quần đảo Đông Sa và
quần đảo Trung Sa21.
Quan trọng hơn, phần lớn các khu vực
mà Trung Quốc đề nghị khai thác chung đều
nằm trên khu vực thuộc vùng đặc quyền
kinh tế hoặc thềm lục địa hiển nhiên thuộc
quyền chủ quyền của nước khác.
Thời gian gần đây, Trung Quốc đã luôn
gây sức ép để thực hiện “gác tranh chấp,
cùng khai thác”, đặc biệt là đối với Việt Nam
và Philippines. Chỉ cần một trong hai nước
(hoặc Việt Nam hoặc Philippines) chấp nhận
“gác tranh chấp, cùng khai thác” là Trung
Quốc sẽ đạt được thành công bước đầu. Dựa
trên thành công bước đầu đó, Trung Quốc sẽ
dùng sức mạnh để ép các quốc gia còn lại
phải thực hiện theo22. Và như vậy, nguy cơ
các quốc gia tranh chấp trực tiếp với Trung
Quốc tại khu vực biển Đông sẽ phải “khai
thác chung” với các nguồn tài nguyên nằm
trong vùng đặc quyền kinh tế hoặc thềm
lục địa của chính mình, mà tại các khu vực
đó, theo UNCLOS, các quốc gia đó sẽ có
đặc quyền thăm dò, khai thác các nguồn tài
nguyên mà không phải chia sẻ cho bất cứ ai.
21 Mặc dù Trung Quốc gọi Macclesfield Bank là quần đảo Trung Sa, nhưng bãi này luôn chìm dưới mực nước biển, nên
theo luật biển quốc tế, nó không thể được coi là quần đảo.
22 https://www.voanews.com/a/if-brunei-takes-china-energy-deal-neighbors-may-follow/4690627.html
4. Quy định về khai thác chung trong luật
pháp Philippines
Vấn đề khai thác chung được quy định
trong Hiến pháp năm 1987 của Philippines
và một số văn bản luật khác. Điều XII,
khoản 2 của Hiến pháp năm 1987 quy định:
“Tất cả đất đai, tài nguyên nước, khoáng
sản, mỏ than, dầu mỏ và khí đốt... và các tài
nguyên thiên nhiên khác thuộc sở hữu của
“Nếu không cảnh giác và tỉnh táo
trong khi phát biểu, đàm phán, thỏa thuận
với Trung Quốc thì dễ mắc cạm bẫy của
Bắc Kinh. Từ đó, họ sẽ khai thác những
sơ hở.
Đường “lưỡi bò” chiếm trên 80%
diện tích Biển Đông do Trung Quốc tự
vạch ra xuất phát từ tham vọng độc chiếm
Biển Đông, không dựa vào bất cứ một quy
định nào của Công ước Liên hiệp quốc
về Luật Biển 1982. Mặc dù Trung Quốc
chính thức công bố, yêu sách này cũng sẽ
không bao giờ được coi là một yêu sách
hợp lý, có căn cứ khoa học để xem xét
áp dụng giải pháp tạm thời “hợp tác khai
thác chung” trong vùng chồng lấn được
tạo bởi con đường “hoang tưởng” này.
Thực chất, ngoài khu vực Trường
Sa, các khu vực Trung Quốc muốn “cùng
khai thác” với các nước liên quan đều
là các khu vực nằm trong phạm vi vùng
đặc quyền về kinh tế, thềm lục địa hợp
pháp của các nước có tiềm năng dầu khí
và không có tranh chấp. Do vậy, đề xuất
“gác tranh chấp, cùng khai thác” này của
Trung Quốc không thể chấp nhận được,
chí ít là về nguyên tắc”.
TS. Trần Công Trục “Gác tranh
chấp, cùng khai thác' trên Biển Đông
đang trở thành hiện thực?” Báo Giáo dục
Việt Nam ngày 23/05/2017.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
64 Số 2+3(378+379) T1/2019
Nhà nước... Việc thăm dò, phát triển và sử
dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên này
phải đặt dưới sự kiểm soát hoàn toàn và sự
giám sát đầy đủ của Nhà nước. Nhà nước
có thể đảm nhận trực tiếp việc thực hiện các
hành động này hoặc có thể đưa vào các sản
phẩm hợp tác chung, liên doanh hoặc thỏa
thuận chia sẻ sản phẩm với các công dân
Philippines, hoặc hợp tác, liên kết với ít nhất
60% số vốn thuộc sở hữu của các công dân...
Tổng thống có thể đi đến các thỏa
thuận với các tập đoàn nước ngoài liên quan
đến các vấn đề về công nghệ hoặc trợ giúp
về tài chính cho các dự án thăm dò, phát
triển và sử dụng quy mô lớn đối với các tài
nguyên khoáng sản, dầu mỏ và khí đốt tuân
theo các quy định của luật pháp”23.
Theo quy định này của Hiến pháp năm
1987, Chính phủ Philippines có thể thực hiện
việc thăm dò, phát triển, sử dụng tài nguyên
dầu khí theo các hình thức sau:
(1) Tự mình trực tiếp thực hiện;
(2) Bằng các cách: (i) sản phẩm chung;
(ii) liên doanh; (iii) thỏa thuận phân chia sản
phẩm với các công dân Philippines hoặc các
tập đoàn, với tối thiểu 60% số vốn thuộc sổ
hữu của các công dân đó;
(3) Chấp nhận việc khai thác tài
nguyên thiên nhiên ở quy mô nhỏ sẽ ưu tiên
cho các công dân Philippines nếu luật pháp
cho phép;
(4) Đối với việc thăm dò, phát triển
và sử dụng khoáng sản, dầu mỏ và khí đốt
ở quy mô lớn, Tổng thống có thể đi đến các
thỏa thuận với các tập đoàn nước ngoài để
hỗ trợ về công nghệ hoặc tài chính theo các
quy định cụ thể của luật pháp liên quan24.
Dựa trên quy định của Hiến pháp,
Nghị viện Philippines đã ban hành Đạo luật
Cộng hòa số 7492 hay còn gọi là Đạo luật
23
24 La Bugal B’laan Tribal Association, 445 SCRA at 100-01
25
26 La Bugal B’laan Tribal Association, at
27 La Bugal B’laan Tribal Association, 445 SCRA at 125
28 https://www.rappler.com/nation/197258-malacanang-areas-joint-exploration-china
khai thác của Philippines năm 199525, trong
đó quy định về việc thăm dò, phát triển, sử
dụng và thực hiện quá trình khai thác các
tài nguyên khoáng sản. Trước khi Hiến pháp
1987 được ban hành, Tổng thống Marcos đã
ban hành Sắc lệnh số 87 kèm theo “Đạo luật
thăm dò và phát triển dầu mỏ năm 1972”.
Ngoài ra, nội dung này còn được giải thích
bởi Tòa án Tối cao thông qua một số án
lệ liên quan, điển hình là án lệ La Bugal
B’laan26. Theo án lệ này, quyết định khai
thác dầu mỏ, khí đốt và các khoáng sản phải
tuân thủ các yêu cầu sau:
(1) Hợp đồng dịch vụ (khai thác dầu
khí) phải được soạn thảo tuân thủ các luật
chung, thiết lập các tiêu chuẩn hay điều
khoản mẫu, các điều kiện và các yêu cầu,
có thể đi tới sự thống nhất các điều khoản,
tránh việc đưa các điều khoản bất lợi cho đất
nước;
(2) Tổng thống sẽ đại diện cho chính
phủ ký kết các thỏa thuận, nhưng trước khi
trình Tổng thống ký, các văn bản đó cần
phải được rà soát nhiều lần ở những cấp
khác nhau để đảm bảo tuân thủ pháp luật và
vượt qua được sự thẩm tra của công chúng;
(3) Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày
thỏa thuận có hiệu lực, Tổng thống phải có
trách nhiệm trình lên Nghị viện, để cơ quan
này có thể kiểm tra lại thỏa thuận và can
thiệp vào bằng sự kháng nghị, nếu thấy cần
thiết27.
5. Khai thác chung giữa Philippines -
Trung Quốc trên biển Đông: Liệu có thực
hiện được?
Đầu năm 2018, truyền thông
Philippines cho biết, Manila và Bắc Kinh dự
định sẽ khai thác chung tại hai khu vực, lô
SC 57 và SC 7228. Theo lời Bộ trưởng Năng
lượng của Philippines, lô SC 57 nằm hoàn
toàn trong lãnh thổ của Philippines và không
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
65Số 2+3(378+379) T1/2019
có tranh chấp với phía Trung Quốc tại khu
vực này29.
Theo quy định của pháp luật
Philippines, lô SC 57 không thể là đối tượng
để thực hiện việc khai thác chung, vì hoàn
toàn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của
Philippines và không có tranh chấp với bất
cứ quốc gia nào.
Còn lô SC 72 hay còn gọi là Lô
GSEC101, Philippines khẳng định “Lô
GSEC 101 nằm hoàn toàn trong vùng đặc
quyền kinh tế 200 hải lý của Philippines”30.
Tuy nhiên, Trung Quốc cho rằng “Trung
Quốc có toàn bộ chủ quyền, quyền chủ
quyền và quyền tài phán đối với Trường
Sa và các vùng nước kế cận. Cái gọi là Lô
GSEC101 thuộc về vùng biển của quần đảo
Nam Sa của Trung Quốc”31. Trong Phán
quyết vụ Philippines kiện Trung Quốc, Tòa
Trọng tài đã khẳng định lô SC 72 và một
số lô khác: “đều nằm trong khu vực mà chỉ
Philippines mới có quyền sở hữu các quyền
lợi biển tại các vùng biển được quy định bởi
UNCLOS. Các khu vực liên quan này tạo
thành vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục
địa cho Philippines”32.
Như vậy, nếu Philippines quyết định
sẽ khai thác chung tại Lô SC 72, Philippines
sẽ tự tước bỏ lợi ích của mình mà Tòa trọng
tài đã xác định. Thêm nữa, việc khai thác
chung tại Lô SC 72 sẽ có thể vi phạm Hiến
pháp 1987. Philippines là một quốc gia áp
dụng “tam quyền phân lập” trong cấu trúc
nhà nước. Chính vì vậy, việc đánh giá quyết
định khai thác chung tại Lô SC 72 có vi hiến
hay không sẽ thuộc thẩm quyền của Tòa án
Tối cao Philippines. Quyền Chánh án Tòa án
Tối cao Philippines Antonio Carpio đã tuyên
bố trên báo chí rằng, khai thác chung tại khu
29 https://news.abs-cbn.com/news/09/27/17/ph-china-set-bilateral-meeting-for-joint-development-in-west-ph-sea
30 Note Verbale from the Department of Foreign Affairs of the Republic of the Philippines to the Embassy of the People’s
Republic of China in Manila, No. 110885 (4 Apr. 2011), p. 2.
31 Note Verbale from the Embassy of the People’s Republic of China in Manila to the Department of Foreign
Affairs of the Republic of the Philippines, No. (10)PG-047 (22 Feb. 2010), p. 1.
32 Award of Arbitral Tribunal under Annex VII to UNCLOS between The Philippines and China, 2016, para. 697
33 https://www.philstar.com/headlines/2018/11/27/1872058/antonio-carpio-joint-exploration-exploitation-west-philip-
pine-sea-unconstitutional
vực này là vi hiến33. Vì vậy, khả năng thực
hiện được khai thác chung giữa Philippines
và Trung Quốc tại khu vực này vẫn còn là
xa vời.
6. Một số khuyến cáo
Khai thác chung tại các vùng biển
tranh chấp hoặc tại các nguồn tài nguyên
nằm trên vùng biển thuộc hai quốc gia đã
được thực hiện từ khá lâu trên thế giới. Thực
tiễn quốc tế gần đây chứng minh rằng, biện
pháp khai thác chung có thể đem lại những
lợi ích to lớn trong việc khai thác và phân
chia nguồn tài nguyên giữa các quốc gia liên
quan với nhau. Tuy nhiên, việc khai thác
chung phải đáp ứng được các yêu cầu sau:
1. Khai thác chung phải được thực
hiện trong một khu vực chồng lấn hoặc khi
một nguồn tài nguyên nằm tại vùng biển
thuộc hai quốc gia khác nhau, được xác định
rõ ràng, phù hợp với luật pháp quốc tế.
2. Cơ chế, phương thức hợp tác khai
thác chung phải dựa trên trên cơ sở luật pháp
quốc tế. Tranh chấp biển Đông là một trong
những tranh chấp phức tạp nhất thế giới, vì
thế không có một mô hình nào hay phương
thức hợp tác chung duy nhất nào có thể áp
dụng thành công ở biển Đông. Trong đó,
điều quan trọng là hợp tác khai thác chung
phải đảm bảo phân chia lợi ích của các bên
một cách bình đẳng.
3. Việc khai thác chung này không
làm ảnh hưởng đến quá trình đàm phán cũng
như yêu sách chủ quyền của mỗi bên. Các
bên liên quan có thể đi tới một thỏa thuận
về khai thác chung và thỏa thuận này không
phương hại đến lập trường, quá trình đàm
phán cũng như giải pháp cuối cùng là phân
định vùng biển chồng lấn giữa các bên■
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
66 Số 2+3(378+379) T1/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khai_thac_chung_va_nhung_khuyen_cao_ve_khai_thac_chung_tren.pdf