Khảo sát dung tích hít vào của bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính sau điều trị thuốc giãn phế quản
- Các thuốc giãn phế quản như Formoterol,
salmeterol, oxytropium được xem là các thuốc
điều trị duy trì BPTNMT.Kết quả cho thấy ở
bệnh nhân BPTNMT có giảm trị số IC cơ bản thì
có sự gia tăng IC sau chỉ định thuốc giãn phế
quản, sự gia tăng này có tương quan mạnh với
cảm giác cải thiện khó thở khi nghĩ ngơi.Thuốc
giãn phế quản thường được sử dụng ở bệnh
nhân BPTNMT để làm giảm sự tắc nghẽn , hầu
hết nhiều bệnh nhân BPTNMT có thể tồn tại
chắc chắn sự gia tăng lưu lượng khí sau hít khí
dung thuốc giãn phế quản, một phần ba trong số
họ cho thấy sự thay đổi hô hấp ký không có ý
nghĩa. Đó là một nguyên lý thông thường, tuy
nhiên sự cải thiện về triệu chứng và khả năng
gắng sức có thể có mà không có sự cải thiện về
hô hấp ký. Như thế cho thấy có tần suất những
bệnh nhân có mức độ tắc nghẽn nặng
(FEV1<50% trị số dự đoán),là những đối tượng
thường biểu hiện giới hạn lưu lượng thở ra, ví
dụ lưu lượng thở ra bình thường của họ tối đa
dưới điều kiện bình thường.
Trong sự hiện diện của giới hạn của lưu
lượng thở ra, thì lưu lượng thở ra chỉ có thể tăng
khi thở ở một thể tích phổi cao hơn. Như thế giới
hạn lưu lượng thở ra(EFL:Expratory flow
limitation) đã nâng mức căng phồng động học
phổi, một điều kiện mà ở đó thể tích cuối thì thở
ra (EELV; End-expiratory lung volume) hay
dung tích cặn chức năng lớn hơn lúc cân bằng
thể tích đàn hồi, kết quả có một áp lực dương
cuối kỳ thở ra (PEEP: Possitive end-expiratory
pressure) và thật sự đó là ngưỡng tải (threshold
load) hít vào. Căng phồng phổi động học không
chỉ kèm tăng công hít vào do PEEP mà còn tổn
thương chức năng cơ hít vào, điều này cùng với
sự nén động học làm giới hạn lưu lượng trong
khi thở bình thường có thể góp phần khó thở
trong những bệnh nhân BPTNMT bị giới hạn
lưu lượng.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 28/01/2022 | Lượt xem: 136 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát dung tích hít vào của bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính sau điều trị thuốc giãn phế quản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 1
KHẢO SÁT DUNG TÍCH HÍT VÀO CỦA BỆNH NHÂN
BỆNH PHỔI TẮC NGHẼN MẠN TÍNH SAU ĐIỀU TRỊ THUỐC GIÃN PHẾ
QUẢN
Võ Minh Vinh*, Quang Văn Trí**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Khảo sát dung tích hít vào (IC) của bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính sau điều trị thuốc
giãn phế quản.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang phân tích. Tất cả bệnh nhân được chẩn đoán bệnh
phổi tắc nghẽn mạn tính (BPTNMT) và được theo dõi, điều trị với seretide và salbutamol (ventoline). Ngoài
ra, các trường hợp đều được đo chức năng hô hấp trước và sau điều trị với thời gian giữa hai lần đo ít nhất
trong bốn tuần.
Kết quả: Từ 2/2006 đến 2/2007, có 73 bệnh nhân BPTNMT (57 nam và 16 nữ). Tất cả họ có tuổi từ 40 trở
lên. 49 trường hợp (67%) hút thuốc lá, trung bình 32 ± 16 gói/năm. Số trường hợp BPTNMT giai đoạn II là 24;
giai đoạn III là 34; và giai đoạn IV là 15. Sau điều trị thuốc giãn PQ, chỉ số IC tăng 330 ml và 22%; và FEV1
tăng 210 ml và 18% so với trước điều trị. Sự cải thiện này đều xảy ra tương tự ở các giai đoạn (II, III và IV) của
BPTNMT cũng như ở từng lứa tuổi và đều có ý nghĩa thống kê (P < 0,05). Ngoài ra, sự tăng IC và FEV1 sau khi
điều trị thuốc giãn phế quản ở nhóm hút thuốc lá là có ý nghĩa thống kê (P < 0,05), ngược lại ở nhóm không hút
thuốc lá sự thay đổi này không có ý nghĩa (P > 0,05). Đồng thời, khi phân tích ở nhiều mức độ khác nhau, thì giá
trị P của IC luôn luôn có ý nghĩa thống kê hơn giá trị P của FEV1.
Kết luận: Sự thay đổi của dung tích sống hít vào (IC) dùng để đánh giá đáp ứng điều trị thuốc giãn phế
quản cho bệnh nhân BPTNMT tốt hơn là sự thay đổi của FEV1.
ABSTRACT
THE SURVEY OF INSPIRATORY CAPACITY IN COPD PATIENTS
AFTER TREATED WITH BRONCHODILATORS
Vo Minh Vinh, Quang Van Tri * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 - Supplement of No 4 - 2008: 173 -
177
Objectives: to survey inspiratory capacity in COPD patients after treated with bronchodilators.
Method: analytical crossed-sectional study.
Results: from 2/2006 to 2/2007, there were 73 COPD patients (75 male and 16 female). All of them were at
least 40 years old. 49 cases (67 %) smoked cigarette, average at 32 ± 16 packs/year. There were 24 cases in phase II
of COPD; 34 in phase III; and 15 in phase IV. After treating with bronchdilators, value of IC index increased to
330 ml and 22%; and value of FEV1 increased to 210 ml and 18% more than before treating bronchdilators.
These improvement took place similarly in phases of COPD (II,III, and IV) as well as in each age group and were
significantly statistical (P < 0.05). On the other hand, the increases of IC and FEV1 after treating with
bronchdilators in smoke group were significantly statistical (P < 0.05), whereas in non-smoke group were not
significantly statistical (P > 0.05). Simultaneously, analysis in many aspects, P-value of IC was more
significantly statistical than P-value of FEV1.
Conclusion: The change of IC in evaluation of the response of treatment with bronchodilators in COPD
patients was better than the change of FEV1.
* Khoa Thăm Dò Chức Năng – Bệnh Viện Chợ Rẫy.
** Bộ môn Lao và Bệnh phổi – Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 2
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (BPTNMT)
hiện nay là một vấn đề sức khỏe, là một trong
những nguyên nhân hàng đầu về tỉ lệ mắc bệnh
và tử vong, gây ra một gánh nặng cho nền kinh
tế và xã hội trên toàn cầu. Như những bệnh mạn
tính khác, những rối loạn bất phục hồi gây ra
những triệu chứng đòi hỏi người bệnh cần phải
được điều trị ngoại trú thường xuyên và không
tránh khỏi những đợt kịch phát cần phải nhập
viện, và toàn bộ gánh nặng BPTNMT vẫn chưa
được đánh giá đúng mức(5,6).
Hút thuốc lá, nguy cơ chính đã được khẳng
định do hậu quả gây tổn hại cấu trúc và chức
năng ở hệ hô hấp, dẫn đến BPTNMT cũng như
nhiều loại bệnh khác. Tuy nhiên không phải tất
cả những người bị BPTNMT đều có liên quan
đến yếu tố nguy cơ thuốc lá, bởi có sự khác nhau
về tính thụ cảm sinh bệnh của từng cá thể.
BPTNMT luôn được quan tâm và đề cập đến
quá trình viêm trên các cấu trúc giải phẩu đường
hô hấp. Do vậy, hiện nay vẫn còn nhiều nghiên
cứu với mục đích phát hiện thêm những ảnh
hưởng của các nhân tố tác động đến diễn tiến
bệnh nhằm hổ trợ cho việc điểu trị đạt được các
mục tiêu cần thiết
Vấn đề điều trị đến hiện tại vẫn chủ yếu bao
gồm: sử dụng linh hoạt các thuốc dản phế quản,
các loại corticoid uống hoặc hít, phục hồi chức
năng, liệu pháp oxy dài hạn tại nhà trong những
trường hợp hạ oxy trong máu, cai thuốc lá nếu
bệnh nhân đang hút là điều kiện tiên quyết(5,6).
Việc đánh giá chức năng hô hấp trước, trong
và sau điều trị thuốc dản phế quản ở bệnh nhân
BPTNMT từ trước đến nay chúng ta vẫn dựa
chủ yếu vào thông số thể tích thở ra gắng sức
trong giây đầu (FEV1) và trị số Tiffeneau
(FEV1/VC) hoặc trị số Geansler (FEV1/FVC).
Nhiều bệnh nhân bị mắc BPTNMT đặc biệt
là những bệnh nhân có hạn chế lưu lượng khí
thở ra lúc nghĩ ngơi càng nhiều thì sự phục hồi
của trị số FEV1 rất ít, tuy nhiên những bệnh
nhân này đều giống nhau: cảm thấy dễ thở hơn
và khả năng gắng sức tốt hơn sau điều trị với
thuốc giãn phế quản (2), và sự cải thiện dung
tích hít vào (IC:Inspiratory capacity) ở những
bệnh nhân này rất có ý nghĩa. Do vậy chúng tôi
tiếp tục nghiên cứu thêm thông số IC trên bệnh
nhân BPTNMT để có thêm nhiều thông tin cho
việc điều trị, chăm sóc và theo dõi bệnh nhân
BPTNMT tốt hơn.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tất cả bệnh nhân
Theo dõi 76 bệnh nhân BPTNMT được chẩn
đoán và điều trị ngoại trú, tại phòng khám hô
hấp Bệnh viện Đại học y Dược, bệnh nhân được
khám lâm sàng, chụp XQ, đo chức năng hô hấp
làm test giãn phế quản, nếu có trị số Tiffeneau <
70% dự đoán trước và sau test giãn phế quản thì
chọn vào nghiên cứu.
Các đối tượng khó thở do các bệnh lý như
suy tim, tràn khí màng phổi rối loạn chức năng
thần kinh ngoại biên được loại trừ ra khỏi mẫu
nghiên cứu.
Thuốc điều trị là Seretide và Salbutamol
(Ventoline)
Thời gian hai lần đo chức năng hô hấp theo
dõi ít nhất là bốn tuần lễ, thời gian làm nghiên
cứu từ 2/2006 đến 2/2007.
Đối tượng được xác định mắc BPTNMT qua
thăm khám và kết quả chức năng hô hấp trước
và sau làm test giãn phế quản (FEV1/VC<70%
TSDĐ), có hoặc không có hút thuốc lá.
Kỹ thuật đo chức năng hô hấp
-Chiều cao và cân nặng được xác định bởi
thước và cân y khoa, tuổi của bệnh nhân lấy năm
đo chức năng hô hấp trừ cho năm sinh.
-Trị số dự đoán (predictive) là của người
châu Á.
-Trị số dự đoán của IC được tính bằng TLC-
FRC (TSDĐ).
-Filter(ống ngậm có màng lọc) chỉ dùng cho
từng bệnh nhân.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 3
-Bệnh nhân đo chức năng hô hấp ở tư thế
ngồi.
-Máy móc sử dụng là máy hô hấp ký loại lưu
lượng - thể tích (Flow-Volume). Thể tích được
tính bằng cách tích phân lưu lượng theo thời
gian. Thể tích và lưu lượng được tự động tính ra
theo điều kiện thân nhiệt, áp suất môi trường và
bảo hòa hơi nước (BTPS). Máy được định chuẩn
mỗi ngày với syringe 3 lít với các lưu lượng khác
nhau. Độ chính xác phải đạt là 3% hoặc 50ml,
tùy số nào lớn hơn như hội lồng ngực Hoa Kỳ
qui định. Kỹ thuật viên được huấn luyện kỹ
lưỡng và thành thạo với việc làm hô hấp ký.
Bệnh nhân được giải thích cặn kẽ và dùng kẹp
mũi trong qui trình đo,. Chúng tôi đo 3 lần dung
tích sống chậm và 3 lần dung tích gắng sức, với
dung tích sống thở chậm phải làm tối thiểu 3lần
thể tích lưu thông(TV), các điểm thở ra tại vị trí
tổng dung tích phổi (TLC) và điểm hít vào tại vị
trí thể tích khí cặn(RV) phải đạt đường bình
nguyên. Các tiêu chuẩn giãn đồ là đường biểu
diễn suôn sẽ, đưởng gắng sức phải tà đầu và
đoạn thở ra dài tối thiểu 6 giây và đạt bình
nguyên ít nhất 1 giây. Hai đường dung tích sống
chậm và hai đường dung tích gắng sức lớn nhất
không được lệch nhau quá 5% hoặc 100ml, tùy
số nào lớn hơn(1).
Xử lý số liệu
Nhập dữ liệu với EpiData, phân tích số liệu
bởi phần mềm Stata for Window 8.0.
Phép thống kê
Test T, (bắt cặp); bác bỏ H0 khi Pgiá trị <0.05.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Bảng 1: Các đặc điểm dịch tễ của mẫu nghiên cứu:
Đặc điểm Nam Nữ
Giới tính 73 (100%) 57(78%) 16(22%)
Tiền căn lao phổi 16.4% 10 (17.5%) 2(12.5%)
Tiền căn thuốc lá
67%
32±16(pys) 47(82%) 2(12.5%)
Tuổi trung bình 60±12 62±12 53±13
Chiều cao (cm) 158±7 (143- 160±5 152±5 (143-
Đặc điểm Nam Nữ
176) (143-176) 163)
Cân nặng (kg) 52±1 54±1 48±1
BIM(Kg/m2) 20.9±1.8 20.9±0.9 20.7±1.5
Thời gian điều
trị(ngày) 71±12 52±23 59±25
Huyết áp tối
đa(mmHg) 127±11 128±12 126±10
Huyết áp tối thiểu
(mmHg) 82±7 83±8 81±6
Mạch (lần/phút) 82±7 72±13 68±11
Ghi chú: Mean: trung bình; SD: độ lệch chuẩn;
pys:pack-year: gói-năm.
* Nhận xét: Tuổi thấp nhất trong nghiên cứu
là 40 tuổi, mức độ hút thuốc lá 32±16 gói-năm: là
những yếu tố rất liên quan đến BPTNMT.
Bảng 2: Kết quả chức năng hô hấp:
N Trước điều trị (lít)
Sau điều trị
(lít) P giá trị
IC 73 1.49 ± 0.51 1.82 ± 0.57 0.01
FEV1 73 1.18 ± 0.52 1.40 ± 0.63 0.01
*Nhận xét: Cả hai trị số dung tích hít vào (IC)
và thể tích thở ra gắng sức trong giây đầu(FEV1)
đều cải thiện có ý nghĩa (P<0.05).So sánh trị số cơ
bản thì mức cải thiện của IC là 330ml và 22%,
của FEV1 là 210 ml và 18%.
Bảng 3: Kết quả chia theo từng giai đoạn của
BPTNMT
*Nhận xét:Trong từng mức độ bệnh trị số IC
và FEV1 đều cải thiện có ý nghĩa, tuy nhiên P giá
trị của IC có ý nghĩa hơn của FEV1.
Bảng 4: Kết quả chức năng hô hấp của nhóm hút
thuốc và không hút thuốc
N Trước điều trị Sau điều trị P giá trị
IC 49 1.47 ± 0.54 1.84 ± 0.10 0.002
Độ N Truớc điều trị(lít)
Sau điều
trị(lít) P giá trị
IC 2 24 1.80 ± 0.46 2.26 ± 0.47 0.0005
IC 3 34 1.47 ± 0.45 1.63 ± 0.35 0.0001
IC 4 15 1.17 ± 0.39 1.41± 0.41 0.0001
FEV1 2 24 1.74 ± 0.46 1.85 ± 0.48 0.02
FEV1 3 34 1.03 ±0.28 1.15±0.26 0.001
FEV1 4 15 0.63 ± 0.15 0.68 ± 0.17 0.004
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 4
lá FEV1 49 1.14 ± 0.53 1.35 ± 0.59 0.04
IC 24 1.50 ± 0.54 1.84 ± 0.10 0.38 Không hút
thuốc lá FEV1 24 1.22 ± 0.51 1.40 ± 0.52 0.57
Nhận xét: Trong cả hai nhóm hút và không hút thuốc
lá thì xét về mặt cải thiện có ý nghĩa thì P giá trị của
IC vẫn nhỏ hơn của FEV1.
Bảng 5: Kết quả phân chia theo mức tuổi:
Mức
tuổi(năm) N
Truớc điều
trị (lít)
Sau điều trị
(lít)
P giá
trị
IC 40-49 17 1.72 ± 0.56 2.26 ± 0.66 0.04
IC 50-59 19 1.67 ± 0.55 2.02 ± 0.59 0.06
IC 60-69 12 1.46 ± 0.42 1.75 ± 0.46 0.04
IC ≥70 25 1.29 ± 0.36 1.63 ± 0.36 0.0005
73 1.49 ± 0.51 1.82 ± 0.57 0.01
FEV1 40-49 17 1.43 ± 0.63 1.75 ± 0.65 0.04
FEV1 50-59 19 1.34 ± 0.61 1.52 ± 0.64 0.37
FEV1 60-69 12 1.07 ± 0.38 1.21 ± 0.48 0.27
FEV1 ≥70 25 0.90 ± 0.25 1.08 ± 0.36 0.03
73 1.18 ± 0.52 1.40 ± 0.63 0.01
BÀN LUẬN:
Qua phần kết quả nêu trên cùng với phần
nhận xét chi tiết của mỗi kết quả chúng tôi nhận
thấy rằng: Không có BPTNMT giai đoạn 1 (theo
tiêu chuẩn của GOLD 2006) trong nghiên cứu,
điều này có thể cho ta thấy rằng mức độ chăm
sóc sức khỏe ban đầu của người dân chúng ta
còn thấp.
Trị số IC và FEV1 trong nghiên cứu này
giống nhau ở điểm là cùng giảm tương ứng theo
mức độ nặng của BPTNMT (bảng 3).
Các trị số IC và FEV1 trong nghiên cứu
đều cải thiện có ý nghĩa trước và sau điều trị.
Tuy nhiên khi phân tích ở nhiều góc độ khác
nhau như chia ra từng giai đoạn của bệnh, chia
ra theo từng mức tuổi thì thấy rằng P giá trị
của trị số IC nhỏ hơn, đặc biệt ở giai đọan III
và giai đoạn IV khi trị số FEV1 cải thiện không
có nghĩa hồi phục (≥12% và 200ml) thì thấy trị
số IC cải thiện rõ rệt hơn.
Trong quá trình điều trị và theo dõi bệnh
nhân BPTNMT thầy thuốc chúng ta thường
cho đo chức năng hô hấp và chủ yếu theo dõi
trị số Tiffeneau và FEV1 nếu không có điều
kiện thì theo dõi tình trạng lâm sàng như cải
thiện sự khó thở, tăng khả năng gắng sức
nhưng nếu chỉ vậy thì mới chỉ là kinh nghiệm
của người thầy thuốc, thiếu chứng cứ y học
cần thiết. Vấn đề đặt ra là nếu trị số FEV1 và
Tiffeneau không có sự phục hồi, vậy có còn
thông số chức năng hô hấp nào đại diện cho sự
cải thiện lâm sàng của BPTNMT, đó là thông
số IC. Thông số IC (inspiratory capacity) hay
dung tích hít vào không đại diện cho sự nghẽn
tắc đường thở mà nó đại diện cho căng phồng
phổi động học (dynamic lung hyperinflation =
DH). Những nghiên cứu chỉ cho thấy rằng
trong khi gắng sức DH góp phần hiểu rõ sự
bất thường của hô hấp(4).
Những bằng chứng quan trọng gián tiếp của
DH có được từ những nghiên cứu,chứng minh
rằng sự giảm khó thở sau điều trị thuốc giãn phế
quản và phẩu thuật giảm thể tích phổi đã được
giải thích bởi giảm một phần hoạt động của các
thể tích phổi(4).
Tiêu chuẩn vàng xác nhận BPTNMT là
giới hạn lưu lượng thở ra, nó xảy ra khi thở
bình thường lúc nghĩ ngơi như là hậu quả
động học của dung tích cặn chức năng (FRC)
và điều này đã không được xác minh nhiều
trước đây. Trong khi gắng sức yêu cầu thông
khí gia tăng ở những bệnh nhân bị giới hạn
lưu lượng thì diễn tiến khí đóng (air trapping)
nhiều hơn là không tránh khỏi.
-Sự không thể mở rộng thể tích lưu thông
(tidal volume) trong sự đáp ứng tăng hô hấp khi
gắng sức góp phần quan trọng trong khả năng
gắng sức của bệnh nhân BPTNMT giai đoạn vừa
và nặng. Đo trị số IC và các thành phần thể tích
có được từ phép đo IC trong khi gắng sức đã bổ
xung cách đánh giá thông khí truyền thống bắt
buộc và có thể giúp hiểu thấu thêm về sự mất
sức,tàn tật nói chung ở bệnh nhân BPTNMT.
- Các thuốc giãn phế quản như Formoterol,
salmeterol, oxytropium được xem là các thuốc
điều trị duy trì BPTNMT.Kết quả cho thấy ở
bệnh nhân BPTNMT có giảm trị số IC cơ bản thì
có sự gia tăng IC sau chỉ định thuốc giãn phế
quản, sự gia tăng này có tương quan mạnh với
cảm giác cải thiện khó thở khi nghĩ ngơi.Thuốc
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 5
giãn phế quản thường được sử dụng ở bệnh
nhân BPTNMT để làm giảm sự tắc nghẽn , hầu
hết nhiều bệnh nhân BPTNMT có thể tồn tại
chắc chắn sự gia tăng lưu lượng khí sau hít khí
dung thuốc giãn phế quản, một phần ba trong số
họ cho thấy sự thay đổi hô hấp ký không có ý
nghĩa. Đó là một nguyên lý thông thường, tuy
nhiên sự cải thiện về triệu chứng và khả năng
gắng sức có thể có mà không có sự cải thiện về
hô hấp ký. Như thế cho thấy có tần suất những
bệnh nhân có mức độ tắc nghẽn nặng
(FEV1<50% trị số dự đoán),là những đối tượng
thường biểu hiện giới hạn lưu lượng thở ra, ví
dụ lưu lượng thở ra bình thường của họ tối đa
dưới điều kiện bình thường.
Trong sự hiện diện của giới hạn của lưu
lượng thở ra, thì lưu lượng thở ra chỉ có thể tăng
khi thở ở một thể tích phổi cao hơn. Như thế giới
hạn lưu lượng thở ra(EFL:Expratory flow
limitation) đã nâng mức căng phồng động học
phổi, một điều kiện mà ở đó thể tích cuối thì thở
ra (EELV; End-expiratory lung volume) hay
dung tích cặn chức năng lớn hơn lúc cân bằng
thể tích đàn hồi, kết quả có một áp lực dương
cuối kỳ thở ra (PEEP: Possitive end-expiratory
pressure) và thật sự đó là ngưỡng tải (threshold
load) hít vào. Căng phồng phổi động học không
chỉ kèm tăng công hít vào do PEEP mà còn tổn
thương chức năng cơ hít vào, điều này cùng với
sự nén động học làm giới hạn lưu lượng trong
khi thở bình thường có thể góp phần khó thở
trong những bệnh nhân BPTNMT bị giới hạn
lưu lượng.
Thuốc giãn phế quản thường được sử dụng
trong điều trị BPTNMT như đồng vận β2, kháng
cholinergic, methylxanthine. Sự lựa chọn tùy vào
loại thuốc có sẵn và sự đáp ứng của bệnh nhân.
Tất cả các loại thuốc giãn phế quản cho thấy gia
tăng khả năng gắng sức ở bệnh nhân BPTNMT
mà không cấn thiết có sự thay đổi có ý nghĩa của
FEV1 (bắng chứng A)(3).
KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu cho thấy dung tích sống
hít vào (IC) có tương quan mạnh hơn với tình
trạng khó thở và khả năng chịu đựng gắng sức
của bệnh nhân BPTNMT dù có hay không có sự
thay đổi FEV1. Đồng thời, sự thay đổi trị số IC
trên kết quả chức năng hô hấp cũng dễ nhận
thấy hơn. Sự thay đổi này được ghi nhận như
sau:
1- Dung tích hít vào tăng trung bình của hai
nhóm như sau: trước điều trị IC=1.49 ± 0.51 (lít),
sau điều trị IC= 1.82± 0.57 (lít) tức là tăng 330ml
và 22% so với trị số cơ bản, tương tự của FEV1 là
180 ml và 18%.
2-Khi so sánh IC và FEV1 ở các giai đoạn của
BPTNMT thì thấy sự cải thiện đều có ý nghĩa
thống kê (p<0.05), tuy nhiên P-giá trị của IC luôn
nhỏ hơn P-giá trị của FEV1.
TAI LIỆU THAM KHẢO
1. Boni E.C.L., Franchini D., et al. (2002), "Volume effect and
exertional dyspnoea after bronchdilator in patients with
COPD with and without expiratory flow limitation at rest".
2. Higgins B.G.P.R., Cooper S., Tattersfield A.E., (1991), "Effect of
salbutamol and ipratropium bromide on airway calibre and
bronchial reactivity in asthma and chronic bronchitis",Eur
Respir J, (4), 415-420.
3. O'Donnell D.E.W.K. (1993), ""Exertional breathlessness in
patients with chronic airflow limitation: the role of lung
hyperinflation", Am Rev Respir, (148), pp1351-1357."
4. Võ Minh Vinh, Đỗ Văn Dũng, Lê Thị Tuyết Lan và CS (2006),
“ Đánh giá và theo dõi chức năng hô hấp cho công nhân cao
su bị và có nguy cơ bị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính”, Y Học
Thành Phố Hồ Chí Minh, phụ bản số 1, tập 10, tr.20-27.
5. Workshop N W (2000), ""Global strategy for the diagnosis,
management, and prevention of chronic obstructive lung
disease", Global initiative for chronic obstructive lung disease."
6. Workshop N W (2003), ""Global strategy for the diagnosis,
management, and preventation of chronic obstructive lung
disease updated 2003", Global initiative for chronic obstructive
lung disease."
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 6
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 7
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khao_sat_dung_tich_hit_vao_cua_benh_nhan_benh_phoi_tac_nghen.pdf