Đánh giá kết quả sớm phẫu thuật u sao bào lông tại bệnh viện Việt Đức

Mối liên quan giữa một số yếu tố với kết quả phẫu thuật Hầu hết các tác giả đều đồng ý với quan điểm u sao bào lông ở trẻ em có kết quả tốt hơn người lớn. Theo dõi của CBTRUS đã chỉ ra rằng tỷ lệ sống sau mổ của u sao bào lông giảm dần theo tuổi, theo đó, tỷ lệ sống sau mổ 2 năm và 5 năm tương ứng với nhóm 5‐19 tuổi là 97,2% và 96,3%, với nhóm 20‐40 tuổi là 93% và 89,5%, với nhóm 40‐60 tuổi giảm xuống còn 86,5% và 77%, và với nhóm bệnh nhân trên 60 tuổi chỉ còn 65,9% sống hơn 2 năm và 52,9% sống trên 5 năm(6). Thậm chí một vài nghiên cứu trên mô bệnh học và sinh học phân tử gần đây đã đề nghị đưa u sao bào lông người lớn vào một phân loại riêng trong phân loại u sao bào(12). Tuy nhiên cần phải chú ý ở lứa tuổi rất trẻ (vài tháng đến vài chục tháng tuổi) là lứa tuổi ưu thế của u sao bào lông nhầy (WHO độ II) cho kết quả xấu hơn. U dưới lều cho kết quả tốt hơn so với u trên lều. Kết quả tốt của u dưới lều một phần do bệnh nhân trong nhóm này đa số đều < 20 tuổi (76% u dưới lều < 20 tuổi). U giao thoa thị cho kết quả xấu nhất, nguyên nhân chủ yếu liên quan đến khả năng lấy u hạn chế trong phẫu thuật do e ngại những tai biến trong mổ cũng như di chứng nặng nề về sau(4,7,14). U ở thân não cũng là 1 vị trí khó cho phẫu thuật, tỷ lệ tử vong cao và thường được chỉ định điều trị tia xạ, tuy nhiên trong nghiên cứu của chúng tôi, 2 bệnh nhân mổ u thân não đều cho kết quả tương đối tốt. Theo dõi sau mổ chúng tôi thấy không nhất thiết phải xạ trị những trường hợp này do u không tiến triển gây triệu chứng, tuy vậy một số tác giả vẫn khuyên nên xạ trị sớm để ngăn chặn sự phát triển của phần tổ chức u còn lại. Kết quả xa cần phải nghiên cứu trong thời gian dài hơn(10,14).

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 29/01/2022 | Lượt xem: 33 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá kết quả sớm phẫu thuật u sao bào lông tại bệnh viện Việt Đức, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 298 ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ SỚM PHẪU THUẬT U SAO BÀO LÔNG   TẠI BỆNH VIỆN VIỆT ĐỨC  Đồng Văn Hệ*, Trần Đức Linh*  TÓM TẮT  Mục tiêu: Đánh giá kết quả sớm phẫu thuật u não sao bào lông.  Phương pháp: Nghiên cứu mô tả hồi cứu dựa trên 35 bệnh nhân (BN) u sao bào lông được phẫu thuật tại  bệnh viện Việt Đức từ 1/2011 đến 6/2014. Đánh giá mức độ lấy u, tỷ lệ tai biến, biến chứng, di chứng, kết quả  sớm tại thời điểm 3 tháng và từ 3 tháng trở đi.  Kết quả: 35 BN, tuổi thấp nhất là 5 và cao nhất là 59, vị trí u gặp ở tiểu não: 57,1%; bán cầu: 25,7%; giao  thoa thị giác: 8,6%, thân não: 5,7%; đồi thị: 2,9%. BN đã điều trị trước khi vào viện chiếm 10/35 (28,6%) bao  gồm: đã phẫu thuật lấy u nhưng tái phát: 5, dẫn lưu não thất ‐ ổ bụng đơn thuần: 3, xạ trị: 2. Phẫu thuật lấy u:  33/35 BN (94,3%), 2 trường hợp chỉ sinh thiết u, giải phẫu bệnh cho thấy 1 trường hợp là u sao bào lông nhầy.  Biến chứng sau mổ gặp: 14,7% (1 trường hợp phù não sau mổ, 1 tràn dịch não, 2 viêm màng não, 2 nhiễm trùng  vết mổ). Di chứng gặp 18,7%, trong đó nhiều nhất là liệt ½ người: 9,3%. Chụp phim CHT kiểm tra được 29 BN  thấy 10/29 (34,5%) trường hợp lấy hết u. Sau phẫu thuật 3 tháng chất lượng cuộc sống cải thiện rõ rệt so với  trước mổ, nhóm BN điểm Karnofsky 90‐100 điểm chiếm 71,9%. Từ 3 tháng trở đi: tử vong 6,2%, tái phát triệu  chứng 15,6%, thời gian theo dõi trung bình 13,28 ± 8,59 tháng, BN Karnofsky 90‐100 điểm chiếm 83,3%. Tuổi  và vị trí u là những yếu tố ảnh hưởng đến kết quả sớm phẫu thuật.  Kết luận: Phẫu thuật là phương pháp điều trị an toàn, hiệu quả đối với u sao bào lông.  Từ khóa: u sao bào lông, u sao bào lông trẻ em, u sao bào tiểu não, hố sau.  ABSTRACT  THE EARLY OUTCOME OF SURGERY FOR TREATMENT PILOCYTIC ASTROCYTOMA  Dong Van He, Tran Duc Linh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 298 – 303  Objective: To evaluate the early outcome of surgery of pilocytic astrocytoma.   Methods: the retrospetive study based on 35 patients with pilocytic astrocytomas who were operated at Việt  Đức  hospital  from  1/2011  to  6/2014.  Evaluation  the  degree  of  tumor  resection,  the  intra‐op  and  post‐op  complications, the early outcome at 3 months and more 3 months after surgery was done.  Results: 35 patients, the lowest and highest age were 5 and 59, the mean age is 18.6. Tumor sites: cerebellum  57.1%;  cerebral  hemisphere  25.7%;  optic  chiasma  8.6%;  brain  stem  5.7%;  thalamus  2.9%.  The  previous  treatment pre‐op 10/35 (28.6%), including: previous operation but recurrence 5/10; V‐P Shunt 3/10; radiation  2/10. The tumor resection was carried out for 33/35 patients (94.3%), and biopsy: 2 cases; pathology found 34  cases  of Pilocytic  astrocytoma  and  1  case  of  Pilomyxoid  astrocytoma.  Post‐op  complication:  14.7%  (cerebral  edema: 1; hydrocephalus: 1; meningitis: 2); sequelaes: 18.7%, the most common one was hemiparesis (9.3%). The  post‐op MRI was carried out on 29 patients,  found 10/29 (34.5%) cases of gross  total resection. The patient’s  quality of  life at 3 months after  surgery has  improved  significantly,  the patients with Karnofsky 90‐100 were  71.9%. At  the moment of more 3 months after surgery: 2 patients died  (6.2%), 5 cases recured symtoms,  the  mean follow‐up period was 13.28±8.59 months, the patients with Karnofsky 90‐100 were 83.3%. Age and tumor  location were factors which had influence to early outcome.  * Bệnh viện Việt Đức  Tác giả liên lạc: PGS.TS. Đồng Văn Hệ;   ĐT: 01205226868   Email: dongvanhe2010@gmail.com  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Bệnh Lý Sọ Não  299 Conclusion: Surgery is safe and effective method for treatment to Pilocytic astrocytoma patients.  Keywords: Pilocytic astrocytoma, cerebellar astrocytoma, posterior fossa.  ĐẶT VẤN ĐỀ  U não sao bào lông (Pilocytic astrocytoma) là  loại u  tế bào  thần kinh đệm phát  triển chậm,  ít  xâm lấn vào tổ chức não lành và hầu như không  tiến triển ác tính, khối u này được xếp độ I theo  phân  loại của Tổ chức Y tế thế giới. Phẫu thuật  (PT) là phương pháp điều trị chính, mục đích PT  nhằm chẩn đoán xác định khối u bằng mô bệnh  học và lấy bỏ tổ chức u. Ngoài ra, tia xạ cũng có  thể điều trị cho những trường hợp u vùng chức  năng. Tiên  lượng BN u não sao bào lông tương  đối tốt, 90% sống trên 10 năm. Năm 2007, trong  bản cập nhật về phân loại u não, WHO đã chính  thức xếp  loại u sao bào  lông nhầy  (Pilomyxoid  astrocytoma), một biến thể của u sao bào lông, là  độ II do nó có một số đặc điểm riêng biệt và tiên  lượng thường xấu hơn. Tại Việt Nam vẫn chưa  có nhiều nghiên  cứu về  loại u não này, do  đó  vấn đề tiên lượng bệnh nhân chưa rõ ràng, chính  vì vậy chúng tôi tiến hành đề tài nhằm đánh giá  kết quả sớm phẫu thuật u não sao bào lông.   ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  Nghiên cứu hồi cứu tiến hành trên 35 BN u  não sao bào lông được phẫu thuật tại bệnh viên  Việt  Đức  từ  01/2011  đến 6/2014. Tất  cả  các BN  đều  được  chẩn  đoán  xác  định  bằng  giải  phẫu  bệnh và  có  đầy  đủ hồ  sơ bệnh  án, phim  chụp  CHT. Nghiên  cứu mức  độ  lấy u,  tỷ  lệ  tai biến,  biến chứng, kết quả giải phẫu bệnh. Mời BN đến  khám  lại  lâm  sàng,  xác  định  tỷ  lệ  tử  vong,  tái  phát  triệu  chứng,  các  di  chứng,  xác  định  chất  lượng cuộc sống  theo  thang điểm Kanofsky, và  cho  chụp  phim  lại  kiểm  tra. Nhận  xét  sự  ảnh  hưởng của một số yếu tố như: tuổi, vị trí u, mức  độ  lấy u, và một số đặc điểm hình ảnh đến kết  quả  phẫu  thuật. Mức  độ  lấy  u  được  xác  định  dựa trên phim chụp CHT kiểm tra sau mổ, chia  làm 2 mức: lấy hết u khi không còn phần tổ chức  đặc ngấm thuốc, và lấy một phần u khi vẫn còn  phần  tổ  chức  đặc ngấm  thuốc  trên phim. Chất  lượng  cuộc  sống  của  BN  theo  thang  điểm  Karnofsky được chia theo các mức:     90 ‐ 100 điểm: sinh hoạt bình thường.    80  điểm:  sinh  hoạt  bình  thường  ở  trạng  thái gắng sức.    60  ‐ 70 điểm: tự lo sinh hoạt cá nhân, đôi  lúc cần trợ giúp.    40  ‐ 50  điểm:  tàn phế, không  tự  lo  được  sinh hoạt cá nhân.    10  ‐ 30 điểm:  tàn phế nghiêm  trọng hoặc  cần sự chăm sóc y tế.  Số  liệu  được  sử  lý  bằng  phần mềm  SPSS  16.0, so sánh sự khác biệt giữa các tỷ lệ bằng test  χ², sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi p<0,05.  KẾT QUẢ  35 bệnh nhân, 18 nam và 17 nữ, có tuổi trung  bình là 18,6 ± 2,29, đa số BN dưới 20 tuổi chiếm  71,4%, hay gặp nhất từ 11‐20 tuổi (42,9%). Vị trí  u  chủ  yếu  vùng  dưới  lều,  đặc  biệt  ở  tiểu  não  (57,1%),  trên  lều  hay  gặp  u  vùng  bán  cầu  (25,6%), các vị trí khác ít hơn: giao thoa thị giác  8,6%, thân não 5,7 %, đồi thị 2,9%.  BN  đã  được  điều  trị  trước  vào  viện  chiếm  28,6%, trong đó: 5 bệnh nhân đã phẫu thuật lấy  u nhưng tái phát, 3 trường hợp chỉ được dẫn lưu  não  thất  ‐ ổ bụng điều  trị  triệu chứng; và 2 BN  được điều trị tia xạ nhưng không hiệu quả.  Phương  pháp  phẫu  thuật  bao  gồm:  phẫu  thuật lấy u ở 33 bệnh nhân và sinh thiết tổ chức  u ở 2 bệnh nhân. Chụp phim kiểm  tra mức độ  lấy u được tiến hành ở 29 bệnh nhân, trên phim  chỉ có 34,5% bệnh nhân lấy hết u, còn lại chỉ lấy  đươc một phần u.  Bảng 1: Mức độ lấy u  Kết quả Số lượng Tỷ lệ % Lấy hết u 10 34,5 Lấy 1 phần u 19 65,5 Tổng 29 100 Trong phẫu thuật không trường hợp nào xảy  ra tai biến, biến chứng sớm gặp ở 14,7% số bệnh  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 300 nhân,  hay  gặp  nhất  là  nhiễm  trùng  (4  trường  hợp),  không  có  biến  chứng muộn như  rò dịch  não tủy hay áp xe não.  Bảng 2: Biến chứng sau mổ  Biến chứng Số lượng Tỷ lệ % Phù não 1 2,9 Tràn dịch não 1 2,9 Viêm màng não 2 5,8 Nhiễm trùng vết mổ 2 5,8 Kết  quả  giải  phẫu  bệnh  cho  thấy  34  trường  hợp  là  Pilocytic  astrocytoma  (WHO  độ  I)  và  1  trường hợp Pilomyxoid astrocytoma (WHO độ II).  Sau phẫu  thuật  theo dõi  lâm  sàng  được  32  bệnh  nhân,  không  có  bệnh  nhân  nào  tử  vong,  chất lượng cuộc sống của bệnh nhân cải thiện rõ  rệt so với trước mổ, nhóm bệnh nhân Karnofsky  90‐100 điểm chiếm 71,9%, nhóm bệnh nhân 60‐ 70  điểm  chỉ  còn  9,3%  (sự khác biệt  có ý nghĩa  thống kê với P<0,05).  A  B  C  D  Hình 1: (A, B) U sao bào lông tiểu não: A: trước mổ; B: sau mổ 3 năm không còn tổ chức u ngấm thuốc (C, D) U  sao bào lông thân não: C: trước mổ, D: sau mổ 6 tháng vẫn còn tổ chức u ngấm thuốc.  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Bệnh Lý Sọ Não  301 Bảng 3: Điểm Karnofsky 3 tháng sau so với trước  phẫu thuật  Điểm Karnofsky Trước PT Sau 3 tháng n=32 Tỷ lệ n=32 Tỷ lệ 60-70 7 21,9 3 9,3 80 15 46,9 6 18,8 90-100 10 31,2 23 71,9 Từ 3  tháng  trở đi có 2  trường hợp  tử vong  (6,2%), tái phát triệu chứng 5 bênh nhân (15,6%).  Thời gian theo dõi trung bình 13,28 ± 8,59 tháng,  thấy không có  sự khác biệt  đáng kể  trong chất  lượng cuộc sống của bệnh nhân từ 3 tháng trở đi  so với thời điểm 3 tháng.  Bảng 4: Điểm Karnofsky từ 3 tháng trở đi so với 3  tháng  Điểm Karnofsky Sau 3 tháng Từ 3 tháng trở đi n=30 Tỷ lệ n=30 Tỷ lệ 60-70 2 6,7 3 10 80 5 16,7 2 6,7 90-100 23 76,7 25 83,3 Di  chứng  gặp  6/32  (18,7%)  số  bệnh  nhân,  trong đó nhiều nhất là liệt ½ người (9,3%).  Bảng 5: Di chứng sau phẫu thuật Di chứng Số lượng Tỷ lệ Liệt ½ người 3 9,3 Nói khó 1 3,1 Động kinh 1 3,1 Giảm trí nhớ 1 3,1 Mờ mắt 1 3,1 Phân tích mối liên quan một số yếu tố đến  kết quả thấy: tuổi và vị trí u có ảnh hưởng đến  kết quả phẫu thuật (P=0,016 và P= 0,007 < 0,05).  Bảng 6: Mối liên quan giữa một số yếu tố với kết quả  phẫu thuật  Đặc điểm Ảnh hưởng P Có Không Tuổi X 0,016 Vị trí u X 0,007 Mức độ lấy u X 0,254 Cấu trúc X 0,21 Mức độ phù X 0,11 Kích thước X 0,13 Vôi hóa X 0,48 BÀN LUẬN  Tỷ  lệ  lấy hết u trên phim chụp kiểm tra  là  34,5% thấp hơn so với các nghiên cứu trên thế  giới. Theo  thống kê  của  tổ  chức quản  lý ung  thư Mỹ (CBTRUS) trên 3066 BN u sao bào lông  được  phẫu  thuật  từ  1973‐2008  cho  thấy  tỷ  lệ  hết u  là 39,8% đối với người  lớn và 44,9% đối  với trẻ em(6). Gần đây một số tác giả báo cáo tỷ  lệ  lấy  hết  u  tương  đối  cao,  giao  động  từ  60‐ 70%(2,2,4),  có  thể  với  những  tiến  bộ  gần  đây  trong phẫu  thuật  thần kinh mức độ  lấy hết u  đã được cải thiện đáng kể. Theo chúng tôi tỷ lệ  lấy hết u  thấp  trong nghiên cứu một phần do  nhiều  trường hợp  đã  định hướng  được  trước  mổ là u sao bào lông nên phẫu thuật viên cũng  không  cố  gắng  lấy  hết  u,  ngoài  ra  do  u  ở  những vị  trí khó  lấy như:  thân não, giao  thoa  thị, phần thấp của thùy nhộng.  Biến chứng gặp 14,7%  (5/34 BN). Phù não  sau mổ gặp 1  trường hợp u  thùy  thái dương,  trong mổ chỉ lấy được một phần u do u sâu và  chảy máu, sau mổ tri gác Glasgow 11‐12 điểm  kéo dài, đau đầu, nôn nhiều, chụp CLVT thấy  phù não ổ mổ lớn đè đẩy đường giữa 10 mm,  BN được điều trị chống phù não tích cực bằng  manitol, corticoid, theo dõi tình trạng ổn định  dần  và  không phải phẫu  thuật  lại. Tràn dịch  não gặp 1 BN u vùng giao thoa thị, sau đó đã  được dẫn  lưu não  thất‐ổ bụng. Nguyên nhân  tràn dịch não có thể do một phần tổ chức u và  cục máu đông bít vào cống Sylvius làm tắc lưu  thông DNT.  Nhiễm  trùng  gặp  11,6%,  bao  gồm:  viêm  màng não: 2; nhiễm trùng vết mổ: 2 (đều là 2 BN  mổ u hố sau). Vị trí vết mổ vùng hố sau nằm ở  vùng tỳ đè, việc chăm sóc vết mổ khó khăn nên  dễ  nhiễm  trùng  vết mổ  hơn.  Bên  cạnh  đó  BN  tràn dịch não phải đặt VP‐shunt cũng  làm  tăng  nguy cơ viêm màng não do nhiễm khuẩn ngược  dòng hoặc vô khuẩn không tốt.  Kết quả mô bệnh học cho thấy 1 trường hợp  là  Pilomyxoid  astrocytoma,WHO  độ  II.  Phân  loại u não  của WHO  2007 mới  chính  thức xếp  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 302 loại u sao bào  lông nhầy  là dưới  typ của u sao  bào  lông, vì vậy  ở Việt Nam  cũng  chỉ mới bắt  đầu cập nhật chẩn đoán và điều  trị  loại u này.  Trường hợp u  sao bào  lông nhầy  trong nghiên  cứu chỉ được phát hiện khi phẫu thuật cho một  BN tái phát triệu chứng nhanh, bệnh phẩm được  nhuộm hóa mô miễn dịch và cho kết quả là u sao  bào lông nhầy, bệnh nhân này đã tử vong sau đó  4  tháng do u  tái phát. Tiên  lượng  của  2  loại u  trên  là  rất  khác  nhau,  do  đó  đối  với  những  trường hợp nghi ngờ (u vùng giao thoa, đồi thị,  BN lớn tuổi, hoại tử) nhuộm hóa mô miễn dịch  là cần thiết để chẩn đoán chính xác loại u(11,9,15).  Sau phẫu thuật 3 tháng không có BN nào tử  vong, chất lượng cuộc sống được cải thiện đáng  kể so với  trước khi được phẫu  thuật  (P < 0,05).  Nhóm BN Karnofsky 90‐100 điểm chiếm 71,9%  so với chỉ 31,2 % trước mổ. Thay đổi rõ rệt nhất  là  ở  những  BN  Karnofsky  80  điểm  trước mổ  (sinh  hoạt  làm  việc  bình  thường  ở  trạng  thái  gắng sức) sang nhóm 90‐100 điểm (bình thường  hoặc gần như bình thường).   Từ  thời  điểm  3  tháng  trở  đi,  tái  phát  triệu  chứng  15,6%.  Những  trường  hợp  này  là  u  ở  những  vị  trí  khó  cho  phẫu  thuật  như:  u  vùng  giao  thoa; u ở sâu xâm  lấn đồi  thị; hoặc có mô  bệnh học là u sao bào lông nhầy. Trong 5 trường  hợp  tái phát  triệu chứng, 3 bệnh nhân đã được  phẫu  thuật  lại,  tuy  nhiên  sau  phẫu  thuật  có  2  trường  hợp  tử  vong  (1  trường  hợp  do  biến  chứng của xạ trị, trường hợp còn lại do u tái phát  nhanh  và  có  kết  quả  giải  phẫu  bệnh  là  Pilomyxoid astrocytoma, WHO độ II). Như vậy  sau  phẫu  thuật  (thời  gian  theo  dõi  trung  bình  13,28 ± 8,59 tháng) đa số bệnh nhân hồi phục tốt  có thể tự sinh hoạt và làm việc được (78,1 % có  Karnofsky 90‐100 điểm). Chứng tỏ phẫu thuật là  phương pháp điều  trị có hiệu quả giúp BN  trở  về với cuộc sống bình thường.  Mối  liên quan giữa một số yếu  tố với kết  quả phẫu thuật  Hầu  hết  các  tác  giả  đều  đồng  ý  với  quan  điểm u sao bào lông ở trẻ em có kết quả tốt hơn  người lớn. Theo dõi của CBTRUS đã chỉ ra rằng  tỷ lệ sống sau mổ của u sao bào lông giảm dần  theo tuổi, theo đó, tỷ lệ sống sau mổ 2 năm và 5  năm tương ứng với nhóm 5‐19 tuổi là 97,2% và  96,3%, với nhóm 20‐40 tuổi là 93% và 89,5%, với  nhóm 40‐60 tuổi giảm xuống còn 86,5% và 77%,  và  với  nhóm  bệnh  nhân  trên  60  tuổi  chỉ  còn  65,9%  sống  hơn  2  năm  và  52,9%  sống  trên  5  năm(6).  Thậm  chí một  vài  nghiên  cứu  trên mô  bệnh  học  và  sinh  học  phân  tử  gần  đây  đã  đề  nghị đưa u sao bào lông người lớn vào một phân  loại riêng trong phân loại u sao bào(12). Tuy nhiên  cần phải chú ý ở  lứa tuổi rất trẻ (vài tháng đến  vài chục tháng tuổi) là lứa tuổi ưu thế của u sao  bào lông nhầy (WHO độ II) cho kết quả xấu hơn.  U dưới lều cho kết quả tốt hơn so với u trên  lều. Kết  quả  tốt  của  u  dưới  lều một  phần  do  bệnh nhân trong nhóm này đa số đều < 20 tuổi  (76% u dưới  lều < 20  tuổi). U giao  thoa  thị cho  kết  quả  xấu  nhất,  nguyên  nhân  chủ  yếu  liên  quan  đến  khả  năng  lấy  u  hạn  chế  trong  phẫu  thuật do  e ngại những  tai biến  trong mổ  cũng  như di chứng nặng nề về sau(4,7,14). U ở thân não  cũng là 1 vị trí khó cho phẫu thuật, tỷ lệ tử vong  cao và thường được chỉ định điều trị tia xạ, tuy  nhiên  trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  2  bệnh  nhân mổ u thân não đều cho kết quả tương đối  tốt. Theo dõi sau mổ chúng tôi thấy không nhất  thiết  phải  xạ  trị  những  trường  hợp  này  do  u  không tiến triển gây triệu chứng, tuy vậy một số  tác giả vẫn khuyên nên xạ trị sớm để ngăn chặn  sự phát triển của phần tổ chức u còn lại. Kết quả  xa  cần  phải  nghiên  cứu  trong  thời  gian  dài  hơn(10,14).   Trong nghiên cứu mức độ  lấy u không ảnh  hưởng đến kết quả phẫu  thuật. Trái ngược với  quan điểm của đại đa số các tác giả cho rằng lấy  hết u là một trong những yếu tố quan trọng tiên  lượng BN, lấy hết u tối đa là cần thiết làm giảm  tỷ  lệ  tái  phát,  tăng  thời  gian  sống  không  triệu  chứng  cũng  như  thời  gian  sống  sau mổ(2,3,6,8,5).  Tuy  nhiên  do  thời  gian  theo  dõi  trong  nghiên  cứu  tương  đối ngắn, vì vậy  chưa  thể  đánh giá  được tiến triển của phần u còn lại cũng như tỷ lệ  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Bệnh Lý Sọ Não  303 tái phát triệu chứng, đo đó cần phải nghiên cứu  trên thời gian dài hơn. Mặc dù vậy, kết quả trên  10 bệnh nhân  lấy hết u  là  tương đối  tốt, 100 %  đều có điểm Karnofsky từ 90‐100.  Các đặc điểm chẩn đoán hình ảnh trên cộng  hưởng  từ  như:  cấu  trúc  u, mức  độ  phù,  kích  thước u không có ảnh hưởng đến kết quả phẫu  thuật u sao bào lông. Strong JA cũng đã nhận xét  các  đặc  điểm  hình  ảnh  trên CHT  và CLVT  là  không đáng tin cậy cho dự đoán tiên lượng bệnh  nhân  u  sao  bào  lông(13),  quan  điểm  này  cũng  được  đa  số  tác  giả  ủng hộ(2,4,13). Một  số nghiên  cứu  cho  thấy vôi hóa  trong u gắn  liền với  tiên  lượng  xấu(13,14),  tuy  nhiên  với  thời  gian  nghiên  cứu ngắn, nên kết quả của chúng tôi không thấy  được sự liên quan này.  KẾT LUẬN  Phẫu thuật (lấy hết u hoặc chỉ một phần u) là  một phẫu thuật hiệu quả, an toàn trong điều trị  u sao bào lông. Chất lượng cuộc sống của bệnh  nhân cải thiện rõ rệt so với trước mổ. Tuổi trẻ và  vị trí u dưới lều cho tiên lượng tốt hơn, tuy vậy  cần thiết phải theo dõi trong thời gian dài hơn để  đưa ra những kết luận chính xác.  TÀI LIỆU THAM KHẢO   1. Cyrine S, Sonia Z, Mounir T et al. (2013), ʺPilocytic astrocytoma:  a retrospective study of 32 casesʺ, Clin Neurol Neurosurg, 115(8),  pp. 1220‐5.  2. Dirven CM, Mooij JJ, Molenaar WM (1997), ʺCerebellar pilocytic  astrocytoma:  a  treatment  protocol  based  upon  analysis  of  73  cases and a review of the literatureʺ, Childs Nerv Syst, 13(1), pp.  17‐23.  3. Evren  KG,  Tihan  T,  Burton  E  et  al.  (2005),  ʺLow‐Grade  Astrocytomaʺ, Neuro‐Oncology of CNS Tumor: Springer, pp. 103‐ 118.  4. Fernandez  C,  Figarella‐Branger  D,  Girard  N  et  al.  (2003),  ʺPilocytic  astrocytomas  in  children:  prognostic  factors‐‐a  retrospective study of 80 casesʺ, Neurosurgery, 53(3), pp. 544‐53;  discussion 554‐5.  5. Greenberg MS (2010), ʺAstrocytomaʺ, Handbook of Neurosurgery:  Vol. Tumor. 7th ed: Thieme Medical Publishers, pp. 593‐609.  6. Johnson  DR,  Brown  PD,  Galanis  E  et  al.  (2012),  ʺPilocytic  astrocytoma  survival  in  adults:  analysis  of  the  Surveillance,  Epidemiology, and End Results Program of the National Cancer  Instituteʺ, J Neurooncol, 108(1), pp. 187‐93.  7. Komotar RJ, Burger PC, Carson BS et al.  (2004),  ʺPilocytic and  pilomyxoid  hypothalamic/chiasmatic  astrocytomasʺ,  Neurosurgery, 54(1), pp. 72‐9; discussion 79‐80.  8. Lee IH, Kim JH, Suh YL et al. (2011), ʺImaging characteristics of  pilomyxoid  astrocytomas  in  comparison  with  pilocytic  astrocytomasʺ, Eur J Radiol, 79(2), pp. 311‐6.  9. Louis DN, Ohgaki H, Wiestler OD et al. (2007), ʺThe 2007 WHO  classification  of  tumours  of  the  central  nervous  systemʺ, Acta  Neuropathol, 114(2), pp. 97‐109.  10. Pollack IF, Hoffman HJ, Humphreys RP et al. (1993), ʺThe long‐ term  outcome  after  surgical  treatment  of  dorsally  exophytic  brain‐stem gliomasʺ, J Neurosurg, 78(6), pp. 859‐63.  11. Schiffer D (2006), ʺAstrocytic Tumors IIʺ, Brain Tumor Pathology:  Current Diagnostic Hotspots and Pitfalls: Springer, pp. 59‐74.  12. Sharma MK, Mansur DB, Reifenberger G et al. (2007), ʺDistinct  genetic signatures among pilocytic astrocytomas relate to their  brain region originʺ, Cancer Res, 67(3), pp. 890‐900.  13. Strong  JA, Hatten HP,  Jr.,  Brown MT  et  al.  (1993),  ʺPilocytic  astrocytoma:  correlation  between  the  initial  imaging  features  and  clinical  aggressivenessʺ, AJR Am  J Roentgenol,  161(2),  pp.  369‐72.  14. Tibbetts  K,  Emnett  R,  Gao  F  et  al.  (2009),  ʺHistopathologic  predictors  of  pilocytic  astrocytoma  event‐free  survivalʺ,  Acta  Neuropathologica, 117(6), pp. 657‐665.  15. Tihan  T,  Fisher  PG,  Kepner  JL  et  al.  (1999),  ʺPediatric  astrocytomas with monomorphous pilomyxoid  features and a  less  favorable  outcomeʺ,  J Neuropathol Exp Neurol,  58(10),  pp.  1061‐8.  Ngày nhận bài báo:       24/10/2014  Ngày phản biện nhận xét bài báo:   02/11/2014  Ngày bài báo được đăng:     05/12/2014 

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdanh_gia_ket_qua_som_phau_thuat_u_sao_bao_long_tai_benh_vien.pdf
Tài liệu liên quan