Thiếu máu nhìn chung có ảnh hưởng đến chất
lượng sống, tăng tỷ lệ bệnh tim mạch và tăng tỷ lệ
tử vong của bệnh nhân bệnh thận mạn. Thiếu máu
góp phần làm phì đại thất trái và nặng thêm bệnh
mạch vành đặc biệt ở bệnh nhân lớn tuổi. Chính phì
đại thất trái là một trong những yếu tố làm tăng tỷ
lệ tử vong ở bệnh nhân bệnh thận mạn. Vai trò cơ
bản của thiếu máu trong nguy cơ tim mạch đã được
nhấn mạnh qua quan sát gần đây ở những bệnh
nhân suy tim và suy thận mức độ vừa. Silverberg
DS và cộng sự năm 2004 cho thấy thiếu máu có
một vai trò quan trọng gây ra suy tim sung huyết,
khoảng 1/3 trường hợp suy tim sung huyết có
Hb dưới 120g/l. Thiếu máu sẽ làm nặng hơn tình
trạng suy tim và làm giảm chức năng thận với hội
chứng tim thận mạn [5]. Ngay cả ở những người
bình thường thiếu máu cũng gây hạ huyết áp và
thiếu oxy ngoại vi, điều này sẽ kích thích hệ thống
thần kinh thực vật làm tăng nhịp tim, tăng thể tích
tuần hoàn và co mạch thận, từ đó giảm tưới máu
thận làm kích thích hệ R-A-A (renin-angiotensinaldosteron), càng làm co mạch thận, dẫn đến làm
giảm tưới máu thận, giảm mức lọc cầu thận, ứ
muối. Thiếu máu góp phần làm nặng thêm suy thận
thông qua cơ chế thiếu oxy của các tế bào vùng
thận và làm tổn thương thêm ống kẽ thận [6,7].
Nghiên cứu của Kovesdy C.P. và cộng sự
cho thấy sự tương quan giữa nồng độ Hb với tỷ
lệ tử vong do tất cả các nguyên nhân khác nhau
của những bệnh nhân chưa lọc máu trên 17.194
bệnh nhân và theo dõi trung bình 2,1 năm, tác giả
nhận thấy rằng nồng độ Hb thấp liên quan trực tiếp
đến các biến chứng của bệnh nhân và đặc biệt
có nguy cơ cao ở bệnh nhân bệnh thận giai đoạn
cuối, tương quan có ý nghĩa với tỷ lệ tử vong [8].
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 07 bệnh nhân
không đạt đích, đây cũng là những bệnh nhân đặc
biệt được chú ý trong giai đoạn điều trị tiếp theo
để cải thiện tình trạng thiếu máu cho bệnh nhân.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
trong tháng 2 và tháng 3/2014 không có bệnh
nhân có nồng độ Hb>130g/l, nhưng các tháng còn
lại có một số bệnh nhân có nồng độ Hb>130g/l,
khoảng từ 3,8 - 12,0%. Nghiên cứu của tác giả Bùi
Thị Tâm cũng cho thấy tỷ lệ bệnh nhân có nồng
độ Hb>130g/l khoảng từ 0 đến 5,3% sau khi điều
trị [3]. Đây là những đối tượng có thể có nguy cơ
gặp biến cố bất lợi vì nồng độ Hb ở mức cao. Ngày
nay, nhiều nghiên cứu cho thấy nồng độ Hb cao
có nhiều nguy cơ hơn là lợi ích, vì có thể làm tăng
nguy cơ gây đột quị, tăng huyết áp, thuyên tắc lỗ
rò động tĩnh mạch (ở bệnh nhân thận nhân tạo chu
kỳ) [9,10]. Do vậy, KDIGO 2012 đã khuyến cáo
không được để nồng độ Hb vượt quá 130 g/l trên
tất cả các bệnh nhân bệnh thận mạn người lớn [1].
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 9 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát tình trạng Hemoglobin ở bệnh nhân lọc máu chu kì, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiên cứu khoa học
Tạp chí
nội khoa Việt nam Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX376
I. đẶT VẤN đỀ
Đối với bệnh nhân bệnh thận mạn, việc phát
hiện và theo dõi tình trạng thiếu máu có một vai
trò rất quan trọng trong điều trị. Giá trị của nồng độ
Hemoglobin (Hb) trong chẩn đoán thiếu máu sẽ phụ
thuộc vào tuổi và giới. Theo hội thận học Mỹ (Kidney
Disease: Improving Global Outcomes – KDIGO)
2012 bệnh nhân bệnh thận mạn trên 15 tuổi được
chẩn đoán thiếu máu khi nồng độ Hb < 130 g/l ở nam
giới và nồng độ Hb < 120 g/l ở nữ giới. Ở bệnh nhân
bệnh thận giai đoạn cuối lọc máu chu kì, việc đánh
giá nồng độ Hb máu có tầm quan trọng do sự tăng
hay giảm quá mức Hb đều có mang lại những tác
dụng không mong muốn. Các nghiên cứu trên thế
giới cho thấy bệnh nhân bệnh thận mạn nếu có nông
độ Hb máu dưới 80g/l có tỷ lệ tử vong cao nhất, nếu
nâng nồng độ Hb lên 90 – 100 g/l, tỷ lệ tử vong sẽ
giảm 25%. Tuy nhiên nếu nồng độ Hb >130 thì nguy
cơ tim mạch cho bệnh nhân bệnh thận giai đoạn cuối
lọc máu chu kì cũng tăng lên [1]. Những nghiên cứu
ở bệnh nhân bệnh thận mạn cho thấy việc điều trị
thiếu máu cho bệnh thận mạn đạt Hb đích là rất cần
thiết, vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu nhằm
mục tiêu khảo sát nồng độ Hemoglobin ở bệnh nhân
lọc máu chu kì tại Đơn nguyên Thận nhân tạo, Bệnh
viện Đa khoa Xanh Pôn
II. đỐI TƯỢNG Và PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu hồi cứu được thực hiện trên 55
bệnh nhân bệnh thận giai đoạn cuối lọc máu chu
kì điều trị ngoại trú tại Đơn nguyên Thận nhân tạo,
Bệnh viện đa khoa Xanh Pôn, số liệu thu thập từ
tháng 1/2014 đến tháng 01/2015.
Tiêu chuẩn lựa chọn: Bệnh nhân bệnh thận
giai đoạn cuối đang lọc máu chu kì tại Đơn nguyên
Thận nhân tạo, Bệnh viện đa khoa Xanh Pôn.
KHẢO sÁT TÌNH TRẠNG HeMOGLOBIN Ở BỆNH NHÂN
LỌC MÁU CHU KÌ
Vương tuyết mai*, Hoàng Hà Phương**, Vũ thanh Hiếu***
*Bộ môn Nội tổng hợp, Đại học Y Hà Nội; **Bộ môn Dược lâm sàng, Đại học Dược Hà Nội
***Đơn nguyên Thận nhân tạo, Bệnh viện Đa khoa Xanh Pôn
TÓM TẮT
đặt vấn đề: Điều trị đạt Hemoglobin đích có vai trò quan trọng ở những bệnh nhân lọc máu chu
kì, vì vậy nghiên cứu tiến hành nhằm mục tiêu khảo sát nồng độ Hemoglobin ở bệnh nhân lọc máu
chu kì tại Đơn nguyên Thận nhân tạo, Bệnh viện Đa khoa Xanh Pôn.
đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu được thực hiện trên các bệnh nhân lọc máu
chu kì điều trị ngoại trú tại Đơn nguyên Thận nhân tạo, Bệnh viện đa khoa Xanh Pôn, số liệu thu thập
từ tháng 01/2014 đến tháng 01/2015.
Kết quả: Trong số 55 bệnh nhân nghiên cứu, nồng độ Hemoglobin trung bình của của các
tháng không có sự khác biệt nhiều, dao động trong khoảng từ 99,1±15,0 đến 105,1±15,6 g/l. Trong
12 tháng, có 4 tháng giá trị trung bình nồng độ Hb của các bệnh nhân <100g/l tuy nhiên đạt ở mức
gần sát là 99,1±15; 99,2±17,3; 99,5 ±14,2; 99,5±13,1. Trong 12 tháng, số bệnh nhân có Hb<100g/l
chiếm tỷ lệ dao động từ 35,3 đến 63,5%, số bệnh nhân có Hb>115g/l có tỷ lệ dao động từ 11,1 đến
25,5%. Số bệnh nhân có Hb đạt đích (100 -115g/l) dao động trong khoảng từ 25 – 45%, giảm xuống
thấp nhất ở tháng 11 và tăng trở lại vào tháng 12.
Kết luận: Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy số bệnh nhân có Hb đạt đích dao động
trong khoảng từ 25 – 45%. Chỉ số Hemoglobin trung bình của bệnh nhân trong các tháng không có
sự khác biệt nhiều, dao động trong khoảng từ 99,1±15,0 đến 105,1±15,6 g/l.
Từ khoá: Hemoglobin (Hb), bệnh thận giai đoạn cuối, lọc máu chu kì.
nghiên cứu khoa học
Tạp chí
Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX nội khoa Việt nam 377
Tiêu chuẩn loại trừ: Bệnh nhân đã được
truyền máu trong vòng 4 tháng trước đó. Bệnh
nhân hiện đang có đợt biểu hiện mắc các bệnh
ảnh hưởng đến khả năng hấp thu sắt như dạ dày
ruột, viêm gan virus giai đoạn hoạt động, xơ gan
Các thông tin thu thập theo mẫu bệnh án
nghiên cứu thống nhất bao gồm các thông số về
đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu, các
triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng, trong đó
đặc biệt là các xét nghiệm về chỉ số huyết học.
Xử lý số liệu: Phân tích được thực hiện bằng
SPSS statistics 17.0 Software. Sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê sử dụng theo p<0,05.
III. KẾT QUẢ
Nghiên cứu thực hiện ở 55 bệnh nhân lọc
máu chu kì có cân nặng trung bình là 51,60 ± 8,9
kg và BMI là 19,91 ± 2,93 kg/m2.
Bảng 1. Cân nặng và chỉ số khối cơ thể (BMI) của các đối tượng nghiên cứu
Chỉ số Nam Nữ p
Cân nặng (kg) 56,21 ± 7,39 46,81 ± 7,83 < 0,05
BMI (kg/m2) 20,00 ± 2,50 19,81 ± 3,36 > 0,05
Nhẹ cân Bình thường Thừa cân
Tỷ lệ % (100%) 32,7% 52,7% 14,5%
số bệnh nhân (n=55) 18 8
Nhận xét: Cân nặng trung bình ở nam giới cao hơn nữ giới (p < 0,05). Trong tổng số các đối tượng
nghiên cứu, phần lớn bệnh nhân nghiên cứu có chỉ số BMI bình thường, sau đó tỷ lệ nhẹ cân, tỷ lệ bệnh
nhân thừa cân là thấp nhất
Bảng 2. Tình trạng albumin ở nhóm nghiên cứu
Chỉ số Albumin Nam (1) Nữ (2) Tổng p(1,2)
Thấp
(< 35 g/l)
số BN 6 8 14
> 0,05
Tỷ lệ % 21,4% 29,6% 25,5%
bình thường
(≥ 35 g/l)
số BN 22 19 41
Tỷ lệ % 78,6% 70,4% 74,5%
Tổng 28 (100%) 27 (100%) 55 (100%)
Nhận xét: Trong tổng số bệnh nhân nghiên cứu, đa số bệnh nhân có nồng độ albumin bình thường
trong huyết thanh, chiếm tỷ lệ 74,5%. Tỷ lệ có nồng độ albumin thấp là 25,5%. Tỷ lệ bệnh nhân nam có
nồng độ albumin thấp là 21,4%, ở nữ là 29,6%, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05.
Bảng 3. Diễn biến hemoglobin trung bình của tất cả các bệnh nhân trong 12 tháng
Tháng số BN
Hemoglobin (g/l) p*
Trung bình ± sD Nhỏ nhất Lớn nhất
1 40 103,4 ± 14,4 76,6 147,0
2 44 102,8 ± 13,6 68,7 129,0 p>0,05
3 45 99,5 ± 13,1 73,6 128,0 p>0,05
4 49 100,1 ± 14,0 77,2 144,0 p>0,05
5 50 103,7 ± 17,4 65,8 149,0 p>0,05
6 49 103,6 ± 16,4 80,4 173,0 p>0,05
7 54 101,2 ± 15,0 65,2 146,0 p>0,05
8 54 99,2 ± 17,3 64,8 147,0 p>0,05
nghiên cứu khoa học
Tạp chí
nội khoa Việt nam Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX378
Tháng số BN
Hemoglobin (g/l) p*
Trung bình ± sD Nhỏ nhất Lớn nhất
9 54 99,1 ± 15,0 73,8 136,0 p>0,05
10 52 99,5 ± 14,2 73,0 137,0 p>0,05
11 52 100,2 ± 14,7 75,6 142,0 p>0,05
12 51 105,1 ± 15,6 77,0 144,0 p>0,05
p*: So sánh nồng độ trung bình của Hb ở các tháng tiếp theo với thời điểm đầu.
Nhận xét: Chỉ số Hemoglobin trung bình của bệnh nhân trong các tháng không có sự khác biệt nhiều, dao
động trong khoảng từ 99,1 ± 15,0 đến 105,1 ± 15,6 g/l. Trong 12 tháng, có 4 tháng giá trị trung bình nồng độ Hb
của các bệnh nhân <100g/l tuy nhiên đạt ở mức gần sát là 99,1 ± 15; 99,2 ± 17,3; 99,5 ± 14,2; 99, 5± 13,1.
Hình 1. Diễn biến tỷ lệ bệnh nhân theo khoảng nồng độ hemoglobin
Nhận xét: Trong 12 tháng, số bệnh nhân có Hb đạt đích tối ưu trên bệnh nhân lọc máu (100 -115g/l)
chiếm khoảng 50%, giảm xuống thấp nhất ở tháng 11 và tăng trở lại vào tháng 12. Tuy nhiên cũng có một
số bệnh nhân có nồng độ Hb >130g/l.
Tháng
IV. BàN LUẬN
Nghiên cứu của chúng tôi được tiến hành ở
55 bệnh nhân lọc máu chu kì tại Đơn nguyên thận
nhân tạo, Bệnh viện Đa khoa Xanh Pôn trong thời
gian từ tháng 1-12/2014. Tỷ lệ nam và nữ gần như
tương đồng, tuổi trung bình của bệnh nhân là là ở
tuổi trung niên. Cân nặng trung bình ở nam giới là
56,21 ± 7,39 cao hơn nữ giới là 46,81 ± 7,83 sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Chỉ số BMI
trung bình ở nam là 20,00 ± 2,50, ở nữ là 19,81
± 3,36, không có sự khác nhau có ý nghĩa thống
kê giữa 2 giới (p > 0,05). Trong tổng số các đối
tượng nghiên cứu, phần lớn bệnh nhân nghiên cứu
có chỉ số BMI bình thường, chiếm tỷ lệ là 52,7%, tỷ
lệ nhẹ cân chiếm tỷ lệ 32,7% và có 14,5% số đối
tượng nghiên cứu có biểu hiện thừa cân. Điều này
cho thấy thể trạng khá tốt của các bệnh nhân trong
nhóm nghiên cứu. Trong tổng số bệnh nhân nghiên
cứu, đa số bệnh nhân có nồng độ albumin bình
thường trong huyết thanh, chiếm tỷ lệ 74,5%. Tỷ lệ
bệnh nhân có nồng độ albumin thấp là 25,5%. Tỷ lệ
bệnh nhân nam có nồng độ albumin thấp là 21,4%,
ở nữ là 29,6%, sự khác biệt không có ý nghĩa thống
kê với p > 0,05. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi
là tương đương nghiên cứu của Lâm Thành Vững,
với cân nặng trung bình là 51,56 ± 8,04 kg, BMI
trung bình là 19,79 ± 2,52 kg/m2 [2].
Nghiên cứu diễn biến Hemoglobin của các
bệnh nhân trong quá trình điều trị, nhóm nghiên
cứu nhận thấy, trong 12 tháng nghiên cứu, chỉ số
nghiên cứu khoa học
Tạp chí
Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX nội khoa Việt nam 379
Hemoglobin trung bình của bệnh nhân trong các
tháng không có sự khác biệt nhiều, dao động trong
khoảng từ 99,1±15,0 đến 105,1±15,6 g/l, có 4
tháng giá trị trung bình <100 g/l, kết quả đạt được
thấp hơn kết quả nghiên cứu của tác giả Bùi Thị
Tâm về hiệu quả sử dụng EPO trên bệnh nhân suy
thận mạn được lọc máu chu kỳ cho thấy không có
tháng nào giá trị trung vị và trung bình Hb của các
bệnh nhân dưới 100 g/l. Tuy nhiên nghiên cứu của
Bùi Thị Tâm chỉ trong 6 tháng bằng nửa số thời
gian trong nghiên cứu của chúng tôi [3].
Theo khuyến cáo của hội thận học 2012 (Kidney
Disease: Improving Global Outcomes– KDIGO) [1],
cần tránh việc truyền máu cho bệnh nhân bệnh thận
giai đoạn cuối lọc máu chu kì vì những tác dụng
không mong muốn có thể gặp, vì vậy nhóm bệnh
nhân có Hb không đạt đích cần được đặc biệt chú
ý để tìm ra nguyên nhân không đạt đích để có biện
pháp khắc phục. Trong một nghiên cứu của nhóm
tác giả Canada thực hiện trên 118 bệnh nhân thận
nhân tạo chu kỳ năm 1990, bệnh nhân được sử
dụng EPO khi nồng độ Hb dưới 90 g/l và được chia
thành 3 nhóm ngẫu nhiên như sau: giả dược, mục
tiêu Hb 95-110 g/l, mục tiêu Hb >110 g/l. Kết quả cho
thấy sau 8 tuần, có 58% bệnh nhân trong nhóm giả
dược cần được truyền máu, trong khi chỉ có 2,5%
trong nhóm có nồng độ Hb trung bình, và 2,6% trong
nhóm có nồng độ Hb cao phải truyền máu [4], như
vậy một trong những vai trò không thể phủ nhận là
việc đáp ứng của bệnh nhân với việc sử dụng EPO.
Thiếu máu nhìn chung có ảnh hưởng đến chất
lượng sống, tăng tỷ lệ bệnh tim mạch và tăng tỷ lệ
tử vong của bệnh nhân bệnh thận mạn. Thiếu máu
góp phần làm phì đại thất trái và nặng thêm bệnh
mạch vành đặc biệt ở bệnh nhân lớn tuổi. Chính phì
đại thất trái là một trong những yếu tố làm tăng tỷ
lệ tử vong ở bệnh nhân bệnh thận mạn. Vai trò cơ
bản của thiếu máu trong nguy cơ tim mạch đã được
nhấn mạnh qua quan sát gần đây ở những bệnh
nhân suy tim và suy thận mức độ vừa. Silverberg
DS và cộng sự năm 2004 cho thấy thiếu máu có
một vai trò quan trọng gây ra suy tim sung huyết,
khoảng 1/3 trường hợp suy tim sung huyết có
Hb dưới 120g/l. Thiếu máu sẽ làm nặng hơn tình
trạng suy tim và làm giảm chức năng thận với hội
chứng tim thận mạn [5]. Ngay cả ở những người
bình thường thiếu máu cũng gây hạ huyết áp và
thiếu oxy ngoại vi, điều này sẽ kích thích hệ thống
thần kinh thực vật làm tăng nhịp tim, tăng thể tích
tuần hoàn và co mạch thận, từ đó giảm tưới máu
thận làm kích thích hệ R-A-A (renin-angiotensin-
aldosteron), càng làm co mạch thận, dẫn đến làm
giảm tưới máu thận, giảm mức lọc cầu thận, ứ
muối. Thiếu máu góp phần làm nặng thêm suy thận
thông qua cơ chế thiếu oxy của các tế bào vùng
thận và làm tổn thương thêm ống kẽ thận [6,7].
Nghiên cứu của Kovesdy C.P. và cộng sự
cho thấy sự tương quan giữa nồng độ Hb với tỷ
lệ tử vong do tất cả các nguyên nhân khác nhau
của những bệnh nhân chưa lọc máu trên 17.194
bệnh nhân và theo dõi trung bình 2,1 năm, tác giả
nhận thấy rằng nồng độ Hb thấp liên quan trực tiếp
đến các biến chứng của bệnh nhân và đặc biệt
có nguy cơ cao ở bệnh nhân bệnh thận giai đoạn
cuối, tương quan có ý nghĩa với tỷ lệ tử vong [8].
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 07 bệnh nhân
không đạt đích, đây cũng là những bệnh nhân đặc
biệt được chú ý trong giai đoạn điều trị tiếp theo
để cải thiện tình trạng thiếu máu cho bệnh nhân.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
trong tháng 2 và tháng 3/2014 không có bệnh
nhân có nồng độ Hb>130g/l, nhưng các tháng còn
lại có một số bệnh nhân có nồng độ Hb>130g/l,
khoảng từ 3,8 - 12,0%. Nghiên cứu của tác giả Bùi
Thị Tâm cũng cho thấy tỷ lệ bệnh nhân có nồng
độ Hb>130g/l khoảng từ 0 đến 5,3% sau khi điều
trị [3]. Đây là những đối tượng có thể có nguy cơ
gặp biến cố bất lợi vì nồng độ Hb ở mức cao. Ngày
nay, nhiều nghiên cứu cho thấy nồng độ Hb cao
có nhiều nguy cơ hơn là lợi ích, vì có thể làm tăng
nguy cơ gây đột quị, tăng huyết áp, thuyên tắc lỗ
rò động tĩnh mạch (ở bệnh nhân thận nhân tạo chu
kỳ) [9,10]. Do vậy, KDIGO 2012 đã khuyến cáo
không được để nồng độ Hb vượt quá 130 g/l trên
tất cả các bệnh nhân bệnh thận mạn người lớn [1].
V. KẾT LUẬN
Trong tổng số 55 bệnh nhân, nồng độ Hb đạt
đích (100 -115g/l) dao động trong khoảng từ 25 –
45% ở các bệnh nhân, giảm xuống thấp nhất ở tháng
11 (19,2%) và tăng trở lại vào tháng 12 (39,2%). Chỉ
số Hemoglobin trung bình của bệnh nhân trong các
tháng không có sự khác biệt nhiều, dao động trong
khoảng từ 99,1±15,0 đến 105,1±15,6 g/l.
nghiên cứu khoa học
Tạp chí
nội khoa Việt nam Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX380
1.KDIGO Clinical Practice Guideline for
Anemia in Chronic Kidney Disease, (2012), Kidney
International. 2(4). August (2).
international.
2.Lâm Thành Vững, (2013), Nghiên cứu đặc
điểm thiếu máu và hiệu quả điều trị EPO β kết
hợp sắt truyền tĩnh mạch ở bệnh nhân suy thận
mạn lọc máu bằng thận nhân tạo chu kỳ, Đại học
Y dược Huế, Thừa Thiên – Huế.
3.Bùi Thị Tâm, (2013), Đánh giá hiệu quả
điều trị thiếu máu bằng erythropoietin trên bệnh
nhân suy thận mạn đang được lọc máu chu kỳ tại
Bệnh viện đa khoa tỉnh Điện Biên, Luận án Dược
sĩ chuyên khoa II, Đại học Dược Hà Nội.
4.Canadian Erythropoietin Study
Group,(1990), Association between recombinant
human erythropoietin and quality of life
and exercise capacity of patients receiving
haemodialysis. Canadian Erythropoietin Study
Group. Bmj. 300(6724). 573-8.
5. Siverberg DS, Wexler D, Iaina A, (2004), The
cardiorenal anemia (CRA) syndrome: Congestive
heart failure, chronic kidney insuffciency and
anemia. Dialysis time. 10(1). 1-2.5.
6.House AA, Hapio M, Lassus J et al,
(2010), Therapeutic strategies for heart failure in
cardiorenal syndrome. American Journal of Kidney
Diseases. 56(4). 759-773.
7.Rossert J, Froissart M, (2006), Role of
Anemia in Progression of Chronic Kidney Disease.
Seminar in nephrology. 26(4). 325-331.
8.Kovesdy C.P, Trivedy B.K, Anderson J.E et
al, (2006), Association of anemia with outcomes
in men with moderate and severe choronic kidney
disease. Kidney International. 69. 560-564.
9.Palmer SC, Navaneethan SD, Craig JC
et al., (2010), “Meta-analysis: erythropoiesis-
stimulating agents in patients with chronic kidney
disease”, Ann Intern Med.153(1). 23-33.
10.Parfrey PS, Foley RN, Wittreich BH et
al., (2005), Double-blind comparison of full and
partial anemia correction in incident hemodialysis
patients without symptomatic heart disease, J Am
Soc Nephrol. 16(7). 2180-9.
ABsTRACT
eVALUATe THe HeMOGLOBIN LeVeLs OF eND-sTAGe ReNAL DIseAse PATIeNTs
ON HeMODIALYsIs
Background: The treatment achieved the hemoglobin target in the hemodialysis patients is very
important, therefore, this study was conducted with the aim was to evaluate the hemoglobin levels of
the end-stage renal disease patients on hemodialysis at Hemodialysis Division in Saint Paul Hospital,
HaNoi, VietNam.
Patients and methods: One retrospective study was performed on hemodialysis patients who
were treated in Hemodialysis Division in Saint Paul Hospital, HaNoi, VietNam. The parameters of
patients were collected from January 2014 to January 2015.
Results: 55 hemodialysis patients were included in our study. During the study time, the
hemoglobin (Hb) levels were from 99.1 ± 15.0 to 105.1 ± 15.6 g l. Among 12 months, there were 4
months with the average Hb levels in patients less than<100g/l, but these Hb level reached close to
the 99.1 ± 15g/l; 99.2 ± 17.3g/l; 99.5±14.2g/l; 99.5±13.1g/l. In 12 months, the rate of patients with Hb
115g/l had ranged from 11.1 to 25.5%. Patients
with Hb levels reached the target (100 -115g/l) ranged from 25-45% but the percentage of theses
patients was the lowest in November and increased in December.
Conclusions: Our results suggested that the patients with Hb levels reaching the target (100
-115g/l) ranged from 25-45%. The hemoglobin (Hb) levels of patients were stable during 12 months
from 99.1 ± 15.0 to 105.1 ± 15.6 g l.
Keywords: Hemoglobin (Hb), end stage renal disease, hemodialysis.
TàI LIỆU THAM KHẢO
Các file đính kèm theo tài liệu này:
khao_sat_tinh_trang_hemoglobin_o_benh_nhan_loc_mau_chu_ki.pdf