Khóa luận Bảo hiểm hoả hoạn và rủi ro đặc biệt tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

LỜI NÓI ĐẦU T ìm ra lửa là một trong những phát hiện lớn và có ý nghĩa trọng yếu nhất trong nền văn minh nhân loại từ xưa đến nay. Ngọn lửa đã giúp con người nấu chín thức ăn, sưởi ấm lòng người trong những ngày đông giá rét. Ngọn lửa cũng giúp loài người thắp lên ánh sáng, giúp con người thoát khỏi thời kỳ tối tăm, mông muội, rời bỏ phần "con" để bước sang một thời kỳ văn minh, tiên tiến, mang tính "người" hơn. Tuy nhiên, ngọn lửa cũng đã gây ra không biết bao nhiêu tai hoạ nghiêm trọng cho con người, chẳng thế mà người ta đã nói rằng "giặc phá không bằng nhà cháy". Trên thực tế, ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, hàng năm, những trận hoả hoạn, những cơn bão, những trận động đất và những rủi ro khác đã phá huỷ hàng trăm ngôi nhà, cướp đi sinh mạng của hàng trăm, hàng nghìn người dân, gây thiệt hại đến hàng trăm tỷ USD. Ở Việt Nam cũng vậy, hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt cũng thường xuyên xảy ra gây thiệt hại nặng nề cả về người và của, ví dụ như các vụ cháy lớn như: cháy chợ Đồng Xuân, cháy Vũ trường Vĩnh Lợi (Thành phố Hồ Chí Minh), xí nghiệp giày Hiệp Hưng, Xí nghiệp dược phẩm Đồng Tháp, Xí nghiệp may mặc Sông Bé, nổ kho vũ khí Đồng Dũ và gần đây nhất là vụ cháy toà nhà trung tâm thương mại ITC ở Thành Phố Hồ Chí Minh. Để khắc phục những hậu quả nặng nề do những vụ hoả hoạn gây ra, từ lâu, người ta đã tìm kiếm và sử dụng rất nhiều biện pháp kinh tế. Trong đó, có thể khẳng định rằng cho đến nay, biện pháp hữu hiệu nhất vẫn là bảo hiểm. Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay, cơ chế thị trường đã buộc các doanh nghiệp trong nước phải tự chủ hoàn toàn về tài chính, phải tự gánh chịu những rủi ro, tai hoạ không may xảy đến với mình chứ không còn được Nhà nước bảo trợ, bù đắp như trước kia nữa. Đồng thời, từ khi Luật Đầu tư nước ngoài được ban hành và thực thi, Việt Nam ngày càng thu hút được nhiều nhà Đầu tư nước ngoài hơn. Trong tình hình đó, phát triển hoạt động bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt là một công tác không thể thiếu để đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp trong và ngoài nước, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này yên tâm sản xuất, kinh doanh và phát triển. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, cùng với mong muốn được tìm hiểu, nghiên cứu sâu thêm về hoạt động này, em đã chọn "Bảo hiểm hoả hoạn và rủi ro đặc biệt tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp" làm đề tài cho Khoá Luận tốt nghiệp của mình. Ngoài phần Lời mở đầu và phần Kết luận, phần còn lại của Khoá luận được chia làm 3 chương: Chương I: Khái quát chung về bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt. Chương II: Hoạt động bảo hiểm hoả hoạn và rủi ro đặc biệt ở Việt Nam. Chương III: Một số giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển của hoạt động bảo hiểm hoả hoạn và rủi ro đặc biệt tại Việt Nam. Mục đích của khoá luận nhằm xem xét toàn bộ nội dung cũng như thực tiễn việc tiến hành hoạt động khai thác bảo hiểm hoả hoạn và rủi ro đặc biệt tại Việt Nam. Khoá luận cũng sẽ đặt chúng trong mối quan hệ với quy tắc bảo hiểm hoả hoạn và rủi ro đặc biệt hiện đang được áp dụng ở Việt Nam, từ đó thấy được những mặt đã đạt được cũng như chưa đạt được trong hoạt động bảo hiểm này, đồng thời đưa ra một số giải pháp nhằm đẩy mạnh sự phát triển của hoạt động bảo hiểm nói chung cũng như bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt nói riêng. Em xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành của mình đến PGS.TS Nguyễn Như Tiến, người đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn em trong suốt quá trình thực hiện luận văn này. Em cũng cám ơn các thầy, cô trong bộ môn Vận tải và Bảo hiểm đã truyền đạt cho em những kiến thức vô cùng quý báu về lĩnh vực bảo hiểm để em có thể hoàn thành tốt Khoá luận tốt nghiệp của mình. Do hạn chế về kinh nghiệm, tài liệu và thời gian nên Khoá luận không tránh khỏi thiếu sót. Vì vậy, em kính mong nhận được sự góp ý, nhận xét của các thầy, các cô và các bạn để Khoá luận được hoàn thiện hơn. MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU 1 CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM HOẢ HOẠN VÀ CÁC RỦI RO ĐẶC BIỆT 3 I. Khái niệm, đối tượng và quy tắc của bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt 3 1. Khái niệm và đặc điểm của bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt 3 1.1. Khái niệm về bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt 3 1.2. Đặc điểm của bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt 6 2. Đối tượng bảo hiểm trong bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt 6 3. Quy tắc bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt 7 3.1. Phạm vi bảo hiểm 9 3.2.Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm 13 3.3. Phí bảo hiểm (Premium) 16 3.4.Giám định và bồi thường tổn thất 18 II. Sự cần thiết của bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt 20 III. Lịch sử phát triển của bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt trên thế giới và ở Việt Nam 25 1. Lịch sử phát triển của bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt trên thế giới 25 2. Lịch sử phát triển bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt ở Việt Nam 28 CHƯƠNG II. HOẠT ĐỘNG KINH DOANH BẢO HIỂM HOẢ HOẠN VÀ CÁC RỦI RO ĐẶC BIỆT Ở VIỆT NAM. 32 I. Thị trường bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt và tác động của nó tới khả năng phát triển hoạt động bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt ở Việt Nam 32 1. Thuận lợi 32 1.1. Về chủ thể tham gia thị trường 32 1.2. Về thị trường 35 2. Khó khăn 37 2.1. Về chủ thể tham gia thị trường 37 2.2. Về thị trường 40 II. Quy trình khai thác nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt ở Việt Nam 42 1. Hoạt động khai thác bảo hiểm 42 1.1. Tuyên truyền, quảng cáo, chủ động tiếp cận khách hàng 43 1.2. Đánh giá rủi ro 45 1.3. Cấp giấy chứng nhận bảo hiểm (đơn bảo hiểm) 46 1.4. Thay đổi giá trị tài sản được bảo hiểm và theo dõi tình hình thu phí 47 1.5. Thanh toán hoa hồng 47 2. Giám định tổn thất 48 2.1. Quy trình giám định tổn thất 49 2.2. Yêu cầu khi giám định tổn thất 50 3. Bồi thường và chi trả tiền bảo hiểm 51 3.1. Kiểm tra hồ sơ khiếu nại và xác định trách nhiệm bảo hiểm 52 3.2. Xác định mức độ thiệt hại 52 3.3. Xác định số tiền bồi thường 52 3.4. Thông báo bồi thường 53 3.5. Truy đòi người thứ ba 54 III. Đánh giá về hoạt động khai thác nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt ở Việt Nam 56 1. Những Thành tựu trong kinh doanh bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt 56 1.1. Về hoạt động khai thác bảo hiểm 56 1.2. Hoạt động giám định tổn thất 58 1.3. Hoạt động bồi thường tổn thất và chi trả tiền bảo hiểm 59 1.4. Hoạt động đề phòng, hạn chế tổn thất 60 2. Những mặt Tồn tại trong kinh doanh bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt 61 2.1. Hoạt động khai thác bảo hiểm 61 2.2. Hoạt động giám định, bồi thường và hạn chế tổn thất 62 2.3. Những hạn chế khác 64 CHƯƠNG III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY SỰ PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM HOẢ HOẠN VÀ CÁC RỦI RO ĐẶC BIỆT Ở VIỆT NAM 68 I. Nhu cầu về bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt ở Việt Nam trong thời gian tới 68 II. Kinh nghiệm khai thác nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt ở một số nước trên thế giới 70 1. Không phân biệt giữa các công ty bảo hiểm 70 2. Liên doanh, liên kết và sáp nhập 71 3. Xu hướng E - Bancassurance 72 III. Các giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển hoạt động bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt ở Việt Nam 73 1. Các giải pháp về phía Nhà nước 73 2. Các giải pháp về phía các doanh nghiệp bảo hiểm 77 2.1. Hoạt động khai thác bảo hiểm 77 2.2. Giám định và giải quyết bồi thường 81 2.3. Đề phòng và hạn chế tổn thất 82 2.4. Xác định phạm vi bảo hiểm và phí bảo hiểm 83 2.5. Hoạt động tái bảo hiểm 83 2.6. Hoạt động phòng chống trục lợi bảo hiểm 84 2.7. Về hệ thống thông tin 85 2.8. Đào tạo cán bộ bảo hiểm 85 3. Các giải pháp khác 87 3.1. Giải pháp về phía khách hàng 87 3.2. Giải pháp về phía các nhà môi giới và các văn phòng đại diện nước ngoài 89 3.3. Giải pháp về phía các ngân hàng thương mại 90 KẾT LUẬN 92 TÀI LIỆU THAM KHẢO 93 PHỤ LỤC 95

doc108 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1619 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Bảo hiểm hoả hoạn và rủi ro đặc biệt tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iệt là bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt. Ta đã biết rằng nhu cầu về sản phẩm bảo hiểm nói chung và bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt nói riêng không phải là nhu cầu căn bản nhất của con người. Và vì vậy, chỉ có thể đáp ứng được những nhu cầu căn bản nhất (nhu cầu sinh lý) thì mới tạo ra được sự phát triển của nhu cầu bảo hiểm mà thôi. Điều đó cũng có nghĩa là nếu mức sống và thu nhập của nhân dân càng được nâng cao, nền kinh tế càng phát triển mạnh mẽ thì nhu cầu về bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt sẽ càng tăng trưởng cao hơn. Theo giải trình của Chính phủ tại kỳ họp thứ 2 của Quốc hội khoá XI , kinh tế Việt Nam vẫn tiếp tục tăng trưởng và phát triển ổn định. Nhịp độ tăng trưởng và phát triển kinh tế năm 2002 của Việt Nam vẫn duy trì ở mức cao (tốc độ tăng trưởng GDP cả năm đạt 7,04%, so với mức tăng 6,8% vào năm 2001; 6,8% vào năm 2000; 4,8% vào năm 1999 và 5,7% vào năm 1998). Công nghiệp tăng 14,4%, nông nghiệp tăng 5% đều vượt xa kế hoạch và đạt mức cao nhất từ trước tới nay.Với kết quả đó, Việt Nam tự hào vì đã được xếp vào nhóm 3 nước có tốc độ tăng GDP cao nhất Châu Á cùng với Trung Quốc (8%) và Hàn Quốc (7%). Điều này đã được thế giới thừa nhận. Báo cáo phát triển Việt Nam năm 2003 (VDR) của Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) và Ngân hàng thế giới (WB) ngày 11/11/2002 đã khẳng định năm 2002 kinh tế Việt Nam khả quan "tốc độ tăng GDP của Việt Nam đạt cao hơn trước đây và xu hướng tăng so với năm trước". Kinh tế tăng trưởng khá, thu ngân sách tăng 12% so với năm 2001, vượt dự toán 8%. Thị trường sôi động, mức sống của nhân dân đã được cải thiện một cách đáng kể: sức mua dân cư tăng 12% do thu nhập và đời sống của nhân dân, nhất là khu vực nông thôn tăng trên 10%. Lạm phát bị kiềm chế, giảm phát bị đẩy lùi, chỉ số giá 4% đạt kế hoạch đề ra. Một điều đáng mừng là Việt Nam gần đây lại thêm một lần nữa được đánh giá là nơi an toàn nhất và là điểm đến của khách du lịch toàn cầu. Như vậy, có thể thấy rằng cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội của đất nước, nhu cầu về bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt ngày càng lớn mạnh. Đó là một điều tất yếu khách quan: khi đầu tư, du lịch, các công trình xây dựng đang mọc lên ngày càng nhiều với tốc độ nhanh thì thị trường bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt sẽ phải được mở rộng. Thêm nữa, vụ hoả hoạn xảy ra tại Trung tâm thương mại quốc tế cuối tháng 10/2002 tại Thành phố Hồ Chí Minh và một số vụ hoả hoạn khác liên tục xảy ra tại khắp các tỉnh, thành phố đã có tác động làm gia tăng nhu cầu bảo hiểm, đặc biệt là bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt. Thêm vào đó, nếu xét về tổng quan thị trường bảo hiểm nói chung, thì có thể dự báo rằng trong năm 2003, thị trường bảo hiểm phi nhân thọ có thể có thêm các công ty bảo hiểm liên doanh và cổ phần được cấp giấy phép hoạt động. Điều đó sẽ làm cho thị trường bảo hiểm Việt Nam sôi động lên nhiều. Những tác động của tình hình trong nước và quốc tế dự báo thị trường bảo hiểm phi nhân thọ sẽ tiếp tục cạnh tranh sôi động đạt mức tăng trưởng khoảng 20% trong năm 2003 so với năm 2002. Mức tăng trưởng của thị trường bảo hiểm nhân thọ vào khoảng 50% nếu các công ty bảo hiểm có hợp đồng đáo hạn khuyến khích được các chủ hợp đồng tái tục bảo hiểm. Như vậy tốc độ tăng trưởng chung của toàn thị trường bảo hiểm Việt Nam dự kiến ở mức 38% với tổng doanh thu phí bảo hiểm trên 10.590 tỷ đồng (bằng 1,8% GDP năm 2003). Tỷ lệ tái bảo hiểm bắt buộc có thể sẽ giảm dần theo lộ trình thực hiện cam kết Hiệp định thương mại Việt - Mỹ, đòi hỏi hoạt động của công ty tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam - Vinare- phải tăng cường hỗ trợ các công ty bảo hiểm gốc để có thể nâng cao tỷ trọng nhận tái bảo hiểm tự nguyện. Riêng về bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt thì nghiệp vụ này đã đạt mức tăng trưởng 15% trong năm 2002 so với năm 2001, và theo dự kiến thì sẽ đạt mức tăng trưởng 20% so với năm 2002 vào năm 2003 này nhờ vào những điều kiện đã phân tích như trên. Đứng trước một số dự báo nêu trên, chắc chắn trên thị trường bảo hiểm, cạnh tranh giữa các công ty ngày càng gay gắt, cả trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm phi nhân thọ, và tất nhiên trong đó bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt cũng phải là một lĩnh vực được cả người tham gia bảo hiểm và các công ty bảo hiểm đặc biệt quan tâm hơn nữa. II. KINH NGHIỆM KHAI THÁC NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM HOẢ HOẠN VÀ CÁC RỦI RO ĐẶC BIỆT Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI 1. KHÔNG PHÂN BIỆT GIỮA CÁC CÔNG TY BẢO HIỂM Chính sách không phân biệt giữa các công ty bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt trong nước và nước ngoài được thể hiện rất rõ ở Hồng Kông. Đây là nước có một thị trường bảo hiểm phát triển khá tốt. Xét về thu nhập, thị trường bảo hiểm Hồng Kông đứng thứ 5 trong những thị trường lớn nhất Châu Á và đứng thứ 24 trong những thị trường lớn nhất thế giới. Khi đã được cấp phép từ Cơ quan điều hành bảo hiểm ở Hồng Kông, các công ty bảo hiểm nước ngoài cạnh tranh trên cơ sở không bị phân biệt đối xử với các công ty bảo hiểm trong nước. Vì thế, các công ty nước ngoài rất thích đầu tư vào lĩnh vực bảo hiểm nói chung và bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt nói riêng ở nước này. Thực tế là trong số 223 công ty bảo hiểm ở Hồng Kông vào năm 1996 thì đã có 123 công ty là công ty nước ngoài. Điều đó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty bảo hiểm Hồng Kông nâng cao tính cạnh tranh và ngày càng phát triển. 2. LIÊN DOANH, LIÊN KẾT VÀ SÁP NHẬP Xu hướng này được thể hiện rất rõ trong chính sách phát triển thị trường bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt ở một số nước, trong đó có nhiều nước ở Châu Á như Hàn Quốc, Hồng Kông, Nhật Bản… Cụ thể, từ sau cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ Châu Á, Hàn Quốc đã xây dựng các giải pháp nhằm liên kết các liên doanh và sáp nhận các công ty bảo hiểm trong nền công nghiệp dịch vụ tài chính. Nước này đã ban hành rất nhiều quy định về liên doanh, liên kết và sáp nhập. Để tránh gây rối, các điều luật về liên doanh và sáp nhập không cho phép công ty bảo hiểm nói chung và các công ty bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt nói riêng thay đổi định hướng kinh doanh cơ bản của mình. Tuy nhiên, chúng lại cho phép các công ty này mở rộng các loại hình dịch vụ trong phạm vi công ty bằng cách cho phép các công ty bảo hiểm liên doanh liên kết với các tổ chức tài chính khác như các ngân hàng thương mại… Cũng tương tự, ở Nhật Bản, xu hướng sáp nhập, liên kết cũng diễn ra rất mạnh mẽ. Ngoài ra, Luật Nhật cũng khuyến khích thành lập công ty trợ giúp tương hỗ (mutual funded assistance company), tương tự như các tập đoàn bảo hiểm tín dụng nhằm giúp đỡ các công ty bảo hiểm gặp khó khăn. Tuy nhiên, cũng chính vì xu hướng liên kết ở đây quá mạnh nên đã khiến các công ty bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt luôn muốn được trở thành thành viên của các keiretsu, tức các tập đoàn bảo hiểm. Nhưng chính việc đó lại là cản trở trong cạnh tranh của ngành bảo hiểm này. Ví dụ, năm 1987, 75% các công ty lớn nhất của Nhật thường chỉ lựa chọn các công ty bảo hiểm là các thành viên của tập đoàn lớn. Chính vì thế, các công ty bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt vừa và nhỏ vốn đã khó cạnh tranh lại càng bị yếu thế hơn trước các công ty bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt là thành viên của Keiretsu. Và điều này dễ dẫn đến tình trạng độc quyền trong bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt ở Nhật Bản. Như vậy, ta có thể thấy được rằng hầu hết các nước đi đầu trong lĩnh vực bảo hiểm ở Châu Á đều có chiến lược đẩy mạnh sáp nhập và liên kết giữa các công ty bảo hiểm và các ngân hàng cũng như các tổ chức khác. 3. XU HƯỚNG E - BANCASSURANCE Một số nước trên thế giới, đặc biệt là các nước công nghệ tiên tiến, còn gặt hái được nhiều thành công nhờ kết hợp hoạt động kinh doanh bảo hiểm với các nghiệp vụ ngân hàng trên một thị trường ảo - internet, tức ngân hàng - bảo hiểm điện tử mà người ta thường gọi là E - Bancassurance. Khi áp dụng Bancassurance vào bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt, các ngân hàng có thể tiến hành bảo hiểm những tài sản thế chấp (như nhà cửa, các trang thiết bị phục vụ sản xuất…), vốn là những đối tượng của bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt khi khách hàng muốn thế chấp những tài sản này để vay tiền của ngân hàng. Bancassurance đã hình thành chủ yếu ở Châu Âu. Tại những nước này, thị phần của Bancassurance đã liên tục tăng lên và ngày nay nó xê dịch trong khoảng 5 - 10% trong bảo hiểm phi nhân thọ. Con số này sẽ còn tiếp tục tăng lên bởi vì các ngân hàng ngày càng mở rộng cửa đối với bảo hiểm khi họ đã được chứng kiến nhiều trường hợp thành công. Các công ty đi tiên phong bao gồm các tập đoàn liên kết tài chính (financial conglomerates) như Fortis, ING và Rabobank ơr Hà Lan, các liên minh chặt chẽ như Citibanks với CIV ở Đức và HSBC/ERisa ở Pháp. Sự sáp nhập gần đây giữa Citibanks và Travelers - Mỹ và việc Alianz (một công ty bảo hiểm hàng đầu của Đức) mua lại Dresdner (một ngân hàng đứng hàng thứ 3 của Đức) đã cho thấy tầm quan trọng ngày càng tăng của quan điểm bancassurance. Còn ở Châu Á, sự phát triển của bancassurance chỉ mới bắt đầu gần đây. Công ty bảo hiểm Maybank của Malaysia, một công ty bảo hiểm tiêu biểu của năm 2000, là một ví dụ tiêu biểu về quan điểm ngân hàng - bảo hiểm thành công. Công ty này đã có thể tránh được sự xung đột về kênh phân phối bằng cách tập trung ngay từ đầu vào mô hình bán hàng ngân hàng - bảo hiểm. Và nhờ khai thác công nghệ điểm bán hàng mới nhất đã tránh được cái bẫy của hệ thống đại lý bán hàng truyền thống vì một tỷ lệ rất lớn các đơn bảo hiểm có thể được cấp tại chỗ. E - Bancassurance có thể thành công phần lớn là do phần đông mọi người vẫn thích giải quyết các vấn đề tài chính của mình với ngân hàng nhiều hơn là với công ty bảo hiểm. Gần như mọi người đều có riêng một ngân hàng mà mình ưa chuộng để giải quyết tất cả các công việc tài chính. Họ thường xuyên liên hệ với ngân hàng này. Trong thế giới ảo, điều đó vẫn sẽ không thay đổi. Chính vì vậy, bancassurance đã tìm được chỗ đứng và đang sắp tạo ra được một thị phần đáng kể cho mình. Cho đến nay, việc bán bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt kết hợp với nghiệp vụ ngân hàng thông qua kênh Internet còn chưa thành công như một số người hy vọng. Nhưng kinh nghiệm kỹ thuật mà những người đi tiên phong đã thu được sẽ tạo cho họ những lợi thế khi bán bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt theo phương pháp e - bancassurance thực sự cất cánh. III. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY SỰ PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM HOẢ HOẠN VÀ CÁC RỦI RO ĐẶC BIỆT Ở VIỆT NAM 1. CÁC GIẢI PHÁP VỀ PHÍA NHÀ NƯỚC Trong những năm sắp tới, thị trường bảo hiểm nói chung và bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt nói riêng có nhiều khả năng biến động với mức độ cạnh tranh cao hơn. Để thích ứng được với hoàn cảnh đó, đồng thời thúc đẩy thị trường bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt phát triển bền vững, tăng cường vai trò của nó trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nhà nước cần phải nhanh chóng thực hiện được và thực hiện tốt một số giải pháp sau: * Thứ nhất, Nhà nước cần hoàn thiện các quy định pháp luật điều chỉnh nhằm tạo khung pháp lý thuận lợi cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt, tạo sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia cũng như của các doanh nghiệp bảo hiểm, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt, đáp ứng yêu cầu quản lý và phát triển thị trường bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt trong nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Việc hoàn thiện môi trường pháp lý, trước hết là hoàn thiện và bổ sung các quy định phù hợp với tập quán kinh doanh bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt, điều kiện thực tiễn của Việt Nam, mục tiêu và định hướng phát triển thị trường. Song song với việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý, cần xây dựng một cơ chế kiểm tra, giám sát hữu hiệu việc thực hiện trên thực tế nhằm xác lập và duy trì một thị trường cạnh tranh lành mạnh, tạo tiền đề cho sự phát triển bền vững. Cụ thể là, Nhà nước cần: Tăng cường năng lực của Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam để đủ sức đảm trách vai trò "trọng tài" của các công ty hội viên. Muốn vậy, Nhà nước cần có cơ chế tài chính theo hướng khuyến khích đối với cán bộ chuyên trách của Hiệp hội để thu hút nhân tài vào làm việc tại đây. Đi liền với cơ chế tài chính, trách nhiệm và quyền hạn của Hiệp hội phải đủ mạnh để xử phạt những hội viên vi phạm những thoả thuận hợp tác. Để thực hiện được điều đó cần có những quy định rất rõ ràng về mức phạt cho từng trường hợp vi phạm. Mặt khác, Nhà nước cũng cần cho phép các công ty là hội viên của Hiệp hội được hưởng một số ưu đãi từ chính sách quản lý của mình, nhằm khuyến khích các công ty tham gia vào Hiệp hội. Khi Hiệp hội thực hiện tốt vai trò "trọng tài", đẩy lùi tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, thì công việc quản lý của các cơ quan Nhà nước sẽ được giảm nhẹ. Do đó, cơ quan quản lý Nhà nước cần hỗ trợ Hiệp hội có những can thiệp về mặt hành chính đối với những công ty cố tình vi phạm. Nâng cao chất lượng của cơ quan quản lý Nhà nước trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Trước tốc độ phát triển của thị trường và những yêu cầu về quản lý đặt ra, cần tăng cường và bổ sung lực lượng cán bộ làm công tác quản lý Nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm, đồng thời với việc đào tạo và đào tạo lại các cán bộ về kinh doanh bảo hiểm theo kinh tế thị trường nhằm đáp ứng với nhu cầu của tình hình mới. * Song song với việc nâng cao năng lực quản lý, Bộ tài chính cần có những chỉ đạo cụ thể nhằm thúc đẩy thị trường như: củng cố lại các doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn Nhà nước để đủ sức thực sự giữ vai trò chủ đạo trên thị trường; kiến nghị với Chính phủ có những giải pháp đồng bộ giữa các ngành nhằm nâng cao tỷ trọng bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt trên tổng kim ngạch bảo hiểm hàng năm; Phối hợp cùng các Bộ, UBND các tỉnh, thành chỉ đạo thực hiện triệt để Nghị quyết 13/2002/NQ - CP của Chính Phủ. Nhà nước cần có chiến lược, định hướng phù hợp trong phát triển thị trường bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt, trước hết là chiến lược, chính sách hội nhập. Đó là cần xác định lộ trình hội nhập và mở cửa thị trường bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt. Tiếp đến, Nhà nước cần có chính sách phù hợp để khuyến khích, phát triển thị trường bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt, đặc biệt là những điểm sau: Đối với vấn đề đại lý, do hoạt động đại lý bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt có những điểm khác biệt đối với các đại lý thương mại nói chung nên Nhà nước cần có những quy định chặt chẽ và cụ thể hơn về tiêu chuẩn, điều kiện, đào tạo, sát hạch, cấp chứng chỉ hành nghề đại lý bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt. Đặc biệt, để tiêu chuẩn hoá được đội ngũ bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt của Việt Nam ngang tầm với tiêu chuẩn của khu vực và Thế giới, Nhà nước cần quy định rõ nội dung đào tạo, đồng thời tiến hành tổ chức thi sát hạch, cấp chứng chỉ hành nghề đại lý. Thực tế cho thấy, để đạt được hợp đồng, đại lý bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt cần bỏ ra khá nhiều chi phí như chi phí đi lại, tiếp thị,… do vậy, khi xác định thuế thu nhập cho đại lý cũng cần có cách tính phù hợp. Cụ thể, Nhà nước nên thay đổi chính sách thuế áp dụng đối với thu nhập của đại lý bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt theo hướng như sau: Thu nhập của đại lý bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt đang chịu sự điều tiết của Luật thuế Thu nhập Doanh nghiệp cần được chuyển sang chịu sự điều tiết của Pháp lệnh thuế thu nhập cá nhân đối với người có thu nhập cao số 35/2001/PL - UBTVQH10 đã được sửa đổi, bổ sung và ban hành ngày 19/5/2000. Làm như vậy, một mặt vẫn đảm bảo nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước; mặt khác, khắc phục được những điểm chưa hợp lý, đồng thời góp phần giảm tỷ lệ đại lý nghỉ việc trong các công ty bảo hiểm, nhằm tăng thêm năng lực tiếp cận và tiếp thị đối với những khách hàng tiềm năng giúp các công ty bảo hiểm có thể thoả mãn tốt nhất những nhu cầu bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt. Đối với các doanh nghiệp Nhà nước, Nhà nước cần có chính sách tạo ra sự bình đẳng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này có thể đứng trên cùng mặt bằng khi cạnh tranh với các doanh nghiệp thuộc loại hình khác trên các mặt như tiền lương, chi phí quản lý… Tuy nhiên, đối với các doanh nghiệp bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt Nhà nước làm ăn có hiệu quả thì cần phải được đầu tư thêm vốn và các nguồn lực khác nhằm thực hiện phương châm: kinh tế Nhà nước luôn giữ vai trò chủ đạo trong lĩnh vực bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt. Song, Nhà nước cũng cần sắp xếp lại các doanh nghiệp bảo hiểm này theo chiều hướng quán triệt tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung Ương 3 (khoá IX) "về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước". Hơn nữa, cũng cần phải xem xét khả năng tiến hành cổ phần hóa những doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nước hoạt động không mấy hiệu quả cho phù hợp với tiến trình hội nhập và đảm bảo quyền lợi quốc gia cũng như của các doanh nghiệp bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt nói riêng cũng như các doanh nghiệp bảo hiểm nói chung trên thị trường. Từ nay đến năm 2005, Nhà nước cũng cần xem xét việc cho phép thành lập thêm một số công ty cổ phần hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ có tham gia cung cấp dịch vụ bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt, công ty cổ phần môi giới bảo hiểm, công ty môi giới bảo hiểm 100% vốn nước ngoài, doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài cũng có tham gia vào lĩnh vực này, có tính đến các khu vực mà Việt Nam cam kết hội nhập. 2. CÁC GIẢI PHÁP VỀ PHÍA CÁC DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM 2.1. Hoạt động khai thác bảo hiểm 2.1.1. Công tác tuyên truyền, quảng cáo, xây dựng hình ảnh, uy tín của doanh nghiệp Trong những năm qua, hoạt động khai thác bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt ở Việt Nam vẫn còn tương đối yếu kém. Vì vậy, muốn phát triển loại hình dịch vụ này thì một điều nhất thiết là phải đẩy mạnh công tác khai thác bảo hiểm. Trong khâu khai thác, các doanh nghiệp bảo hiểm không thể không chú trọng tới hoạt động tuyên truyền, quảng cáo cho sản phẩm bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt cũng như xây dựng được hình ảnh, uy tín của doanh nghiệp bảo hiểm. Một biện pháp tuyên truyền, quảng cáo rất hữu hiệu là quảng cáo qua các phương tiện truyền thông như: tivi, đài, báo chí, thậm chí internet…nhằm mục đích giới thiệu các loại hình bảo hiểm, ý nghĩa và tác dụng của nó. Đồng thời, các doanh nghiệp bảo hiểm cũng nên quan tâm đến việc đẩy mạnh và mở rộng hơn nữa mối quan hệ với các thành phần trung gian như: các ngành quản lý, chủ quản, các ngành liên quan như Bộ Kế hoạch và đầu tư, các ngân hàng thương mại, lực lượng cảnh sát PCCC, các công ty dịch vụ tư vấn về đầu tư, các doanh nghiệp nhà nước, tư nhân lớn… để thông qua họ giới thiệu sản phẩm bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt của mình. Đồng thời các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam cũng cần quan hệ chặt chẽ với các công ty bảo hiểm nước ngoài, các công ty môi giới để có thể giúp đỡ qua lại lẫn nhau. Những biện pháp như vậy sẽ góp phần tạo danh tiếng cho doanh nghiệp bảo hiểm, từ đó giúp doanh nghiệp này giành được thế chủ động trong cạnh tranh giành khách hàng. Ngoài ra, đối với việc xây dựng một hình ảnh đẹp đối với doanh nghiệp bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt, thì doanh nghiệp phải đặt ra một câu hỏi: Khách hàng tham gia bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt mong đợi gì ở mình? Câu trả lời là: giải quyết quyền lợi bảo hiểm nhanh chóng, thoả đáng, giữ đúng cam kết với khách hàng, tạo sự tiện lợi nhất cho khách hàng, chất lượng dịch vụ cao đáp ứng tốt nhu cầu đa dạng của khách hàng không chỉ trong lĩnh vực bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt mà cả trong những lĩnh vực khác. Tựu chung lại, đó là chất lượng dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp. Để có thể đảm bảo thực hiện các cam kết, doanh nghiệp bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt cần có khả năng tài chính vững mạnh (vốn lớn, quản lý khối tài sản lớn và được quản lý tốt), tài chính lành mạnh, làm ăn có hiệu quả, có nhiều kinh nghiệm hoạt động. Trong thời đại toàn cầu hoá, doanh nghiệp bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt cũng cần phải thể hiện sự năng động, đi đầu, có định hướng rõ rệt, với phạm vi hoạt động quốc tế và có nhiều khách hàng. Những mong đợi ấy của khách hàng cũng chính là hình ảnh mục tiêu về doanh nghiệp mà các doanh nghiệp bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt cố gắng tạo lập. Nếu quan sát, chúng ta có thể thấy có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hình ảnh của doanh nghiệp trong mắt công chúng như chất lượng dịch vụ, tiềm lực tài chính, kết quả kinh doanh, kinh nghiệm hoạt động, ban lãnh đạo, trụ sở làm việc, phong cách kinh doanh, văn hoá doanh nghiệp… Có những yếu tố tưởng chừng như rất nhỏ, không quan trọng nhưng cũng có ảnh hưởng đến hình ảnh doanh nghiệp mà doanh nghiệp cũng không thể coi thường như trang phục của nhân viên, phong cách tiếp xúc với khách hàng, các ấn chỉ, màu sắc sử dụng trong các ấn chỉ…Vì vậy, ngày nay, mỗi doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực bảo hiểm nói chung và bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt nói riêng, nếu có khả năng, nên tổ chức một bộ phận gọi là Quan hệ cộng đồng (public relation), chuyên thực hiện chức năng xử lý các quan hệ, giao thiệp với khách hàng, với trọng tâm là xây dựng hình ảnh tốt về doanh nghiệp. Một điều quan trọng ở đây là, việc xây dựng hình ảnh doanh nghiệp không phải là một việc làm nhất thời mà phải được coi là việc làm thường xuyên, là trách nhiệm của tất cả các cán bộ, đại lý trong doanh nghiệp, không phải là trách nhiệm của chỉ một bộ phận hoặc cá nhân nào. Hình ảnh tốt đẹp, uy tín của doanh nghiệp là một tài sản chỉ có thể được tích luỹ lâu dài trong quá trình hoạt động kinh doanh. Đối với mỗi thành viên của doanh nghiệp, trong mỗi hoạt động của mình, dù nhỏ hay lớn thì đều phải xây dựng được hình ảnh tốt đẹp của doanh nghiệp, không được làm gì tổn hại đến hình ảnh, uy tín của doanh nghiệp. 2.1.2. Chú trọng hơn nữa đến các thị trường tiềm năng chưa được khai thác Trong những năm qua, các vụ cháy chợ, các trung tâm thương mại, các cửa hàng kinh doanh đã xảy ra liên tục và đều để lại những hậu quả lớn, nghiêm trọng. Do vậy, các công ty bảo hiểm Việt Nam cần đi sâu khai thác sức mua bảo hiểm của các hộ kinh doanh ở chợ, các khu vực triển lãm, các trung tâm thương mại. Ngoài ra, một thị trường rộng lớn đầy tiềm năng mà chưa một doanh nghiệp bảo hiểm nào có thể khai thác tốt là các hộ nhà dân. Ta biết rằng đối với các nước phương Tây, ngôi nhà được coi là một tài sản vô cùng quý giá đối với mỗi gia đình, cho nên có rất nhiều gia đình đã tự nguyện mua bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt cho ngôi nhà của mình. Người phương Đông cũng giống như người phương Tây, coi ngôi nhà là cả gia sản, nhưng còn hơn người phương Tây, người phương Đông không chỉ coi ngôi nhà là nơi che mưa che nắng mà còn coi nó là "tổ ấm", là nơi thờ cúng gia tiên linh thiêng của cả dòng họ. Chính vì vậy, nếu có thể khiến cho họ hiểu được những lợi ích mà họ được hưởng khi mua bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt cho ngôi nhà và tài sản trong của họ trong ngôi nhà đó thì việc họ tự nguyện mua bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt cũng là điều dễ hiểu. Ngoài ra, không ai có thể phủ nhận rằng thành phần kinh tế tư nhân ở nước ta đang phát triển, lớn mạnh rất nhanh chóng (đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ) và sẽ là một thành phần kinh tế quan trọng, chủ chốt của đất nước trong một tương lai không xa. Chính vì vậy, để thành công, họ cũng cần được an toàn để kinh doanh, để phát triển. Và bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt sẽ giúp họ có được tâm lý an toàn trong kinh doanh. Nếu giúp được thành phần kinh tế này hiểu được tác dụng của bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt thì chắc chắn họ sẽ không làm ngơ với nghiệp vụ bảo hiểm này như họ đã làm trong thời gian vừa qua. Xây dựng một kênh phân phối cho riêng mình Đối với ngành bảo hiểm, kênh phân phối nổi lên như một công cụ marketing quan trọng giúp doanh nghiệp tạo lập và duy trì lợi thế cạnh tranh. Tuy nhiên, do đặc thù của ngành dịch vụ này mà ở mọi nơi, mọi bộ phận trong doanh nghiệp đều có thể cung cấp được sản phẩm đến khách hàng, nên khi tổ chức càng lớn thì càng có nguy cơ của sự chồng chéo, đan xen khi có cùng chung một thế mạnh, chung một kiểu cách phục vụ, khi mà sự đa dạng và phát triển của kênh phân phối chưa theo kịp. Hơn nữa, cho đến nay, các doanh nghiệp mới chỉ quan tâm đến các quan hệ kinh doanh trực tiếp, đến từng dịch vụ đơn lẻ mà chưa để ý đến hệ thống các quan hệ kinh doanh một cách tổng thể trên thị trường. Chính vì các công ty chưa có một chiến lược về kênh phân phối cụ thể mà nảy sinh tình trạng cạnh tranh nhau rất khốc liệt, làm ảnh hưởng đến quan hệ và hiệu quả của các công ty nói riêng và đến sự phát triển chung của toàn thị trường. Do đó, việc xây dựng một chiến lược về kênh phân phối sẽ góp phần giúp các công ty không bị cuốn theo tình huống của thị trường mà có được sự uyển chuyển, linh hoạt một cách chủ động khi thị trường có những biến động bất lợi. Hơn nữa, phát huy được một kênh phân phối tốt có khả năng đem lại một lợi thế cạnh tranh lâu dài cho doanh nghiệp bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt, vì nó đòi hỏi thời gian, sức lực, trí tuệ và tiền của nên không dễ dàng bị các doanh nghiệp khác bắt chước. Và vì vậy, xây dựng một kênh phân phối cho riêng mình phải được các doanh nghiệp bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt coi là một hướng đi đúng, một việc làm chiến lược trong giai đoạn hiện nay, khi chỉ còn 5 năm nữa là thị trường bảo hiểm Việt Nam phải mở cửa hoàn toàn, theo tiến độ của Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ. Chế độ hoa hồng Các công ty bảo hiểm cần có một chế độ hoa hồng hấp dẫn, thoả đáng cho các công ty môi giới, những cộng tác viên bảo hiểm hoặc các khách hàng là các cá nhân. Bởi vì trong thị trường bảo hiểm mang tính cạnh tranh khốc liệt như hiện nay, doanh nghiệp bảo hiểm nào có tỷ lệ hoa hồng cao hơn trong khi vẫn giữ được các điều kiện khác tương đồng với các doanh nghiệp bảo hiểm khác thì sẽ thu hút được khách hàng nhiều hơn. Chính vì vậy, chế độ hoa hồng, thưởng, phạt phải được xây dựng thật linh hoạt và hấp dẫn, phải căn cứ vào hiệu quả kinh doanh mà quy định tỷ lệ hoa hồng. Đối với những tổ chức, cá nhân có hỗ trợ cho doanh nghiệp thì phải có chế độ thưởng, ưu đãi đặc biệt. 2.2. Giám định và giải quyết bồi thường Giám định Giám định là một trong những công việc có ý nghĩa quan trọng nhất trong nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt. Chính vì vậy, các công ty bảo hiểm cần phải nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ giám định bằng cách tổ chức các khoá học có chất lượng cho các cán bộ làm giám định. Đồng thời, cử họ đi thực tiễn và học hỏi kinh nghiệm của các công ty, các đội ngũ chuyên gia giám định chuyên nghiệp cả ở trong nước và nước ngoài. Sau mỗi vụ việc thì cán bộ giám định phải tập hợp lại để nghiên cứu, đúc rút kinh nghiệm, lập ra một cuốn sổ tay giám định nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt để các giám định viên dễ dàng tra cứu và đưa ra kết luận chính xác cho những lần sau. Bồi thường Trên thực tế, khách hàng thường đánh giá một doanh nghiệp bảo hiểm có tốt hay không là dựa phần lớn vào cách xử lý của doanh nghiệp trong khâu bồi thường. Tuy vậy, ở Việt Nam, thủ tục bồi thường của các doanh nghiệp bảo hiểm hầu hết đều còn rất rườm rà, phức tạp và gây khá nhiều khó khăn cho khách hàng nếu muốn được bồi thường. Do vậy, các doanh nghiệp bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt của Việt Nam cần nhanh chóng khắc phục yếu điểm này bằng cách soạn ra những tài liệu hướng dẫn giải quyết bồi thường một cách rõ ràng và cung cấp cho khách hàng để khi có tổn thất xảy ra, họ đã có được những hiểu biết cụ thể về thủ tục bồi thường như: phải làm ngay những công việc gì, phải nộp ngay giấy tờ gì, phải gặp ai để giải quyết…và từ đó họ sẽ có thể thực hiện những thủ tục này một cách dễ dàng hơn. 2.3. Đề phòng và hạn chế tổn thất Để tối ưu hoá hiệu quả của hoạt động bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt, về hoạt động đề phòng và hạn chế tổn thất, các doanh nghiệp bảo hiểm nên: Nâng cao nhận thức của khách hàng về tầm quan trọng của đề phòng và hạn chế tổn thất thông qua việc tuyên truyền một cách thường xuyên cho họ bằng nhiều cách, cả trực tiếp lẫn gián tiếp. Từ đó giúp họ hiểu được bảo hiểm chỉ là một biện pháp giải quyết hậu quả của tổn thất chứ không phải là một biện pháp phòng chống tổn thất. Khách hàng khi đã nhận thức được điều đó sẽ không dồn hết trách nhiệm cho công ty bảo hiểm nữa mà bản thân họ cũng có những trách nhiệm trong việc bố trí và quản lý tốt tài sản của mình, có kế hoạch phòng ngừa rủi ro một cách hiệu quả, thường xuyên tự bảo dưỡng nhà cửa, trang thiết bị PCCC… Xác định một tỷ lệ chi hợp lý cho đề phòng hạn chế tổn thất. Trong điều kiện cạnh tranh như hiện nay, việc chi đề phòng, hạn chế tổn thất sẽ có tác dụng rất quan trọng trong việc khuyến khích, giữ chân khách hàng. Chính vì vậy, các công ty bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt cần phải xác định rõ tỷ lệ được phép chi cho bồi thường, hạn chế tổn thất. Tăng cường mối quan hệ hợp tác với phòng cảnh sát PCCC, các cấp chính quyền và các ban ngành để kiểm tra tình hình thực hiện công tác PCCC ở các đơn vị tham gia bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt. Tiếp tục trích quỹ chi cho đề phòng hạn chế tổn thất của doanh nghiệp để tài trợ cho cảnh sát PCCC cũng như các đơn vị tham gia bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt trong việc trang bị phương tiện PCCC hiện đại hơn. 2.4. Xác định phạm vi bảo hiểm và phí bảo hiểm 2.4.1. Xác định phạm vi bảo hiểm Trong điều kiện cạnh tranh như hiện nay, doanh nghiệp bảo hiểm nào cung cấp một sản phẩm bảo hiểm càng có phạm vi bảo hiểm rộng thì mức độ cạnh tranh của doanh nghiệp đó càng cao. Tuy nhiên, không phải vì thế mà doanh nghiệp bảo hiểm phải đua nhau để chấp nhận mọi điều kiện mà khách hàng đặt ra, kể cả những điều kiện không có lợi cho mình. Doanh nghiệp bảo hiểm nên hạn chế những đối tượng bảo hiểm không đủ tiêu chuẩn về chất lượng, về trang thiết bị PCCC… Các doanh nghiệp bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt cũng nên kiên quyết từ chối những đơn bảo hiểm theo kiểu chọn điểm, tức người được bảo hiểm chỉ mua bảo hiểm cho những phân xưởng, công đoạn sản xuất có nhiều rủi ro nhất. 2.4.2. Xác định phí bảo hiểm Phí bảo hiểm chính là giá cả của bảo hiểm. Giá càng thấp thì sản phẩm bảo hiểm càng hấp dẫn đối với khách hàng. Nhưng giá quá thấp thì sẽ không có lợi cho doanh nghiệp bảo hiểm. Vấn đề là phải làm thế nào để xác định được mức giá tối ưu cho cả người bảo hiểm và người được bảo hiểm. Khi đưa ra mức phí, doanh nghiệp bảo hiểm phải căn cứ vào tỷ lệ phí của các đối thủ cạnh tranh cũng như phải bám sát vào sự biến động của tình hình rủi ro, tỷ lệ lạm phát, thiểu phát, tỷ giá hối đoái… để điều chỉnh cho phù hợp. Về lâu dài, các nhà bảo hiểm nên tìm cách hạ mức phí xuống, đặc biệt là hạ phí cho các khu nhà mới xây dựng hoặc những khách hàng thường xuyên, những khách hàng lớn có quan hệ lâu dài với doanh nghiệp. 2.5. Hoạt động tái bảo hiểm Khi tái bảo hiểm ra nước ngoài, các công ty bảo hiểm nước ta nên tìm hiểu cặn kẽ thông tin về khả năng tài chính, vốn, quỹ dự trữ bồi thường của các công ty tái bảo hiểm mà mình định tái trong từng giai đoạn cụ thể. Nếu không có đủ khả năng để tự mình đánh giá những tiêu chí này thì các công ty nước ta nên tham khảo bảng xếp hạng tài chính của công ty bảo hiểm và tái bảo hiểm Standard & Poor được công bố hàng năm trước khi ký kết hợp đồng bảo hiểm và tái bảo hiểm. Công ty bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt Việt Nam, đặc biệt các công ty có quy mô nhỏ cũng nên tái bảo hiểm thông qua môi giới nếu thấy việc sử dụng môi giới mang lại hiệu quả cao hơn so với đàm phán trực tiếp. Bởi vì môi giới cũng có những ưu điểm như: có điều kiện tập trung những cán bộ chuyên môn giỏi có khả năng giao dịch, thu xếp tái bảo hiểm tương đối tốt, trình độ quản lý bằng hệ thống thông tin khá cao… Khi sử dụng môi giới thì nên sử dụng các công ty môi giới có uy tín, danh tiếng trên thị trường. Công ty môi giới đó phải vừa có mạng lưới thu xếp rộng, lại phải đảm bảo an toàn về tài chính. 2.6. Hoạt động phòng chống trục lợi bảo hiểm Doanh nghiệp bảo hiểm phải tổ chức các đầu mối quản lý, theo dõi và kiểm tra chặt chẽ các cán bộ, đại lý và các cộng tác viên khai thác bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt để phòng trường hợp có sự móc nối giữa những người này với những kẻ muốn dùng bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt để trục lợi. Một mặt, phải nhắc nhở họ thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mặt khác phải đề ra những cơ chế quản lý phù hợp như: Phí bảo hiểm thu được trong ngày, cuối ngày phải nộp; giấy chứng nhận bảo hiểm cấp trong ngày phải thông báo cho doanh nghiệp bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt vào cuối ngày; khi khách hàng tham gia bảo hiểm với số tiền lớn là bao nhiêu thì phải báo cáo để doanh nghiệp bảo hiểm kiểm tra, theo dõi… Quá trình giám định và bồi thường, chi trả tiền bảo hiểm phải thực hiện đúng nguyên tắc và trình tự mỗi khâu. Nếu thấy nghi ngờ một loại giấy tờ nào đó hoặc không rõ về thời gian, không gian trong các vụ tổn thất thì cần phải xác minh lại ngay. Nếu thấy cần thiết phải báo ngay để doanh nghiệp bảo hiểm tổ chức điều tra, xác minh cho rõ. Ngoài phương án điều tra độc lập, cần tranh thủ sự giúp đỡ của các bên có liên quan như: Chính quyền địa phương, công an, những người làm chứng… Nếu phát hiện đã có gian lận thì cần phải theo dõi chặt chẽ đối tượng, tổ chức điều tra xác minh chính xác và nhờ các cơ quan chức năng can thiệp. Quan tâm giáo dục ý thức trách nhiệm, tính kỷ luật trong tất cả các khâu công việc do cán bộ nhân viên, kể cả đại lý và cộng tác viên trong doanh nghiệp. Bên cạnh đó phải có chính sách đãi ngộ thoả đáng đối với họ, thưởng phạt phải hết sức nghiêm túc và có nền nếp. Tuy vậy, việc theo dõi phòng chống trục lợi bảo hiểm không được làm ảnh hưởng đến các công việc khác trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt, nhất là không được chậm trễ trong quá trình thanh toán tiền bảo hiểm cho khách hàng, bởi vì tuyệt đại đa số khách hàng là những người trung thực. 2.7. Về hệ thống thông tin Có thể khẳng định rẳng hệ thống thông tin ở nước ta vẫn còn nhiều bất cập, chưa đủ đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt. Giải pháp khắc phục cho những bất cập đó là nghiên cứu một cách nghiêm túc và đầu tư toàn diện về việc tổ chức hệ thống thông tin thống kê: tiến hành các bước khảo sát kỹ lưỡng về nội dung, tính chất, mục đích sử dụng của cơ sở dữ liệu đầu vào, đầu tư phương tiện phục vụ thu thập thông tin cũng như xây dựng phần mềm tin học hỗ trợ thống kê, đào tạo nâng cao kiến thức về thu thập và phân tích các thông tin phục vụ quản lý, nghiên cứu việc tổ chức các kênh thông tin hợp lý và hiệu quả. Từ đó mới có thể tạo ra một hệ thống thông tin đồng bộ và thông suốt, cung cấp thông tin nhanh chóng và chính xác phục vụ kịp thời cho việc ra quyết định của ban lãnh đạo các doanh nghiệp bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt. 2.8. Đào tạo cán bộ bảo hiểm Có thể nói chất lượng cán bộ bảo hiểm tại các công ty bảo hiểm Việt Nam đã được chú trọng nâng cao trong những năm gần đây. Tuy nhiên, do nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt là một nghiệp vụ tương đối mới mẻ và phức tạp nên đòi hỏi các cán bộ làm nghiệp vụ này phải có kiến thức chuyên môn vững vàng và toàn diện. Ngoài ra do nghiệp vụ này cũng là một nghiệp vụ có nhiều mối quan hệ giao dịch với khách hàng nước ngoài nên các cán bộ bảo hiểm còn phải có thêm những kiến thức về tin học, ngoại ngữ cũng như khả năng nắm bắt thông tin thị trường một cách nhạy bén để xử lý các tình huống phát sinh một cách chính xác. Việc đào tạo cán bộ bảo hiểm cho nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt, vì thế, phải là việc làm thường xuyên và liên tục đối với mỗi doanh nghiệp bảo hiểm. Một trong những việc mà các công ty bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt cần làm là chú ý phát hiện và nhìn nhận đúng năng lực và trình độ của từng cán bộ mà có chính sách đãi ngộ, có sự ưu tiên đích đáng. Như thế mới giữ được cán bộ có trình độ nghiệp vụ cao, vì nếu không thì sẽ có những doanh nghiệp bảo hiểm khác sẵn sàng đưa ra những chính sách đãi ngộ ưu ái hơn để thu hút họ. Còn đối với những cán bộ chưa đáp ứng được yêu cầu của thời đại mới thì các doanh nghiệp bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt nên tổ chức các lớp bồi dưỡng về nghiệp vụ qua việc đào tạo và đào tạo lại tại các trường đại học trong nước và lựa chọn một số cán bộ có năng lực để đi đào tạo thêm ở nước ngoài. Thêm vào đó, các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam cũng cần tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ của mình tham gia vào các hội thảo, các khoá học ở nước ngoài về chuyên ngành này. Tuy nhiên, do chi phí đào tạo và đào tạo lại là rất tốn kém nên để tối thiểu hoá khoản chi phí này, các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam nên lựa chọn tuyển dụng những sinh viên mới tốt nghiệp từ các trường đại học trong nước bởi vì những sinh viên này là những người được đào tạo kỹ lưỡng tại các trường đại học, đồng thời họ cũng có đủ sức khoẻ, sự năng nổ, nhiệt tình, khả năng nắm bắt những kiến thức mới một cách nhanh chóng cũng như khả năng phản ứng linh hoạt trước mọi tình huống. Ngoài việc đào tạo về kiến thức chuyên môn, các doanh nghiệp bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt còn phải tăng cường đào tạo cho cán bộ của mình về phong cách phục vụ cũng như nâng cao đạo đức nghề nghiệp nhằm xoá bỏ hoàn toàn các hiện tượng tiêu cực như: ăn chặn tiền bảo hiểm của khách hàng, đồng loã với khách hàng để trục lợi bảo hiểm, vì lợi ích của bản thân mà tư vấn bất lợi cho khách hàng…, từng bước tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ, đại lý, kiện toàn bộ máy tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp để có thể cung cấp cho thị trường dịch vụ bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt với chất lượng tốt nhất, đồng thời nâng cao uy tín của ngành trong công chúng. 3. CÁC GIẢI PHÁP KHÁC 3.1. Giải pháp về phía khách hàng Thứ nhất, khách hàng cần phải tìm hiểu để tự nâng cao nhận thức của mình về tác dụng và vai trò của bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt đối với bản thân. Trên thực tế, ở Việt Nam, nhận thức của người dân về bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt là chưa cao. ở một số nơi, người dân thậm chí còn có những nhận thức lệch lạc về bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt. Ví dụ, một số ngư dân Việt Nam còn cho rằng người bán bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt mang đến cho họ những điềm xấu, như là "trù ẻo" người được bảo hiểm, nhất là sau đó, họ không may gặp phải rủi ro tai nạn tổn thất. Còn nếu những ngư dân đã mua bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt cho thuyền của họ mà thoát được khi tai nạn xảy ra thì lại coi giấy chứng nhận bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt là một lá bùa đem lại cho họ nhiều may mắn chứ không phải là một hợp đồng để được tài trợ sau sự cố rủi ro tổn thất. Những nhận thức sai lệch về bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt như vậy đã gây rất nhiều khó khăn cho cán bộ bảo hiểm khi đi làm công tác. Do đó, nâng cao nhận thức của người dân về tác dụng và vai trò của bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt là một việc làm không thể thiếu đối với cả các doanh nghiệp bảo hiểm cũng như bản thân mỗi người dân Việt Nam. Mỗi khách hàng cần tích cực phối hợp với các công ty bảo hiểm trong việc bảo vệ tài sản của mình cũng như hạn chế tổn thất khi có sự cố rủi ro xảy ra chứ không được trút hết trách nhiệm của mình lên người bảo hiểm. Luôn luôn trau dồi đạo đức và tư cách của bản thân trong khi thực hiện hợp đồng bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt, tránh việc tự coi mình là "thượng đế" và gây khó dễ cho các doanh nghiệp bảo hiểm hoặc lợi dụng các doanh nghiệp bảo hiểm này để trục lợi cho bản thân. Ở Việt Nam, tình trạng này xảy ra còn chưa nhiều, nhưng không phải là không có, và thường là xảy ra đối với một số khách hàng, đặc biệt là các khách hàng là các doanh nghiệp Nhật Bản, những người vốn quen được "nuông chiều" quá đáng bởi các doanh nghiệp bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt Nhật Bản. Sau đây là một ví dụ: Khi mua bảo hiểm, có một số khách hàng Nhật không muốn khai báo và nộp cho công ty bảo hiểm danh sách các hạng mục tài sản bảo hiểm một cách cụ thể, rõ ràng và dứt khoát. Làm như thế có 2 cái lợi cho họ: Một là họ tự ý định đoạt tài sản nào với giá trị bao nhiêu để tham gia bảo hiểm với mức phí bảo hiểm phải nộp tối thiểu nếu có thể. Hai là khi sự cố bảo hiểm xảy ra, họ có thể dễ dàng đưa vào danh sách các tài sản bị tổn thất mà không khai báo trước đây, đồng thời nâng giá các tài sản bị thiệt hại trong danh sách đã kê khai thấp, nhằm khiếu nại bồi thường bảo hiểm với số tiền cao hơn. Còn nếu phải quy đổi từ một loại tiền này sang một loại tiền khác khi thanh toán bảo hiểm thì họ lại áp dụng những cách như: Xin nộp phí bảo hiểm theo một tỷ giá thấp cố định do họ đưa ra. Khi xảy ra sự cố bảo hiểm, họ khiếu nại đòi bồi thường theo tỷ giá bán ra hiện hành của một ngân hàng nào đó, nhưng công ty bảo hiểm vẫn phải khấu trừ bồi thường theo đúng tỷ giá thấp cố định do họ đưa ra lúc nộp phí bảo hiểm. Đồng thời, có một số khách hàng Nhật khi đã nhận xong tiền bồi thường đầy đủ giá trị cho các tài sản bị thiệt hại, họ không muốn hoàn trả cho công ty bảo hiểm các tài sản đó ( mặc dù công ty bảo hiểm có yêu cầu theo đúng quy định và tập quán quốc tế). Công ty bảo hiểm đề nghị lập hội đồng giám sát chung để huỷ các tài sản đó thì họ cũng không đồng ý và nói rằng nếu không tin họ tự huỷ các tài sản đó thì họ sẽ mua bảo hiểm ở một công ty bảo hiểm khác trong thời hạn bảo hiểm sắp tới. Kinh doanh bảo hiểm với những khách hàng như vậy quả là rất khó khăn với các công ty bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt Việt Nam vốn còn rất non trẻ và chưa đủ kinh nghiệm như hiện nay. 3.2. Giải pháp về phía các nhà môi giới và các văn phòng đại diện nước ngoài Hiện nay trên thị trường Việt Nam đang ngày càng xuất hiện cũng như nhiều nhà môi giới và các văn phòng đại diện nước ngoài tham gia cung ứng dịch bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt. Vì vậy, yếu tố cạnh tranh ngày càng trở nên khốc liệt là điều không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, muốn hoạt động được lâu dài và có hiệu quả trên thị trường bảo hiểm Việt Nam thì các nhà môi giới và văn phòng đại diện của nước ngoài này phải thực hiện được những việc như sau: Thứ nhất, các nhà môi giới và văn phòng đại diện nước ngoài có khai thác nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt phải đảm bảo tuân thủ nghiêm ngặt quy định của Chính phủ Việt Nam trong lĩnh vực này. Thực tế trong những năm qua đã xảy ra hiện tượng có một số công ty môi giới và văn phòng đại diện nước ngoài đã cố tình vi phạm pháp luật Việt Nam để giành được những lợi thế trong cạnh tranh đối với các công ty bảo hiểm Việt Nam trong việc thu hút khách hàng. Tuy nhiên, về lâu dài thì những công ty ấy sẽ không thể tồn tại và phát triển được. Những công ty thực sự muốn làm ăn lâu dài ở Việt Nam thì phải hiểu rằng quy định pháp luật luôn là một bộ phận cơ bản của ngành dịch vụ tài chính này và rằng nếu tuân thủ theo đúng pháp luật nơi đây thì sẽ tạo được lòng tin nơi khách hàng cũng như các nhà đầu tư khác. Và nếu muốn có được lợi thế so với các công ty khác thì họ không những phải tuân thủ pháp luật Việt Nam mà còn phải biết tiến tới hoà nhập các luật lệ, quy định vào văn hoá của công ty. Thứ hai, các nhà môi giới và các văn phòng đại diện của nước ngoài cũng cần phải phối hợp chặt chẽ, tạo mối quan hệ thân thiết với các công ty bảo hiểm Việt Nam để trở thành những đối tác tin cậy của nhau, cùng hợp tác để thu hút được khách hàng tham gia bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt. Thị trường bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt đang ngày càng mang tính cạnh tranh gay gắt hơn. Điều đó đã khiến cho hoạt động của các công ty môi giới bảo hiểm và văn phòng đại diện nước ngoài ngày càng gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là khi các công ty này phải đối đầu với các doanh nghiệp bảo hiểm vốn đã có mặt lâu đời tại Việt Nam và có nhiều ưu thế hơn do đã hiểu rõ được đặc điểm của khách hàng bảo hiểm tại Việt Nam cũng như nhu cầu của họ. Chính vì thế, hợp tác là biện pháp hiệu quả nhất để các công ty môi giới và các văn phòng đại diện nước ngoài có thể áp dụng để tránh những đụng độ không có lợi cho các bên, đồng thời thông qua hợp tác, các bên đều có thể sử dụng tốt nhất những lợi thế của mình để hoạt động có hiệu quả hơn. Tuy vậy, sự hợp tác ở đây không có nghĩa là liên minh để bảo vệ sự thống trị trên thị trường của các công ty, mà là hợp tác trên tinh thần cạnh tranh một cách công bằng, bình đẳng và minh bạch. 3.3. Giải pháp về phía các ngân hàng thương mại Như đã phân tích ở phần II của chương này, hoạt động ngân hàng tại các nước phát triển luôn song hành cùng hoạt động bảo hiểm. Giữa hai loại hình này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, vừa hợp tác, vừa cạnh tranh. Hoạt động ngân hàng và bảo hiểm càng phát triển thì cạnh tranh càng gay gắt và hợp tác càng chặt chẽ. Để thúc đẩy và phát triển mối quan hệ hợp tác và khai thác mặt tích cực của cạnh tranh giữa các công ty bảo hiểm nói chung, công ty bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt nói riêng và các ngân hàng thương mại thì các ngân hàng cần thực hiện những biện pháp sau: Các ngân hàng thương mại cần tạo điều kiện cho các công ty bảo hiểm thâm nhập sâu hơn vào hoạt động của mình và ngược lại, bản thân các ngân hàng cũng cần thâm nhập sâu hơn vào hoạt động của các công ty bảo hiểm, ví dụ như: để cho các công ty bảo hiểm mua cổ phần tại các ngân hàng thương mại, mua trái phiếu ngân hàng… Đồng thời, giữa công ty bảo hiểm và ngân hàng có thể thành lập các liên doanh về bảo hiểm. Mở rộng việc các ngân hàng thương mại làm đại lý cho các doanh nghiệp bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt. Đổi lại các công ty bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt sẽ mở tài khoản và gửi tiền tại các ngân hàng thương mại đó. Đặc biệt là khi các ngân hàng môi giới cho các công ty bảo hiểm những hợp đồng bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt đối với các dự án đầu tư có giá trị lớn. Đưa nghiệp vụ bảo hiểm thành một môn học trong chuyên ngành đào tạo về ngân hàng. Các ngân hàng thương mại nên mở các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ bảo hiểm nói chung cũng như nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt nói riêng cho đội ngũ cán bộ có liên quan của mình, tạo cơ hội đa dạng nghiệp vụ kinh doanh… KẾT LUẬN Có thể nói rằng từ khi được triển khai cho đến nay, nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt đã là một công cụ hữu hiệu đảm bảo an toàn vốn sản xuất kinh doanh, một tấm lá chắn về tài chính đối với mọi doanh nghiệp. Tuy nhiên, do đây là một nghiệp vụ khá mới mẻ ở Việt Nam và do vẫn còn tồn tại những khó khăn khi Việt Nam mới chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế tự chủ trong kinh doanh nên nhiều đơn vị còn chưa thích ứng kịp. Thêm vào đó, tư tưởng trông chờ ỷ lại vào Nhà nước vẫn còn sót lại từ thời bao cấp nên việc tham gia bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt vẫn còn chưa thành tập quán, nhiều cơ sở sản xuất quản lý một số lượng tài sản lớn, dễ xảy ra cháy nổ nhưng vẫn không tính đến việc tham gia bảo hiểm này cho tài sản của mình. Tiềm năng đối với nghiệp vụ bảo hiểm này ở Việt Nam vẫn còn rất lớn. Để khai thác được tiềm năng đó, đặc biệt là khi thị trường bảo hiểm đang có sự cạnh tranh gay gắt như hiện nay thì các công ty bảo hiểm Việt Nam cần phải luôn luôn chú ý tăng cường hoạt động Marketing bảo hiểm cũng như hoàn thiện các mặt nghiệp vụ cho phù hợp với tình hình cụ thể để đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Thông qua bài luận này, em đã chỉ ra được một số mặt được và còn chưa được của ngành bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt trong nước và đề xuất ra một số giải pháp nhằm đẩy mạnh sự phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm này ở Việt Nam. Hy vọng rằng, trong tương lai, với sự đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, sự hội nhập của kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế Thế giới, bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt sẽ phát triển mạnh mẽ và sẽ góp phần đáng kể vào công cuộc phát triển kinh tế của đất nước. TÀI LIỆU THAM KHẢO Luật của Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam số 24/2000/QH10 ngày 09/12/2000 về kinh doanh bảo hiểm Nghị định của Chính phủ số 42/2001/NĐ - CP ngày 01/8/2001 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm. Quyết định của Bộ trưởng Bộ Tài chính số 142 - TCQĐ ngày 2/5/1991 về việc ban hành Quy tắc và biểu phí bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt Thông tư của Bộ Tài chính số 02 - TC/TCNH ngày 4/1/1996 hướng dẫn sửa đổi, bổ sung việc thực hiện chế độ hoa hồng bảo hiểm Giáo trình Bảo hiểm trong kinh doanh - PGS.TS Hoàng Văn Châu (chủ biên) - TS Vũ Sỹ Tuấn - TS Nguyễn Như Tiến - Nhà Xuất Bản Khoa học và Kỹ thuật - 2003 Giáo trình Quản trị kinh doanh bảo hiểm - Trường Đại học Kinh tế quốc dân - Chủ biên: TS. Nguyễn Văn Định - Nhà xuất bản thống kê - 2003 Giáo trình Marketing trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm - Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam - Nhà xuất bản Thống kê - 2003 Tự do hoá dịch vụ tài chính trong khuôn khổ WTO - kinh nghiệm các nước - Viện nghiên cứu tài chính - Nhà xuất bản Tài chính - 2001 Một số điều cần biết về pháp lý trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm - GS.TS Trương Mộc Lâm, Lưu Nguyên Khánh - Nhà xuất bản Thống kê - 2001 Báo cáo thường niên các năm 2001, 2002 của Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam - Bảo Việt Báo cáo thường niên các năm 2001, 2002 của Công ty tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam - Vinare Tạp chí Thông tin thị trường bảo hiểm - tái bảo hiểm Việt Nam - Vinare số 3(8/2003); 1(3/2003); 2(8/2003). Tạp chí Thị trường bảo hiểm - Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam - Bảo Việt các số năm 2003 Tạp chí Tài chính số 6/2003; số 1+2 (459 - 460)/2003 Tạp chí Bảo hiểm số 3(9/2003); số 1/2002; số 2(6/2002); số 3(9/2002) Bản tin bảo hiểm số 1,2,3 (2003) - Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam - Bảo Việt. Tạp chí Ngân hàng số5/2003 Tạp chí Kinh tế Việt Nam - Thế giới 2000 - 2001 Tạp chí Thông tin tài chính số 1+2(1/2003) Thông tin lấy từ Internet Tạp chí Sigma, Thuỵ Sỹ, bài "Some facts about Special Perils Worldwide", Robert Hopkins, tháng 2/2003. PHỤ LỤC MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB7843o hi7875m ho7843 ho7841n v r7911i ro 2737863c bi7879t tamp7841.doc
Tài liệu liên quan