Chưa có phân tích khảng trrong tương
tự ở trong nước để so sánh nhưng từ quá
trình phát triển của ngành hộ sinh và đào
tạo hộ sinh, các khoảng trống đã phát hiện
trong nghiên cứu này là những cơ sở ban
đầu quan trọng cho việc xây dựng và thực
hiện chuyển giao các khoá đào tạo có chất
lượng từ dự án SafeMa để tăng cường
năng lực thực hành tốt nhất cho hộ sinh
phù hợp với mỗi quốc gia.
Mặc dù một số khoảng trống đã được
xác định thông qua các dữ liệu định lượng
và định tính thu thập được, vẫn còn một số
khoảng trống mà nhóm nghiên cứu chưa
thể đưa ra kết luận do không đủ dữ liệu
hoặc các dữ liệu thu thập được đối lập
nhau giữa các nhóm liên quan. Đây có thể
một phần là do hạn chế của các phương
pháp nghiên cứu như chọn mẫu thuận
tiện, khả năng cao về sai số trả lời nhất
là ở nhóm đối tượng sinh viên và bà mẹ
và/ hoặc do cách phát và thu thập phiếu
không thống nhất giữa các trường thành
viên. Đây là những thiếu sót khó tránh
khỏi nhất là trong điều kiện hạn chế về
thời gian. Hơn nữa do có nhiều người đã
không tham gia thảo luận nhóm vào phút
chót nên có thể chúng tôi đã bỏ qua một
vài khoảng trống khác bởi vì càng có nhiều
người tham gia thảo luận thì càng có nhiều
ý kiến, thông tin giúp nhóm nghiên cứu xác
định các khoảng trống.
Nghiên cứu được thực hiện với sự tài
trợ kinh phí của Ủy ban châu Âu thông qua
sự điều hành của Erasmus+ để triển khai
thực hiện dự án SafeMa.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 5 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khoảng trống trong đào tạo hộ sinh tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
90
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 01
Luxembourg: Publications Office of the Eu-
ropean Union
5. Mackay BJ, Anderson J, Harding
T. Mobile technology in clinical teaching.
Nurse Educ Pract 2017;22:1-6.
6. Park H, Lee E. Self-reported eHealth
literacy among undergraduate nursing stu-
dents in South Korea: a pilot study. Nurse
Educ Today. 2015; 35(2):408–413.
7. Raman J. Mobile technology in
nursing education: where do we go from
here? A review of the literature. Nurse Educ
Today 2015;35(5):663-72.
8. Risling T. Educating the nurses of
2025: technology trends of the next de-
cade. Nurse Educ Pract 2017;22:89-92.
9. S, Andrews T. Mobile technology and
its use in clinical nursing education: a liter-
ature review. J Nurs Educ 2015;54(3):137-
44.
10. Strandell-Laine C, Stolt M, Lei-
no-Kilpi H, Saarikoski M. Use of mobile de-
vices in nursing student-nurse teacher
11. S. Sharma, N. Oli, B. Thapa (2019).
Electronic health–literacy skills among
nursing students. Advances in Medical Ed-
ucation and Practice,10, 527–532.
12. Tse Yan Li et.al (2015). Learning
Clinical Procedures Through Internet Dig-
ital Objects: Experience of Undergraduate
Students Across Clinical Faculties. JMIR
Medical Education, 1(1).
Người chịu trách nhiệm: Trần Thị Việt Hà
Email: hoangyenndun@gmail.com
Ngày phản biện: 24/02/2020
Ngày duyệt bài: 02/3/2020
Ngày xuất bản: 16/3/2020
KHOẢNG TRỐNG TRONG ĐÀO TẠO HỘ SINH TẠI VIỆT NAM
Trần Thị Việt Hà1, Bùi Thị Khánh Thuận1, Mai Thị Thanh Thu1, Nguyễn Thị Huế1
Lê Thị Ngọc Anh2, Nguyễn Thanh Hương2, Lưu Tuyết Minh2
Hoàng Thị Ngọc Trâm3, Nguyễn Thị Phương Lan3
Karl Puchner4, Antonia Manousaki4
1Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định,
2Trường Đại học Y Hà Nội,
3Đại học Thái Nguyên,
4Đại học Quốc gia Kapodistrian Athens, Hy Lạp
TÓM TẮT
Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm xác
định các khoảng trống trong đào tạo hộ sinh
tại Việt Nam để từ đó thiết kế các khóa học
hộ sinh nâng cao có chất lượng dựa trên
nhu cầu và phù hợp với bối cảnh từng quốc
gia. Đối tượng và phương pháp nghiên
cứu: Nghiên cứu được thực hiện trong 2
giai đoạn: giai đoạn chuẩn bị và giai đoạn
thực hiện. Trong giai đoạn chuẩn bị, nhóm
nghiên cứu sử dụng phương pháp thu thập
dữ liệu thứ cấp để xác định các lĩnh vực có
thể là khoảng trống tiềm năng. Trong giai
đoạn thực hiện các phương pháp thu thập
dữ liệu định lượng và định tính thông qua
phiếu khảo sát, phỏng vấn bán cấu trúc
được thực hiện trên các nhóm đối tượng
hộ sinh đang làm việc tại bệnh viện, giảng
viên, sinh viên hộ sinh, bác sĩ sản khoa, các
bà mẹ cán bộ Bộ Y tế. Phương pháp chọn
mẫu thuận tiện. Các dữ liệu được so sánh
91
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 01
đối chiếu để tìm ra các khoảng trống. Các
phần mềm Excel và STATA 12.0 được sử
dụng để phân tích dữ liệu. Kết quả: Phát
hiện các khoảng trống trong đào tạo hộ sinh
tại Việt Nam thuộc 4 lĩnh vực: (1) Khoảng
trống giữa lý thuyết và thực hành, áp dụng
kiến thức vào thực tế; (2) Thiếu kiến thức
đầy đủ về hệ thống y tế và xác định các
yếu tố xã hội ảnh hưởng tới sức khỏe; (3)
Kỹ năng giao tiếp; (4) Nhận thức về nghiên
cứu khoa học, các kỹ năng học tập suốt đời,
thực hành dựa trên bằng chứng. Kết luận:
Thông qua đối sánh các kết quả của giai
đoạn chuẩn bị và giai đoạn thực hiện, đã
xác định được các khoảng trống khác nhau
trong 4 lĩnh vực trong đào tạo hộ sinh. Các
kết quả từ nghiên cứu này là nền tảng để
phát triển các khóa học hộ sinh nâng cao
trong khuôn khổ dự án SafeMa góp phần
giải quyết nhu cầu cấp thiết trong đào tạo
hộ sinh tại Việt Nam.
Từ khóa: khoảng trống, đào tạo hộ sinh,
Việt Nam
EXISTING GAPS IN MIDWIFERY EDUCATION IN VIETNAM
ABSTRACT
Objective: This study aimed to identify
gaps in university midwifery education
program in Vietnam to facilitate the
development of tailored, high quality,
need -based context -specific advanced
midwifery courses. Method: The study was
conducted in two consecutive phases: the
preparatory and the implementation phase.
In the preparatory phase, the potential
gaps were identified through secondary
research. In the implementation phase,
feasible gap analysis tools (questionnaires,
semi-structured interview) with midwife
students, practicing midwife, lecturers,
obstetricians, pregnant women, and
health policy officials. Convenience
sampling was applied. The results of the
implementation phase were evaluated,
summarized and contrasted against the
findings of the preparation phase to find
out the gaps. Excel and STATA 12.0 were
used to analyse data. Results: Existing
gaps in university midwifery education
program in Vietnam fell into the following 4
domains: (1) Knowledge – translation gap,
theory – practice gap; (2) Lack of thorough
knowledge of the respective health system
and the importance of social determinants
of health; (3) Communication skills; (4)
Research awareness, lifelong skills ,
evidence-based practice. Conclusion:
the results of the preparatory against the
implementation phase revealed a variety of
different gaps in all 4 educational domains.
These evidence of this study will facilitate
the development of the SafeMa advanced
midwifery course addressing the most
pressing needs in midwifery education and
practice in Vietnam.
Keywords: gap; midwifery education,
Vietnam
Acknowledgment: This study was
funded by the Erasmus+ Program of the
European Union to implement the SafeMa
project: Education Hubs for Excellence in
Midwifery/SafeMa. Data analysis of this
study received technical assistance by
Greek partners.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Dự án SafeMa với mục tiêu cuối cùng là
nâng cao năng lực các trường thành viên
trong đào tạo hộ sinh, nhằm chuyển giao các
thực hành tốt nhất để giải quyết các vấn đề
hộ sinh tại mỗi quốc gia thông qua việc xây
dựng các khóa học hộ sinh nâng cao cho
các đối tượng là sinh viên hộ sinh, các hộ
sinh đang làm việc tại các bệnh viện và các
giảng viên. Tại Việt Nam có 3 trường tham
gia dự án với vai trò là các trường thành
92
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 01
viên gồm: Trường Đại học Y Hà Nội, Đại
học Thái Nguyên và Trường Đại học Điều
dưỡng Nam Định. Do đó, cần thực hiện một
phân tích khoảng trống đầy đủ làm cơ sở
để có thể xây dựng các khóa học có chất
lượng cao, phù hợp với nhu cầu, hoàn cảnh
mỗi quốc gia. Có rất nhiều nghiên cứu chỉ ra
các khoảng trống trong đào tạo hộ sinh như
những khó khăn để áp dụng những thay đổi
về chương trình đào tạo vào thực tế giảng
dạy [4,11]; Khó khăn đối với sinh viên trong
áp dụng kiến thức lý thuyết vào thực tế lâm
sàng [3, 8, 6, 9]; Kỹ năng lâm sàng và năng
lực cốt lõi còn yếu kém [1,14]. Tại Việt Nam
kỹ năng tư vấn nuôi con bằng sữa mẹ của
hộ sinh còn kém [7], tỉ lệ cắt tầng sinh môn
cao [13]. Đào tạo kỹ năng giao tiếp trong
các tình huống lâm sàng nhạy cảm là cực
kỳ cấp bách [12]. Bressan [2] cho rằng mặc
dù thực hành dựa trên bằng chứng đóng vai
trò quan trọng trong ngành khoa học sức
khỏe, thiếu năng lực tạo ra các bằng chứng
cũng như khả năng hiểu và đánh giá các
nghiên cứu vẫn còn phổ biến ở các nhân
viên y tế đặc biệt là điều dưỡng và hộ sinh.
Một nghiên cứu tại Việt Nam chỉ ra rằng các
hộ sinh không hiểu và sử dụng các kết quả
nghiên cứu trong thực hành hàng ngày mà
phụ thuộc vào các hướng dẫn không chính
thống [10].
Tại Việt Nam, theo Báo cáo đánh giá kết
quả 5 năm thực hiện Chiến lược dân số-
Sức khỏe sinh sản Việt Nam giai đoạn 2011-
2020 của Viện chiến lược và chính sách Y
tế, nguồn nhân lực làm công tác chăm sóc
sức khỏe sinh sản như sau: Trung bình mỗi
bệnh viện tuyến huyện có 1,5 bác sỹ sản,
0,7 bác sỹ nhi và 3,3 bác sỹ đa khoa; Trung
bình mỗi trung tâm y tế huyện hiện có gần 6
cán bộ chuyên môn đang làm việc tại khoa/
đội chăm sóc sức khoẻ sinh sản. Tại tuyến
xã, toàn quốc có 7.695 bác sỹ làm việc tại
tuyến xã, 599 nữ hộ sinh cao đẳng, đại học,
15.299 y sỹ sản nhi và hộ sinh trung học.
Số xã có bác sỹ trên toàn quốc là 7103 xã
(66,3%), trong khi số xã có hộ sinh hoặc y
sỹ sản nhi là 10324 (98,4%). Tỷ lệ xã có hộ
sinh trung học hoặc y sỹ sản nhi là 92,1%. Tỷ
suất tử vong trẻ dưới 5 tuổi đã giảm đáng kể
từ năm 2011-2015, còn 22,12%; có 17,8%
số bà mẹ mang thai được sàng lọc trước
sinh. Tỷ lệ trẻ em được sàng lọc đạt 30,6%;
tỷ số phá thai/100 trẻ đẻ sống là 16,3/100;
tỷ số tử vong bà mẹ liên quan đến thai sản
đã giảm xuống còn 58,3%. Theo báo cáo
Hộ sinh năm 2016 của UNFPA, Việt Nam là
nước có thu nhập trung bình thấp với dân
số 91,5 triệu người, trong đó phụ nữ trong
độ tuổi sinh đẻ từ 15-49 chiếm 26%. Việt
Nam đã đạt được và duy trì mức sinh thay
thế và thành công trong việc giảm nhanh tỷ
số tử vong mẹ, tỷ lệ tử vong sơ sinh, tỷ lệ
tử vong trẻ dưới 1 tuổi và tỷ lệ tử vong trẻ
em; Mạng lưới dịch vụ y tế công bao phủ
rộng khắp cả nước; Các chính sách về sức
khỏe sinh sản thể hiện trong các chiến lược,
kế hoạch hành động về dân số, sức khỏe
sinh sản, làm mẹ an toàn, sự sống còn của
trẻ em, điều dưỡng và hộ sinh. Tuy nhiên,
một số văn bản quan trọng về sức khỏe
sinh sản không nhấn mạnh vai trò đóng góp
quan trọng của Hộ sinh trong việc thực hiện
và đạt được các mục tiêu y tế về sức khỏe
bà mẹ và trẻ sơ sinh trong khi hộ sinh đáp
ứng được 85% nhu cầu dịch vụ về chăm
sóc hộ sinh thiết yếu, chỉ chuyển sản phụ
đến bác sỹ trong trường hợp có thể xảy ra
biến chứng sản khoa và việc bác sỹ hỗ trợ
các ca đẻ dẫn đến tỷ lệ can thiệp không cần
thiết gia tăng nhanh chóng (ví dụ: tỷ lệ mổ
lấy thai tăng từ 14% đến 30% thậm chí 60%
trong vòng 6 năm tại các cơ sở y tế công
lập). Theo đó, hai khuyến nghị của UNFPA
về nguồn nhân lực trong tầm nhìn Hộ sinh
Việt Nam 2030 là: Đảm bảo chất lượng đào
tạo Hộ sinh cao đẳng và các trình độ cao
hơn; Tăng cường phối hợp và củng cố các
hoạt động đào tạo và giáo dục liên tục cho
cán bộ y tế. Những mô tả trên đây cho thấy
nâng cao năng lực cho hộ sinh thật sự cần
thiết, và để làm được điều này cần có các
bằng chứng làm căn cứ cho xây dựng và
thực hiện các giải pháp can thiệp.
93
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 01
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Câu hỏi nghiên cứu:
Các khoảng trống trong đào tạo hộ sinh
tại Việt Nam là gì?
2.2. Mục tiêu
Xác định các khoảng trống trong đào tạo
hộ sinh tại Việt Nam.
2.3. Phương pháp thu thập dữ liệu
Phân tích khoảng trống kết hợp định
tính sử dụng phỏng vấn bán cấu trúc và
thảo luận nhóm trọng tâm và định lượng sử
dụng phiếu hỏi tự điền.
Giai đoạn 1 bắt đầu từ tháng 5 đến tháng
7năm 2019. Nhóm nghiên cứu sử dụng
phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp (tìm
kiếm các nghiên cứu liên quan, tìm hiểu,
đối chiếu với các bộ quy tắc ứng xử của hộ
sinh tại mỗi quốc gia, nghiên cứu chương
trình khung đào tạo hộ sinh của các trường
thành viên, so sánh và đối chiếu với chuẩn
năng lực của Liên đoàn Hộ sinh quốc tế
ICM) để tìm ra các khoảng trống tiềm năng.
Giai đoạn 2 bắt đầu từ tháng 8 đến giữa
tháng 10 năm 2019. Dựa vào các phát hiện
trong giai đoạn 1 về các khoảng trống tiềm
năng, các bảng hỏi đã được thay đổi cho
phù hợp hoàn cảnh của Việt Nam. Ngoài
ra các câu hỏi cho phần thảo luận nhóm
và phỏng vấn cũng được xây dựng. Tất cả
các đối tượng tham gia khảo sát và phỏng
vấn đều ký vào phiếu đồng thuận tham gia
nghiên cứu. Dữ liệu thu được tổng hợp lại
và phân tích.
Chọn mẫu thuận tiện, cỡ mẫu cụ thể cho
thu thập dữ liệu gồm
- 63 sinh viên hộ sinh (khảo sát/bảng hỏi)
- 50 hộ sinh viên đang trực tiếp làm lâm
sàng tại các bệnh viện: khảo sát/ bảng hỏi
và phỏng vấn 3 người.
- 113 bà mẹ: khảo sát/bảng hỏi
- 36 bác sỹ sản khoa: khảo sát/bảng hỏi
- 09 giảng viên: phỏng vấn
- 02 cán bộ từ Bộ Y tế: phỏng vấn
3. KẾT QUẢ
3.1. Giai đoạn 1
Thông qua phương pháp thu thập dữ
liệu thứ cấp (tìm kiếm các nghiên cứu liên
quan, tìm hiểu, đối chiếu với các bộ quy tắc
ứng xử của hộ sinh tại mỗi quốc gia, nghiên
cứu chương trình khung đào tạo hộ sinh
của các trường thành viên, so sánh và đối
chiếu với chuẩn năng lực của Liên đoàn Hộ
sinh quốc tế ICM), các khoảng trống tiềm
năng thuộc 4 lĩnh vực sau:
1. Khoảng trống giữa lý thuyết và thực
hành, áp dụng kiến thức vào thực tế;
2. Thiếu kiến thức đầy đủ về hệ thống y
tế và xác định các yếu tố xã hội ảnh hưởng
tới sức khỏe;
3. Kỹ năng giao tiếp;
4. Nhận thức về nghiên cứu khoa học,
các kỹ năng học tập suốt đời, thực hành
dựa trên bằng chứng
3.2. Giai đoạn 2
Kết quả phân tích đã xác định được các
khoảng trống trong đào tạo hộ sinh theo 4
lĩnh vực, dưới đây là báo cáo tóm tắt các
khoảng trống theo lĩnh vực.
• Lĩnh vực 1
Khoảng cách giữa lý thuyết và thực
hành (sự không thống nhất giữa chương
trình khung ban hành với nội dung giảng
dạy trên thực tế). Khoảng cách này được
khẳng định bởi gần như một nửa số bác sĩ
sản khoa đang tham gia giảng dạy và hầu
hết các đối tượng tham gia đều đề cập đến
vấn đề này như một khoảng trống trong
đào tạo hộ sinh.
Có một số lượng đáng kể hộ sinh và sinh
viên khi được khảo sát thừa nhận việc áp
dụng kiến thức vào thực hành cũng là một
lĩnh vực cần cải thiện. Các sinh viên cảm
thấy trong quá trình học tập không có đủ cơ
hội để áp dụng kiến thức vào thực hành. Có
40% sinh viên cảm thấy kỹ năng giải quyết
vấn đề không được cải thiện hoặc cải thiện
không đáng kể trong quá trình học. Điều này
94
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 01
cũng được phần lớn các bác sĩ sản khoa và
hầu hết các thành viên tham gia phỏng vấ
công nhận. Tư duy phân tích phản biện và
lý luận lâm sàng cũng cần được quan tâm
theo các hộ sinh và sinh viên. Cuối cùng,
các cán bộ Bộ Y tế khi được phỏng vấn cho
rằng thiếu cơ chế phản hồi cũng như sự
tham gia của sinh viên và các hộ sinh trong
quá trình nâng cao chất lượng đào tạo hộ
sinh trong nước.
Các nguồn lực giảng dạy hữu hình cũng
là một khoảng trống theo các giảng viên
tham gia thảo luận nhóm và các bác sĩ sản
khoa. Chỉ có 32% bác sĩ sản khoa nói rằng
hài lòng với cơ sở vật chất hiện tại nhưng
nhấn mạnh cần trang bị thêm các mô hình
cũng như các video mô phỏng.
• Lĩnh vực 2
Kỹ năng lâm sàng và các năng lực cốt
lõi của hộ sinh: một số giả thiết về khoảng
trống trong giai đoạn 1 đã được khẳng định
tuy nhiên một số giả thiết chưa đủ dữ liệu
để kết luận. Kết quả khảo sát các hộ sinh
và bác sĩ sản khoa chỉ ra lỗ hổng kiến thức
về hệ thống y tế (52% hộ sinh thừa nhận
có kiến thức trung bình thậm chí kém về hệ
thống y tế, 60% hộ sinh cho rằng có hiểu
biết trung bình hoặc kém về vai trò của hộ
sinh trong hệ thống y tế), khả năng xác định
và chuyển tuyến các ca sinh có nguy cơ
cao cũng như khả năng đánh giá và xác
định các yếu tố xã hội liên quan đến sức
khỏe. Có vẻ như một số năng lực cốt lõi
có trong bộ quy tắc ứng xử của hộ sinh lại
không được thể hiện trong chương trình
khung như chăm sóc giảm nhẹ, sàng lọc
ung thư phụ khoa, đánh giá sức khỏe tâm
thần và cung cấp các hỗ trợ tâm lý. Ngoài ra
các đối tượng tham gia thảo luận nhóm và
phỏng vấn nhấn mạnh cần tăng cường đào
tạo cho sinh viên về tư vấn nuôi con bằng
sữa mẹ. Vấn đề này không được ghi nhận
trong các khảo sát với sinh viên và/ hoặc bà
mẹ. Tuy nhiên, tỉ lệ nuôi con bằng sữa mẹ
ở Việt Nam còn thấp nên có thể hiểu rằng
cần quan tâm hơn nữa đến việc đào tạo
sinh viên kỹ năng tư vấn nuôi con bằng sữa
mẹ. Có 80% bác sĩ sản khoa được phỏng
vấn cho rằng các hộ sinh còn thiếu kỹ năng
tư vấn kế hoạch hóa gia đình, nhưng trong
các khảo sát và thảo luận nhóm lại không
có dữ liệu này do đó cần nghiên cứu thêm
để đi đến kết luận cuối cùng. Về khả năng
xử lý các ca sinh thường và hỗ trợ các ca
sinh khó: trong khi dữ liệu định tính chỉ ra
rằng đây là một khoảng trống lớn, dữ liệu
định lượng lại bác bỏ giả thiết này. Do đó
cần nghiên cứu thêm vấn đề này.
• Lĩnh vực 3
Thiếu kỹ năng giao tiếp: Giao tiếp về
các thông tin nhạy cảm (ví dụ tình trạng
HIV/AIDS), giao tiếp với khách hàng thuộc
các nhóm dân tộc thiểu số (38% hộ sinh
cảm thấy tự tin khi giao tiếp, 66% bác sĩ
sản khoa đánh giá kỹ năng giao tiếp của hộ
sinh với nhóm đối tượng này ở mức trung
bình thậm chí kém) và giao tiếp với người
bệnh giai đoạn cuối là một khoảng trống
nhận được sự đồng thuận cao giữa các đối
tượng. Hầu hết các bác sĩ sản khoa cho
rằng hộ sinh thiếu kỹ năng giao tiếp với các
đồng nghiệp khác. Điều này có liên quan
đến khoảng trống về kiến thức của hộ sinh
về vai trò, quyền lợi và nghĩa vụ của mình
trong hệ thống y tế. Mặc dù không có dữ
liệu về bạo lực sản khoa nhưng phân tích
khoảng trống lại chỉ ra các thực hành không
tuân theo nguyên tắc lấy người bệnh làm
trung tâm, ví dụ như chỉ có 18% các bà mẹ
được khảo sát được tự do lựa chọn người
đồng hành khi sinh và chỉ một nửa số bà
mẹ có cơ hội nói ra các vấn đề liên quan
đến quá trình sinh nở của mình. Cuối cùng,
nghiên cứu này cũng khẳng định khoảng
trống trong xác định và quản lý các ca bạo
lực giới.
• Lĩnh vực 4
Cả các dữ liệu định tính và định lượng
đều chỉ ra nhận thức về nghiên cứu khoa
học cũng như thực hành dựa trên bằng
chứng của hộ sinh và sinh viên còn khá hạn
95
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 01
chế. Chỉ 44% hộ sinh được khảo sát cho biết
có tham khảo các hướng dẫn nghề nghiệp
trong công tác lâm sàng hàng ngày, trong
khi một số lượng đáng kể hộ sinh (35%)
cho rằng những kinh nghiệm cũng như các
thực hành truyền thống ảnh hưởng tới quá
trình ra quyết định của họ. Các bằng chứng
chỉ ra khoảng trống lớn trong kỹ năng đọc
tiếng Anh cũng như kỹ năng máy tính cơ
bản. Đây là nền tảng phục vụ cho kỹ năng
học tập trọn đời vì vậy chương trình đào tạo
hộ sinh cần chú trọng nâng cao các kỹ năng
này cho sinh viên hộ sinh.
4. BÀN LUẬN
Một nghiên cứu [5] tại Cam-pu-chia
(cũng là thành viên tham gia dự án SafeMa),
đã chỉ ra các vấn đề còn tồn tại bao gồm:
vấn đề về tuân thủ các nguyên tắc vệ sinh,
kiểm soát nhiễm khuẩn, vấn đề sức khỏe
liên quan đến quyền con người của phụ nữ
và trẻ em, hộ sinh đôi khi vẫn sử dụng ngôn
ngữ thiếu tôn trọng với sản phụ, việc lựa
chọn người đồng hành trong khi sinh được
coi là gây cản trở cho các hộ sinh - khoảng
trống trong đào tạo hộ sinh xét theo cách
tiếp cận dựa trên quyền con người.
Tại Việt Nam, Hộ sinh đã được coi là một
nghề độc lập, được đào tạo và sử dụng từ
những năm 40 của thế kỷ XX với các trình
độ từ sơ cấp đến cao đẳng. Trường Đại học
Điều dưỡng Nam Định là trường đầu tiên
thực hiện chương trình đào tạo đại học hộ
sinh chính qui 4 năm khoá đầu tiên (2016-
2020). Hộ sinh ngày càng có vai trò quan
trọng trong hệ thống chăm sóc sức khỏe
bà mẹ, trẻ em, cộng đồng, với nhiệm vụ
chính là trực tiếp chăm sóc, tư vấn cho phụ
nữ trước, trong thời kỳ mang thai; trực tiếp
chăm sóc, theo dõi bà mẹ trong quá trình
chuyển dạ, chăm sóc đáp ứng nhu cầu cơ
bản và nhu cầu chăm sóc của phụ nữ, bà
mẹ; cảm thông, động viên chia sẻ với các
sản phụ để giúp họ có tâm lý cũng như có
kiến thức để sẵn sàng tham gia cuộc sinh
nở. Hộ sinh cũng là người trực tiếp theo
dõi, phát hiện những biến chứng, các dấu
hiệu bất thường để sớm báo cáo, xử lý kịp
thời; là người trực tiếp tư vấn, hướng dẫn
bà mẹ cho con bú đúng; là người thực hiện
các kỹ thuật sản khoa, chăm sóc trẻ sơ
sinh trong phạm vi chức danh nghề nghiệp
đã được quy định. Ngoài ra, Hộ sinh còn
tham gia, thực hiện các nghiên cứu khoa
học, giữ các vị trí quản lý, tham gia vào quá
trình đào tạo những nội dung liên quan đến
ngành nghề.
Chưa có phân tích khảng trrong tương
tự ở trong nước để so sánh nhưng từ quá
trình phát triển của ngành hộ sinh và đào
tạo hộ sinh, các khoảng trống đã phát hiện
trong nghiên cứu này là những cơ sở ban
đầu quan trọng cho việc xây dựng và thực
hiện chuyển giao các khoá đào tạo có chất
lượng từ dự án SafeMa để tăng cường
năng lực thực hành tốt nhất cho hộ sinh
phù hợp với mỗi quốc gia.
Mặc dù một số khoảng trống đã được
xác định thông qua các dữ liệu định lượng
và định tính thu thập được, vẫn còn một số
khoảng trống mà nhóm nghiên cứu chưa
thể đưa ra kết luận do không đủ dữ liệu
hoặc các dữ liệu thu thập được đối lập
nhau giữa các nhóm liên quan. Đây có thể
một phần là do hạn chế của các phương
pháp nghiên cứu như chọn mẫu thuận
tiện, khả năng cao về sai số trả lời nhất
là ở nhóm đối tượng sinh viên và bà mẹ
và/ hoặc do cách phát và thu thập phiếu
không thống nhất giữa các trường thành
viên. Đây là những thiếu sót khó tránh
khỏi nhất là trong điều kiện hạn chế về
thời gian. Hơn nữa do có nhiều người đã
không tham gia thảo luận nhóm vào phút
chót nên có thể chúng tôi đã bỏ qua một
vài khoảng trống khác bởi vì càng có nhiều
người tham gia thảo luận thì càng có nhiều
ý kiến, thông tin giúp nhóm nghiên cứu xác
định các khoảng trống.
Nghiên cứu được thực hiện với sự tài
trợ kinh phí của Ủy ban châu Âu thông qua
sự điều hành của Erasmus+ để triển khai
thực hiện dự án SafeMa.
96
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 01
5. KẾT LUẬN
Nghiên cứu đã xác định được các
khoảng trống thuộc 4 lĩnh vực trong đào
tạo hộ sinh tại Việt Nam để từ đó làm cơ
sở phát triển các khóa học hộ sinh nâng
cao phù hợp với nhu cầu và hoàn cảnh của
từng quốc gia thành viên dự án góp phần
nâng cao năng lực đào tạo hộ sinh tại Việt
Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ariff S, Soofi SB, Sadiq K, Feroze
AB, Khan S, Jafarey SN, Ali N, Bhutta ZA.
(2010). Evaluation of health workforce com-
petence in maternal and neonatal issues in
public health sector of Pakistan: an Assess-
ment of their training needs. BMC Health
Serv Res. 10:319. doi: 10.1186/1472-6963-
10-319.
2. Bressan V, Bagnasco A, Bianchi M,
Rossi S, Moschetti F, Barisone M, Pellegrini
R, Aleo G, Timmins F, Sasso L. (2017). Bar-
riers to research awareness among nurses
in Italy. J Nurs Manag. 25(4):243-245.
3. Cheraghi, M. A., Salsali, M., & Safa-
ri, M. (2010). Ambiguity in knowledge trans-
fer: The role of theory-practice gap. Iranian
journal of nursing and midwifery research,
15(4), 155-166.
4. Evans C, Razia R, Cook E. (2013).
Building nurse education capacity in India:
insights from a faculty development pro-
gramme in Andhra Pradesh. BMC Nurs.
12():8.
5. Ith P, Dawson A, Homer C. (2012).
Quality of maternity care practices of skilled
birth attendants in Cambodia. Int J Evid
Based Healthc. 10(1):60-7.
6. Kermansaravi, F., Navidian, A. and
Yaghoubinia, F. (2015). Nursing Students’
Views of Nursing Education Quality: A
Qualitative Study. Global Journal of Health
Science, 7(2).
7. Leow TYQ, Ung A, Qian S, Nguyen
JT, An Y, Mudgil P, Whitehall J. (2017). Ex-
ploring infant feeding practices: cross-sec-
tional surveys of South Western Sydney,
Singapore, and Ho Chi Minh City. BMC Pe-
diatr. 17(1):145.
8. Liao AG, Manalon RC. (2015). The-
ory and practice: Identifying the gaps in
essential newborn care practice of nursing
and midwifery students during their clinical
practicum. Asia Pacific Higher Education
Research Journal. Vol 2, No 2.
9. Lukasse, M., Lilleengen, A., Fyl-
kesnes, A. and Henriksen, L. (2017). Nor-
wegian midwives’ opinion of their midwifery
education - a mixed methods study. BMC
Medical Education, 17(1).
10. Nguyen, T. and Wilson, A. (2016).
Knowledge, skills, and attitudes to im-
plementing best practice in hospitals in
Central Vietnam. International Journal of
Evidence-Based Healthcare, 14(4), pp.142-
149.
11. Nyoni, C. and Botma, Y. (2019). Im-
plementing a competency-based midwife-
ry programme in Lesotho: A gap analysis.
Nurse Education in Practice, 34, pp.72-78.
12. Oosterhoff P, Hardon AP, Nguyen
TA, Pham NY, Wright P.( 2008). Dealing
with a positive result: routine HIV testing of
pregnant women in Vietnam. AIDS Care.
20(6):654-659.
13. Trinh, A., Roberts, C. and Ampt, A.
(2015). Knowledge, attitude and experience
of episiotomy use among obstetricians and
midwives in Viet Nam. BMC Pregnancy and
Childbirth, 15(1).
14. Yigzaw, T., Carr, C., Stekelenburg,
J., van Roosmalen, J., Gibson, H., Gelagay,
M. and Admassu, A. (2016). Using task
analysis to generate evidence for strength-
ening midwifery education, practice, and
regulation in Ethiopia. International Journal
of Women’s Health, p.181.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
khoang_trong_trong_dao_tao_ho_sinh_tai_viet_nam.pdf