Về quyền khởi kiện vụ án dân sự để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà
nước, khoản 4 Điều 18 Bộ luật TTDS quy
định: “Cơ quan, tổ chức trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi
kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ
lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước
thuộc lĩnh vực mình phụ trách hoặc theo quy
định của pháp luật”. Như vậy, khi có các
hành vi tham nhũng xâm phạm tới quyền, lợi
ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mà mình
phụ trách thì cơ quan, tổ chức, đơn vị có
quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Toà
án bảo vệ.
Nhìn chung, những quy định liên quan
tới việc thu hồi tài sản tham nhũng được quy
định trong Bộ luật TTDS chủ yếu là các quy
định về thẩm quyền khởi kiện các vụ án dân
sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
Nhà nước khi bị các hành vi tham nhũng
xâm phạm; trình tự, thủ tục áp dụng các biện
pháp khẩn cấp tạm thời; cũng như việc giải
quyết các tranh chấp về tài sản nói chung,
trong đó có tài sản tham nhũng, nhằm trả lại
tài sản về cho chủ sở hữu hợp pháp6.
Như vậy, căn cứ quy định của BLDS, Bộ
luật TTDS, chúng ta có thể sử dụng biện
pháp khởi kiện dân sự để thu hồi tài sản tham
nhũng. Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử,
chưa có cơ quan, tổ chức, cá nhân nào khởi
kiện dân sự để thu hồi tài sản tham nhũng.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực tế này,
trong đó có nguyên nhân là do quy định của
pháp luật làm cơ sở cho việc khởi kiện dân
sự để thu hồi tài sản tham nhũng còn chưa
rõ ràng, chưa đồng bộ, thiếu thống nhất.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 244 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khởi kiện dân sự để thu hồi tài sản tham nhũng - Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
59Số 11 (411) - T6/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
1. Đặt vấn đề
Việc phát hiện và thu hồi tài sản tham
nhũng được thực hiện có hiệu quả sẽ là đòn
giáng mạnh vào tâm lý tội phạm tham
nhũng, ngăn chặn động cơ tham nhũng và
khôi phục nền công lý ở mỗi quốc gia. Quan
trọng hơn cả, tài sản tham nhũng được thu
hồi sẽ góp phần khắc phục một phần hoặc
toàn bộ thiệt hại mà hành vi tham nhũng đã
gây ra cho cơ quan nhà nước, tổ chức, cá
nhân. Với ý nghĩa đó, thu hồi tài sản tham
nhũng đóng vai trò quan trọng, là một yếu tố
chính của chiến lược phòng, chống tham
nhũng của bất kỳ quốc gia nào. Ở góc độ
quốc tế, đặc biệt là sau khi Công ước Liên
hợp quốc về chống tham nhũng năm 2003
(UNCAC) có hiệu lực, thu hồi tài sản tham
KHỞI KIỆN DÂN SỰ ĐỂ THU HỒI TÀI SẢN THAM NHŨNG -
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VÀ KHUYẾN NGHỊ CHO VIỆT NAM
Nguyễn Hà Thanh*
* ThS. Ban Nội chính Trung ương.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Khởi kiện dân sự; thu hồi
tài sản tham nhũng; phòng, chống
tham nhũng.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 31/03/2020
Biên tập : 15/04/2020
Duyệt bài : 19/04/2020
Article Infomation:
Key words: Civil lawsuits;
confiscation of assets derived from
corruption; anti-corruption.
Article History:
Received : 31 Mar. 2020
Edited : 15 Apr. 2020
Approved : 19 Apr. 2020
Tóm tắt:
Thu hồi tài sản tham nhũng đã và đang trở thành nội dung được Đảng,
Nhà nước và xã hội quan tâm. Tuy nhiên, thu hồi tài sản tham nhũng
trên thực tế vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Báo cáo công tác
phòng, chống tham nhũng năm 2019 của Chính phủ đánh giá “tỷ lệ
thu hồi tài sản tham nhũng có tiến bộ đáng kể nhưng còn thấp hơn
nhiều giá trị tài sản bị chiếm đoạt, gây thiệt hại”1. Để tăng cường hiệu
quả của công tác thu hồi tài sản tham nhũng, bài viết này trình bày
phương thức thu hồi tài sản dựa trên quy trình khởi kiện dân sự theo
kinh nghiệm quốc tế và đưa ra một số khuyến nghị cho Việt Nam.
Abstract:
Confiscation of assets derived from corruption has become an matter
of concern to the Party, the state and also the society. However,
confiscation of assets derived from corruption in fact still faces
several difficulties and challenges. The report on anti-corruption of
2019 provides stated “the rate confiscation of assets derived from
corruption marking significant progress but much lower than the
value of appropriated and damaged assets”. In order to enhance the
effectiveness of the confiscation of assets derived from corruption;
this article presents the method of asset confiscation based on
international experience in civil lawsuits based on international
experience and also provides recommendations for Vietnam.
1 Báo cáo số 372/BC-CP ngày 30/8/2019 của Chính phủ.
Số 11 (411) - T6/202060
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
nhũng đã ngày càng trở nên quan trọng hơn
trong các chương trình nghị sự quốc tế. Đây
cũng là một trong những nội dung sẽ được
đưa vào Chu trình đánh giá lần thứ hai về
việc thực thi Công ước này của các quốc gia
thành viên.
Hiện nay, các quốc gia sử dụng bốn
phương thức cơ bản để thu hồi tài sản tham
nhũng là: (1) Thu hồi tài sản dựa trên truy tố
hình sự; (2) Thu hồi tài sản không dựa trên
bản án hình sự; (3) Thu hồi tài sản thông qua
quyết định hành chính và (4) Khởi kiện dân
sự để thu hồi tài sản. Trong đó, phương thức
thu hồi tài sản dựa trên quy trình khởi kiện
dân sự được UNCAC khuyến nghị các quốc
gia nghiên cứu để áp dụng: “Mỗi quốc gia
thành viên, căn cứ vào pháp luật quốc gia sẽ
tiến hành các biện pháp cần thiết cho phép
quốc gia thành viên khác khởi kiện vụ án
dân sự tại toà án để xác định quyền hay
quyền sở hữu đối với tài sản có được qua
việc thực hiện các tội được quy định trong
Công ước này” (Điều 53(a)). Đồng thời,
sáng kiến thu hồi tài sản bị đánh cắp (StAR)
do Ngân hàng thế giới và Cơ quan Phòng,
chống ma tuý và tội phạm của Liên hợp quốc
đã đưa ra các hướng dẫn chi tiết và thực tiễn
tốt cho việc nghiên cứu và vận dụng phương
thức này2.
2. Rào cản thu hồi tài sản tham nhũng
theo thủ tục hình sự và ưu điểm khởi kiện
dân sự để thu hồi tài sản tham nhũng
Để thu hồi tài sản tham nhũng theo thủ
tục hình sự, các quốc gia theo thông luật
(Common Law) yêu cầu phải có phán quyết
của tòa án dựa trên những bằng chứng được
cho là không còn lý do chính đáng để nghi
ngờ (beyond a reasonable doubt) hoặc buộc
tội chắc chắn. Để chứng minh mối liên hệ
giữa tài sản và tội phạm, một số quốc gia
theo thông luật đòi hỏi các bằng chứng theo
tiêu chuẩn có xác suất phải chăng hay xác
suất đúng nhiều hơn là không đúng (balance
of probabilities); trong khi một số quốc gia
khác lại đòi hỏi bằng chứng được cho là
không còn lý do chính đáng để nghi ngờ.
Tiêu chuẩn về bằng chứng có xác suất phải
chăng được áp dụng trong các vụ án thu hồi
theo thủ tục dân sự.
Chứng minh tội phạm theo các chuẩn
mực hình sự có thể gây khó khăn cho các vụ
án tham nhũng. Ở một số quốc gia, các công
tố viên phải chứng minh hành vi hối lộ được
thực hiện để tạo điều kiện cho một thỏa
thuận tham nhũng giữa người đưa hối lộ và
một công chức; bằng chứng trong một vụ án
như vậy rất khó xác định. Tiêu chuẩn về
chứng cứ được thừa nhận giữa các quốc gia
thành viên của UNCAC linh hoạt hơn: Điều
28 UNCAC yêu cầu các quốc gia thành viên
đảm bảo rằng “Ý thức, ý định hoặc mục đích
là các yếu tố cấu thành của một tội phạm
được quy định theo Công ước này có thể
được suy đoán từ hoàn cảnh thực tế khách
quan”. Dù sao, yêu cầu tòa án phải kết án
hình sự để thu hồi tài sản là một rào cản
đáng kể, đặc biệt là khi bị cáo đã chết hoặc
chạy trốn.
Thêm vào đó, việc đưa ra chứng cứ để
khẳng định chắc chắn hoặc thuyết phục thẩm
phán tin tưởng hoàn toàn rằng có mối liên hệ
giữa tài sản và một tội phạm cụ thể (các quốc
2 Tham khảo ba tài liệu: Asset Recovery Handbook: A Guide for Practitioners; Public Wrongs, Private Actions:
Civil Lawsuits to Recover Stolen Assets và A Good Practices Guide for Non-Conviction Based Asset For-
feiture trong bộ tài liệu “Sáng kiến thu hồi tài sản bị đánh cắp” (StAR) của Ngân hàng thế giới và Cơ quan
Phòng, chống ma tuý và tội phạm của Liên hợp quốc.
gia theo thông luật) rất khó khăn. Các nhà
hoạt động thực tiễn chỉ ra rằng, việc không
đáp ứng được những yêu cầu này khiến công
tác thu hồi tài sản thường đi đến thất bại.
Việc áp dụng kiện dân sự để thu hồi tài
sản tham nhũng không có nghĩa làm giảm đi
vai trò quan trọng của biện pháp hình sự
trong việc xử lý hành vi tham nhũng và thu
hồi tài sản tham nhũng. Tuy nhiên, bồi
thường thiệt hại theo pháp luật dân sự có thể
bổ sung hiệu quả cho các chế tài hình sự.
Việc lựa chọn con đường khởi kiện dân sự
để thu hồi tài sản tham nhũng được luận giải
bởi những lý do sau:
Thứ nhất, biện pháp hình sự thường
không giải quyết được một số hậu quả của
tham nhũng. Cho dù, người vi phạm phải bị
xử lý hình sự và chịu trách nhiệm cá nhân
về những thiệt hại do người này gây ra cho
xã hội, nhưng tham nhũng gây thiệt hại rõ
ràng cho các chủ thể khác. Các chủ thể này,
gồm các cá nhân và pháp nhân, có quyền
đòi lại các tài sản đã mất và/ hoặc nhận bồi
thường đối với thiệt hại bị ảnh hưởng. Khởi
kiện dân sự không những cung cấp biện
pháp trực tiếp và hiệu quả để bồi thường cho
các nạn nhân về những thiệt hại mà họ phải
chịu, mà còn chứng tỏ giá trị trong việc
ngăn chặn các hành vi tham nhũng tiếp diễn
bởi nó ngăn chặn chủ thể tham nhũng có
được các khoản tiền bất chính; bởi vậy, nó
ngăn chặn được mục tiêu cơ bản nhất của
hành vi tham nhũng.
Thứ hai, các vụ kiện dân sự thường đặc
biệt hữu ích để xử lý các hậu quả về tài chính
của tham nhũng trong các trường hợp các
hành vi tham nhũng đã được thực hiện trong
một thời gian dài; thậm chí một vài hay tất
cả hành vi tham nhũng đã được chứng minh
tại phiên tòa, nhưng có thể gần như không
thể truy tìm tất cả tài sản tham nhũng bởi các
tài liệu, bằng chứng không đầy đủ. Trong các
vụ án hình sự, nếu giữa tội phạm cụ thể và
tài sản không thể xác lập mối liên hệ trực
tiếp, thì việc tịch thu tài sản sẽ có rất nhiều
khó khăn; trong khi đó, các tiêu chuẩn bằng
chứng ở phiên tòa dân sự thường thấp hơn
so với tố tụng hình sự.
Thứ ba, việc yêu cầu bồi thường thiệt
hại nói chung trong vụ kiện dân sự có thể
giải quyết được một số khó khăn về bằng
chứng khi khó xác định sự liên hệ giữa tài
sản và hành vi vi phạm theo các tiêu chuẩn
bằng chứng hình sự (khi việc xác lập sự liên
hệ trực tiếp giữa hành vi tham nhũng và tài
sản là không thể hoặc rất khó khăn). Chẳng
hạn, số lượng lớn tài sản tham nhũng được
chi dùng ở những nơi cách xa quốc gia mà
tài sản đó bị đánh cắp; tài sản tham nhũng
được tẩy rửa qua nhiều giao dịch, cuối cùng
mua bất động sản, đầu tư kinh doanh hoặc
mua những đồ có giá trị. Trong trường hợp
này, khởi kiện dân sự vẫn có cơ hội thành
công, thủ tục dân sự có thể quy định một
khoản bồi thường bởi việc khởi kiện đối với
những thiệt hại nói chung.
Thứ tư, khởi kiện dân sự và bồi thường
dân sự có thể mở rộng phạm vi các đối tượng
bị đơn và trách nhiệm, nghĩa là “mở rộng các
khoản tiền” bị kiện. Khi áp dụng biện pháp
kiện dân sự để thu hồi tài sản, người khởi kiện
có sự linh hoạt hơn trong việc khởi kiện đòi
tiền và tài sản thuộc bên thứ ba - có thể gồm
bất kỳ ai hỗ trợ cho bị đơn chính - như các
thành viên gia đình và các đồng nghiệp, luật
sư, các ngân hàng, người điều hành ngân hàng.
Thứ năm, ở những nước không áp dụng
trách nhiệm hình sự pháp nhân, bồi thường
dân sự và khởi kiện dân sự được xem như
một biện pháp thu hồi các khoản tiền tham
nhũng.
Thứ sáu, đối với những vụ án xuyên
biên giới, khởi kiện dân sự giúp quốc gia có
khả năng kiểm soát quá trình thu hồi tài sản
tham nhũng tốt hơn so với việc yêu cầu nước
có liên quan áp dụng biện pháp hình sự.
61Số 11 (411) - T6/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
Số 11 (411) - T6/202062
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
3. Các hình thức khởi kiện để thu hồi tài
sản tham nhũng
3.1. Khởi kiện khẳng định quyền sở
hữu
Ở hầu hết các nước, tài sản bị biển thủ
và các khoản hối lộ quan chức chính phủ có
thể bị kiện để tìm kiếm sự bồi thường với tư
cách là chủ sở hữu hợp pháp và thực sự.
Trong vụ án Tổng Chưởng lý Hồng Kông
kiện Reid (1994)3, Uỷ ban Chống tham
nhũng độc lập của Đặc khu hành chính Hồng
Kông đã tìm cách thu hồi tài sản New
Zealand do một cựu Công tố viên, ông
Warwick Reid, mua. Việc mua tài sản đó
được ông này thực hiện bằng tiền hối lộ; ông
ta đã nhận hối lộ để đổi lại việc không truy
tố một số người phạm tội. Hai bất động sản
do ông ta và vợ đứng tên, một bất động sản
khác do luật sư của ông ta đứng tên. Thẩm
phán ra phán quyết rằng những bất động sản
này là hiện thân của các khoản hối lộ mà
Reid đã nhận nên được Reid nắm giữ nhân
danh Hoàng gia.
Toà án lý giải: Khi một người được uỷ
thác đã vi phạm chức trách nhiệm vụ thực
hiện việc nhận hối lộ, người này giữ khoản
hối lộ đó thay cho người mà trước người đó
anh ta phải chịu trách nhiệm. Nếu tài sản là
hiện thân của khoản hối lộ đó bị giảm giá trị,
người được uỷ thác phải trả số tiền chênh
lệch giữa giá trị đó và số tiền hối lộ ban đầu;
bởi vì, ông ta đã không được phép nhận
khoản hối lộ đó. Nếu tài sản đó tăng giá trị,
người được uỷ thác không có quyền sở hữu
đối với bất kỳ khoản tăng thêm nào so với
số tiền hối lộ ban đầu, vì ông ta không được
phép kiếm lợi nhuận từ việc vi phạm nghĩa
vụ trách nhiệm của mình.
3.2. Khởi kiện đòi bồi thường
Theo UNCAC, các quốc gia thành viên
cần cho phép yêu cầu tương trợ tư pháp đòi
bồi thường cho những thiệt hại do hành vi
tham nhũng gây ra. Tiền bồi thường được trả
cho bên nguyên đơn để bồi thường cho sự
mất mát, thương tổn hoặc thiệt hại do sự vi
phạm chức trách nhiệm vụ trực tiếp gây ra,
bao gồm sai phạm hình sự, hành vi ứng xử
phi đạo đức và sai sót tiền hợp đồng. Khi
một hành vi tham nhũng đã xảy ra, nguyên
đơn phải chứng minh rằng mình đã chịu
những thiệt hại có thể bồi thường, rằng bị
đơn đã vi phạm chức trách nhiệm vụ và rằng
có mối liên hệ nhân quả giữa tham nhũng và
thiệt hại.
Pháp nhân và cá nhân tham gia trực tiếp
và có chủ ý vào hành vi tham nhũng phải
chịu trách nhiệm chính về bồi thường thiệt
hại. Ngoài ra, toà án có thể quy trách nhiệm
cho cả những người hỗ trợ thực hiện hành vi
tham nhũng hoặc những người không thực
hiện các bước đi phù hợp để ngăn ngừa tham
nhũng. Những đối tượng này có thể là các
luật sư hoặc bên trung gian đã hỗ trợ cho các
hành vi tham nhũng hoặc những công ty mẹ
và chủ doanh nghiệp đã không có sự kiểm
soát phù hợp đối với các công ty chi nhánh
hoặc nhân viên của mình.
Ở một số nước theo hệ thống dân luật
(Civil Law), bất kỳ người nào chịu thiệt hại
trực tiếp bởi một tội phạm có thể khởi kiện
đòi bồi thường thiệt hại tại toà án dân sự
hoặc toà án hình sự sau khi một bị cáo đã bị
kết tội.
3.3. Khởi kiện dựa trên tính vô hiệu
của hợp đồng hoặc vi phạm hợp đồng
Tính vô hiệu của hợp đồng được dựa
trên căn cứ rằng, hợp đồng có được là do
3 Tổng Chưởng lý Hồng Kông kiện Reid [1994] 1 AC 324 PC (Anh).
63Số 11 (411) - T6/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
gian lận và sự đồng thuận bị tác động bởi
tham nhũng.
Vi phạm hợp đồng cũng là một căn cứ
cho việc khởi kiện, đặc biệt khi hợp đồng
chứa đựng những điều khoản cam kết của
nhà thầu không đưa bất kỳ khoản tiền đút lót
nào cho các cá nhân liên quan đến việc trúng
thầu hay thực hiện hợp đồng. Việc vi phạm
điều cấm cụ thể này mang lại cho nguyên
đơn quyền chấm dứt hợp đồng, tránh được
trách nhiệm của chính mình và đòi bồi
thường thiệt hại.
Vụ án Fyffes kiện Templeman và những
người khác (2000)4: Fyffes là công ty kinh
doanh chuối đã kiện một nhân viên của công
ty, người chịu trách nhiệm đàm phán một
thoả thuận dịch vụ với một nhà thầu vận
chuyển, đã nhận hối lộ hơn 1,4 triệu đô la
trong thời gian từ năm 1992 đến 1996.
Khoản hối lộ bị phát hiện khi Cơ quan thu
thuế nội địa Hoa Kỳ được báo cho biết về
những khoản thanh toán không kê khai mà
nhân viên này nhận ở Hoa Kỳ từ một công
ty hợp nhất ở Cộng hoà Síp.
Fyffes tìm cách thu hồi thiệt hại từ nhân
viên đó, công ty vận chuyển và các đại lý của
công ty vận chuyển. Tất cả các bị cáo được
xác định cùng chịu trách nhiệm về giá trị
khoản hối lộ. Toà án phán quyết rằng “chắc
chắn nhà thầu đã xem xét việc đưa hối lộ khi
chấp nhận số cước phí mỗi năm, mà Fyffes
sẽ phải trả ít hơn nếu họ chỉ phải trả khoản
phí thực mà nhà thầu có thể chấp nhận”.
Công ty vận chuyển và các đại lý của
công ty này chịu trách nhiệm trả khoản bồi
thường bổ sung cho tổn hại mà Fyffes đã
phải chịu khi ký hợp đồng với những điều
khoản bất lợi. Đối với từng năm, Toà án xác
định số tiền mà Fyffes phải trả nếu nhân viên
đại diện đàm phán trung thực và kỹ lưỡng.
Theo đó, các khoản thanh toán đã bị thổi
phồng lên 830.022 đô la vào năm 1993 và
1,1 triệu đô la vào năm 1996.
3.4. Khởi kiện căn cứ trên hành vi làm
giàu bất hợp pháp hoặc làm giàu không
công bằng
Khởi kiện đòi lại hoặc đòi đền bù các lợi
ích có được từ các hành vi bất hợp pháp và
phi đạo đức xuất phát từ nguyên tắc: Không
ai được phép hưởng lợi từ việc làm sai trái
của mình hoặc từ hành vi làm giàu bất hợp
pháp hoặc làm giàu không công bằng. Tòa
án có thể ra phán quyết buộc bị cáo phải trả
lại các lợi ích bất hợp pháp, kể cả khi nạn
nhân không chịu thiệt hại hoặc không chịu
bất kỳ bất lợi nào khác. Ở Hoa Kỳ, thông
thường, thu hồi lợi ích có được từ các hành
vi sai trái hoặc làm giàu bất hợp pháp được
Ủy ban Tỷ giá và Chứng khoán và Bộ Tư
pháp tiến hành qua các vụ kiện dân sự hoặc
vụ án hình sự nhằm thực thi Luật Chống các
hành vi tham nhũng nước ngoài.
4. Một số khuyến nghị cho Việt Nam
Bộ luật Dân sự năm 2015 (BLDS)
không quy định trực tiếp về thu hồi tài sản
tham nhũng. Các quy định liên quan đến
việc thu hồi tài sản tham nhũng được thể
hiện trong các điều luật quy định về quyền
của chủ sở hữu đối với tài sản; xác định
quyền của chủ sở hữu trong việc đòi lại các
tài sản bị chiếm đoạt bất hợp pháp; đòi bồi
thường thiệt hại về tài sản do hành vi xâm
phạm gây ra; nghĩa vụ hoàn trả tài sản do
chiếm hữu, sử dụng, được lợi về tài sản
không có căn cứ pháp luật, giúp cho tài sản
bị tham nhũng được hoàn trả về đúng chủ
sở hữu.
Như vậy, trong các trường hợp tài sản bị
4 Vụ án Fyffes Group Ltd. kiện Templeman [2000] 2 Lloyd’s Rep 643 (Anh).
Số 11 (411) - T6/202064
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
chiếm đoạt bất hợp pháp; bị thiệt hại do hành
vi xâm phạm trái pháp luật gây ra (trong đó
có hành vi tham nhũng); bị chiếm hữu, sử
dụng, được lợi không có căn cứ pháp luật
(trong đó có những tài sản có nguồn gốc từ
tham nhũng), thì chủ sở hữu có quyền đề
nghị cơ quan có thẩm quyền áp dụng các quy
định của Bộ luật Dân sự để đòi lại các tài sản
bị chiếm đoạt bất hợp pháp; đòi bồi thường
thiệt hại về tài sản do hành vi xâm phạm gây
ra; yêu cầu hoàn trả tài sản do chiếm hữu, sử
dụng, được lợi về tài sản không có căn cứ
pháp luật5.
Về thẩm quyền giải quyết các tranh chấp
về tài sản, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
(Bộ luật TTDS) quy định những loại tranh
chấp dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của
Toà án, trong đó có tranh chấp về quyền sở hữu
tài sản. Như vậy, trong các trường hợp phát
sinh các tranh chấp về quyền sở hữu tài sản nói
chung, trong đó có các tài sản tham nhũng thì
thẩm quyền giải quyết là của Tòa án.
Về quyền khởi kiện vụ án dân sự để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà
nước, khoản 4 Điều 18 Bộ luật TTDS quy
định: “Cơ quan, tổ chức trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi
kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ
lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước
thuộc lĩnh vực mình phụ trách hoặc theo quy
định của pháp luật”. Như vậy, khi có các
hành vi tham nhũng xâm phạm tới quyền, lợi
ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mà mình
phụ trách thì cơ quan, tổ chức, đơn vị có
quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Toà
án bảo vệ.
Nhìn chung, những quy định liên quan
tới việc thu hồi tài sản tham nhũng được quy
định trong Bộ luật TTDS chủ yếu là các quy
định về thẩm quyền khởi kiện các vụ án dân
sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
Nhà nước khi bị các hành vi tham nhũng
xâm phạm; trình tự, thủ tục áp dụng các biện
pháp khẩn cấp tạm thời; cũng như việc giải
quyết các tranh chấp về tài sản nói chung,
trong đó có tài sản tham nhũng, nhằm trả lại
tài sản về cho chủ sở hữu hợp pháp6.
Như vậy, căn cứ quy định của BLDS, Bộ
luật TTDS, chúng ta có thể sử dụng biện
pháp khởi kiện dân sự để thu hồi tài sản tham
nhũng. Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử,
chưa có cơ quan, tổ chức, cá nhân nào khởi
kiện dân sự để thu hồi tài sản tham nhũng.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực tế này,
trong đó có nguyên nhân là do quy định của
pháp luật làm cơ sở cho việc khởi kiện dân
sự để thu hồi tài sản tham nhũng còn chưa
rõ ràng, chưa đồng bộ, thiếu thống nhất.
Để khắc phục tình trạng trên, chúng tôi
cho rằng, cần nghiên cứu, hoàn thiện các quy
định của BLDS và Bộ luật TTDS theo
hướng sửa đổi, bổ sung quy định về trách
nhiệm của cơ quan, tổ chức được giao quản
lý tài sản thuộc sở hữu nhà nước trong việc
khởi kiện vụ án dân sự để đòi lại những tài
sản thuộc quyền quản lý của cơ quan, tổ
chức nhưng bị hành vi tham nhũng xâm
phạm; trong trường hợp cơ quan, tổ chức sở
hữu tài sản nhà nước bị tham nhũng không
khởi kiện vụ án, cho phép bên thứ ba khởi
kiện vụ án dân sự đòi lại tài sản hoặc bồi
thường thiệt hại tài sản này n
5 Ban Nội chính Trung ương (2015), Báo cáo Thu hồi tài sản tham nhũng – Thực tiễn Việt Nam và Kinh
nghiệm quốc tế, tr.45.
6 Ban Nội chính Trung ương (2015), Báo cáo Thu hồi tài sản tham nhũng – Thực tiễn Việt Nam và Kinh
nghiệm quốc tế, tr.47.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khoi_kien_dan_su_de_thu_hoi_tai_san_tham_nhung_kinh_nghiem_q.pdf