Giải pháp tăng cường khung pháp
lý đối với cướp biển
Nghị quyết số 1838168 của Hội đồng
Bảo an Liên Hợp Quốc kêu gọi tất cả các
quốc gia có tàu thuyền hoạt động dọc theo
vịnh Aden cùng chung tay và áp dụng các lực
lượng quân sự, hợp tác pháp luật, tăng cường
khung pháp lý để đàn áp các hành vi cướp
biển trong khu vực; và nghị quyết số
2018169 kêu gọi sự phối hợp và hỗ trợ hậu
cần của cộng đồng quốc tế đối với các sáng
kiến an ninh khu vực nhằm kiểm soát các
hoạt động cướp biển đang gia tăng ở vùng
biển Tây Phi vịnh Guinea, cũng kêu gọi các
quốc gia thành viên tình nguyện truy tố pháp
luật những tên cướp biển bị bắt giữ đến đất
nước của mình.
Công ước UNCLOS 1982, không áp đặt
nghĩa vụ pháp lý cho các quốc gia hợp tác
với nhau để loại bỏ các hành vi cướp biển
trên toàn bộ khu vực biển, thay vào đó, họ
mong muốn hợp tác với các quốc gia một
cách đầy đủ nhất trên biển hoặc ở bất kỳ nơi
nào khác ngoài phạm vi quyền tài phán của
bất kỳ quốc gia nào. Vấn đề ở đây là các
nước chỉ muốn hợp tác chống lại cướp biển
xảy ra trên biển, các vấn đề khác thì lại
không. Do đó, có thể xảy ra trường hợp các
quốc gia sử dụng ý riêng của mình để hợp tác
chống lại cướp biển trong vùng biển tài phán
của một quốc gia. Điều này làm cho cuộc
chiến chống lại các hoạt động cướp biển trở
nên khó khăn hơn khi cướp biển có thể tấn
công một con tàu trong lãnh hải của một
quốc gia và trốn thoát sang lãnh hải của một
quốc gia khác. Các lực lượng quốc tế tham
gia chống cướp biển trên vùng biển Somalia,
có thể áp dụng pháp lý đang được sử dụng tại
khu vực này làm căn cứ để mở rộng hoạt
động của họ tới vùng biển Tây Phi - nơi
không có quốc gia nào có thẩm quyền đối với
vùng biển này. Tuy nhiên, do việc triển khai
lực lượng quốc tế không phải là một giải
pháp lâu dài [9], nên tốt hơn hết các quốc gia,
đặc biệt là Somalia nên tăng cường khung
pháp lý và tìm giải pháp cho các vấn đề kinh
tế xã hội được coi là nguồn gốc của các hoạt
động cướp biển tại quốc gia này.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 197 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khung pháp lý và giải pháp quốc tế nhằm ngăn chặn cướp biển Somalia giai đoạn 2005 - 2015, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
92
Journal of Transportation Science and Technology, Vol 36, May 2020
KHUNG PHÁP LÝ VÀ GIẢI PHÁP QUỐC TẾ NHẰM NGĂN CHẶN
CƯỚP BIỂN SOMALIA GIAI ĐOẠN 2005 - 2015
INTERNATIONAL LEGAL FRAMEWORK AND MEASURES TAKEN TO
SUPPRESS SOMALIA PIRACY IN THE PERIOD 2005 - 2015
Phạm Văn Tân, Nguyễn Viết Thành, Đặng Quang Việt
Trung tâm Huấn luyện thuyền viên
Đại học Hàng hải Việt Nam,
phamvantan@vimaru.edu.vn
Tóm tắt: Cướp biển ngoài khơi Somalia đã xuất hiện vào những năm 2000 và phát triển mạnh
trong khoảng từ năm 2005 đến 2012, chủ yếu tập trung vào các vụ cướp tàu và giam giữ các thủy thủ
cho mục đích đòi tiền chuộc. Và số tiền chuộc lên tới 238 triệu USD vào những năm đỉnh điểm của
hoạt động cướp biển. Các hoạt động cướp biển được thực hiện ngoài khơi Somalia đã thể hiện một số
đặc điểm riêng biệt của khu vực này, đó là tình trạng bạo lực con tin ngày càng gia tăng. Những đặc
điểm này một phần được tạo ra do tình hình chính trị, pháp luật của Somalia. Và từ sau năm 2015 đến
nay, cướp biển có xu hướng dịch chuyển và hoạt động mạnh sang khu vực Tây Phi. Bài viết sẽ phân
tích các đặc điểm của cướp biển Somalia, các quy định pháp luật của Somalia, pháp luật quốc tế,
cũng như các biện pháp của các tổ chức quốc tế để điều chỉnh vấn đề này trong giai đoạn 2005 -2015.
Từ đó mở ra hướng nghiên cứu tiếp theo, các biện pháp đã thực hiện tại Somalia có thể là bài học tốt
để đối phó với tình trạng cướp biển đang phát triển tại vùng Tây Phi.
Từ khóa: Khung pháp lý quốc tế, luật Hàng hải, cướp biển Somalia.
Chỉ số phân loại: 3.5
Abstract: Piracy of Somalia has emerged in the 2000s and flourished for about seven years from
2005 to 2012, mainly focused on hijacking vessels and its crew members for ransom purpose. And the
ransom payments amounting to $238 million during the peak years of piracy. Piracy activities
conducted off the coast of Somalia have evidenced some unique features, other than the usual features
of the ancient piracy or piracy conducted elsewhere. These unique features have been made possible
due to the political state of Somalia. And since 2015, pirates have tended to move and become active
in West Africa. This article analyzes the said unique features of piracy activities conducted off the
coast of Somalia, and the international legal framework measures are taken to suppress Somalia
piracy in the period 2005 - 2015. Hereby opening up further research, those measures of Somalia can
be lessons in dealing with growing piracy in West Africa.
Keywords: International legal framework, Maritime law, Somalia piracy.
Classification number: 3.5
1. Giới thiệu
Kể từ khi hình thành, cướp biển liên tục
thay đổi phương thức hoạt động tùy thuộc
vào thời gian, khu vực diễn ra cũng như mục
tiêu. Cướp biển thời cổ đại tập trung vào
trộm cắp những thứ có giá trị và tiền bạc, còn
cướp biển hiện này nhằm đến mục tiêu là tàu
biển và hàng hóa trên tàu, hay nói cách khác,
mục tiêu tiền chuộc là chính. Cướp biển hiện
nay cũng có các hình thức khác nhau tùy
thuộc vào mục đích thực hiện hành vi phạm
tội và khu vực.
Các hoạt động cướp biển được thực hiện
ngoài khơi Somalia đã thể hiện một số đặc
điểm riêng biệt của khu vực này so với các
đặc điểm thông thường của cướp biển cổ đại
hoặc cướp biển ở nơi khác. Những đặc điểm
này một phần được tạo ra do tình hình chính
trị, pháp luật của Somalia. Bài viết sẽ phân
tích các đặc điểm của cướp biển Somalia, các
quy định pháp luật của Somalia, pháp luật
quốc tế, cũng như các biện pháp của các tổ
chức quốc tế để điều chỉnh vấn đề này.
2. Đặc điểm cướp biển Somalia
2.1. Cướp để đòi tiền chuộc
Cướp biển ngoài khơi Somalia đã xuất
hiện vào những năm 2000 và phát triển mạnh
trong khoảng từ năm 2005 đến 2012. Cướp
biển Somalia, chủ yếu tập trung vào các vụ
cướp tàu và giam giữ thủy thủ cho mục đích
đòi tiền chuộc. Thực tế là sau vụ tấn công,
cướp biển cho neo tàu và giữ con tin để đàm
TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ GIAO THÔNG VẬN TẢI, SỐ 36-05/2020
93
phán lấy số tiền chuộc. Từ khi xuất hiện cho
đến những năm gần đây, cướp biển Somalia
đã thu được một khoản tiền chuộc khổng lồ
từ các tàu và con tin bị tấn công. Trong báo
cáo cướp biển và cướp có vũ trang chống lại
tàu năm 2014, ICC IMB (The International
Chamber Of Commerce, International
Maritime Bureau) đã ghi nhận tổng số 555 vụ
cướp và cố gắng tiến hành cướp của cướp
biển Somalia xảy ra trong khoảng thời gian
từ tháng 1 năm 2010 đến tháng 12 năm 2014.
Trong năm 2010, cướp biển Somalia đã thu
thành công tổng cộng 44 khoản tiền chuộc
lên tới 238 triệu USD với trung bình 5,4 triệu
USD cho mỗi khoản tiền chuộc. Ngoài ra,
năm 2011, tổng cộng có 31 khoản tiền chuộc
đã được trả cho cướp biển Somalia với tổng
số tiền là 159,62 triệu USD, như vậy trung
bình là 4,97 triệu USD cho mỗi khoản tiền
chuộc. Năm 2012, số tiền chuộc là
31.750.000 USD cho tổng số 8 khoản tiền
chuộc, với trung bình là 3.968.750 USD cho
mỗi khoản tiền chuộc. Báo cáo năm 2013, số
tiền chuộc ước tính được trả cho cướp biển là
21,60 triệu USD và trong năm 2014, để giải
cứu 18 con tin từ tàu M/V Asphat Venture và
M/V Albed đã phải trả 1.000.000 USD [1].
Tuy nhiên, không có khoản thanh toán tiền
chuộc nào trong năm 2015.
Các số liệu thống kê cũng cho thấy [2],
trong suốt thời gian đó, một số thành viên
thủy thủ đoàn đã bị bắt giữ bởi cướp biển
Somalia và đang chờ thanh toán tiền chuộc.
Báo cáo năm 2013 của Ocean Beyond Piracy
cho thấy tổng số 111 con tin được bị bắt giữ
từ năm 2010 - 2012, và năm 2015 là 108
người. Vấn đề đàm phán tiền chuộc không
chỉ kéo dài vài ngày mà kéo dài đến vài tuần
và có thể đến một năm hoặc thậm chí lâu hơn
nữa. Cụ thể, Tàu M/V Iceberg đã bị cướp
biển tấn công vào ngày 29/3/2010 và được
chính quyền thành phố Puntland giải phóng
vào ngày 23/12/2012. Ngày 2/5/2009, tàu
M/V Ariana đã bị cướp cùng với 24 thủy thủ
đoàn Ukraine, khi nó đang hành trình về phía
Tây Nam của Seychelles, và vào ngày
29/12/2009 tàu đã được giải phóng sau khi số
tiền chuộc là 3.000.000 USD được trả cho
cướp biển. 26 thủy thủ đoàn của tàu Naham 3
bị hải tặc giam giữ kể từ tháng 3/2012, cùng
với 4 thủy đoàn Thái Lan của tàu Prantalay
12, bị bắt từ năm 2010 đã được thả vào ngày
25/02/2015 sau 1.774 ngày trong tay cướp
biển [3].
2.2. Cướp biển Somalia với việc bạo
lực con tin
Nhìn chung, những tên cướp biển
Somalia có xu hướng đối xử với các con tin
với một sự chăm sóc nhất định và hiếm khi
những người bị bắt giữ sống trong tình trạng
nguy hiểm. Con tin và hàng hóa được sử
dụng làm công cụ thương lượng cho các cuộc
đàm phán thanh toán tiền chuộc. Khi đạt
được thỏa thuận và tiền chuộc được trả cho
cướp biển, con tin được trả tự do cùng với
hàng hóa và tàu bị cướp. Tuy nhiên, các báo
cáo gần đầy chỉ ra rằng có sự gia tăng bạo
lực, các con tin đã bị đánh đập bởi những kẻ
bắt giữ họ. Theo Alan Cole [10] thuộc Văn
phòng Liên Hợp Quốc về Ma túy và Tội
phạm (UNODC), các vụ cướp biển Somalia
ngày càng bạo lực do sự thay đổi của cộng
đồng cướp biển. Nó đã chuyển từ những ngư
dân bất mãn sang những người đến từ nhiều
tầng lớp khác nhau, và điều đó đã dẫn đến
mức độ bạo lực gia tăng.
Những gia tăng bạo lực này không chỉ
ảnh hưởng đến tinh thần và thể xác của con
tin, mà thủy thủ còn có thể bị mất mạng.
Năm 2011, có 24 thủy thủ bị chết sau khi bị
cướp biển bắt giữ, gấp ba lần số thủy thủ chết
do nguyên nhân khác vào năm 2009. Vào
ngày 22/2/2011, BBC News [10] đã thông
báo về cái chết của Scot và Jean Adam, các
thủy thủ người Mỹ từ California khi đang
chèo thuyền ra khỏi bờ biển Ô-man trong
chiếc du thuyền riêng S/V Quest của họ cùng
với hai người Mỹ khác - Phyllis Macay và
Bob Riggle. Nhưng sự gia tăng bạo lực này
được gọi là sự trả thù của những tên cướp
biển cho những những tên cướp biển đã bị
giết bởi lực lượng hải quân. Vì vậy, hầu hết
cái chết của con tin trong tay cướp biển là kết
quả của sự trả thù thay vì bạo lực [4].
2.3. Hỗ trợ từ nội địa Somalia
Với một nhà nước không có chính phủ
ổn định, cướp biển Somalia không có gì phải
sợ. Somalia là một quốc gia hầu như vô luật
pháp kể từ khi nhà cầm quyền Said Barre sụp
94
Journal of Transportation Science and Technology, Vol 36, May 2020
đổ năm 1991. Chiến tranh, các nhóm tôn giáo
và sắc tộc đã chiến đấu để kiểm soát
Somalia. Cướp biển được tiến hành công
khai với sự hỗ trợ từ địa phương. Các tàu bị
tấn công đã được đưa vào khu vực gần bờ và
không ai can thiệp vì không có lực lượng bảo
vệ ven biển. Tiền chuộc thường được chia
cho những người liên quan. Đối với các nhà
lãnh đạo địa phương là 30%; 30% dành cho
những tên cướp biển; 20% dành cho những
người cầm đầu nhóm cướp biển; 20% dành
cho các hoạt động như mua vũ khí,[11]
Hình 1. Phân bổ tiền chuộc
của cướp biển Somalia [11].
2.4. Cướp biển Somalia chủ yếu được
thực hiện ngoài biển khơi
Cướp biển ngoài khơi Somalia đang diễn
ra trên biển quốc tế - nơi không có nhà nước
thẩm quyền. Những tên cướp biển đã nhắm
vào các tàu thuyền đi qua kênh đào Suez, các
cửa ngõ thương mại rất quan trọng và khả thi
hơn so với mũi Hảo Vọng. Tất cả các tàu đi
qua kênh đào Suez giữa Ấn Độ Dương và
biển Địa Trung Hải phải đi qua vịnh Aden.
Rất nhiều tàu chọn tuyến đường này vì đây là
tuyến đường ngắn nhất giữa Đông và Tây, nó
tiết kiệm rất nhiều chi phí vận hành so với
tuyến đường qua mũi Hảo Vọng. Do đó, rất
nhiều công ty vận chuyển đã bị ảnh hưởng
bởi các hoạt động cướp biển diễn ra ngoài
khơi Somalia. Hàng hóa được vận chuyển
qua tuyến đường này đã bị gián đoạn rất
nhiều, nên phí bảo hiểm tăng, thêm chi phí
thuê lực lượng bảo vệ theo tàu, thuê lực
lượng hải quân hộ tống.
Ngoài ra, nạn cướp biển ngoài khơi
Somalia đã ảnh hưởng đến phần lớn sự phát
triển kinh tế đối với cộng đồng quốc tế nói
chung, ngành vận tải biển và người tiêu
dùng. Số tiền được sử dụng để chống cướp
biển ngoài khơi Somalia, số tiền bị mất do
các hành động cướp biển, tăng phí bảo hiểm,
mất thời gian để đối phó với cướp biển và
các giải pháp để loại bỏ cướp biển được cho
là ảnh hưởng đến kinh tế thế giới. Khoảng 2
tỷ USD được chi mỗi năm cho các hoạt động
hải quân ngoài khơi Somalia [5].
Thêm vào đó, sự tăng trưởng kinh tế của
các quốc gia Đông Phi cũng bị ảnh hưởng
bởi các hoạt động cướp biển. Chi phí vận
chuyển liên tục tăng do tỷ lệ bảo hiểm tăng
đáng kể mà chủ tàu phải trả. Các hãng tàu
container phải trả thêm 120 nghìn USD cho
hàng nhập khẩu và 95 nghìn USD cho xuất
khẩu vào năm 2010. Chi phí vận chuyển
hàng hóa đối với dầu và ngũ cốc được ước
tính đã tăng hơn 15 USD /tấn trong năm
2010 để trả cho chi phí bảo hiểm và an ninh.
Hơn nữa, các công ty vận tải đã bị ảnh
hưởng nhiều bởi số tiền chuộc mà cướp biển
yêu cầu để giải cứu những con tàu bị tấn
công và các thành viên thủy thủ đoàn đã bị
bắt làm con tin. Theo Chatham House, cướp
biển đã thu được khoảng 18 - 30 triệu USD
vào tháng 9 năm 2008 và họ dự kiến sẽ thu
được tới 50 triệu USD vào cuối tháng 12 năm
2008. Số tiền chuộc đã được tăng lên so với
năm 2005 khi một công ty có trụ sở tại
HongKong được báo cáo đã trả 315.000 USD
tiền chuộc để giải phóng tàu M/V Feisty Gas.
Tỷ lệ tiếp tục tăng hàng năm từ năm 2005
đến 2011. Uớc tính trong năm 2011, số tiền
chuộc lên tới 155,67 triệu USD, trong khi
năm 2012 chỉ còn 40,39 triệu USD [6]. Vì
vậy, cướp biển là một vấn đề nghiêm trọng,
nó sẽ làm suy yếu ngành vận tải biển và nền
kinh tế thế giới.
Hơn nữa, các hoạt động cướp biển ngoài
khơi Somalia đã góp phần tăng chi phí của
chủ tàu cho các biện pháp bảo vệ. 25% các
tàu thương mại đi qua khu vực rủi ro cướp
biển cao đều thuê lực lượng bảo vệ theo tàu,
và các chi phí ước tính là từ 30.000 đến
50.000 USD mỗi chuyến. Ngoài việc sử dụng
các lực lượng bảo vệ có vũ trang theo tàu,
chủ tàu còn phải chịu các chi phí cho các
thiết bị an ninh như báo động, chiếu sáng
tầng trên, để tăng cường an ninh [8].
Thống kê của Ocean Beyond Piracy [2]
TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ GIAO THÔNG VẬN TẢI, SỐ 36-05/2020
95
cho thấy từ năm 2011 đến 2015, tổng chi phí
ước tính là 16.859.069.138 USD, trong đó
chi phí cho tiền chuộc được ước tính là
213.970.000 USD; cho lực lượng hải quân
ước tính là 4.423.400.000 USD; thiết bị an
ninh và bảo vệ ước tính là 4.152.000.000; chi
phí cho việc truy tố và phạt tù là 50.000.000
USD và cho các chi phí liên quan đến bảo
hiểm là 1.769.000.000 USD.
3. Hiện trạng khung pháp lý quốc tế
và khu vực đối với cướp biển Somalia
Đặc điểm chế độ chính trị của Somalia
không ổn định, chính phủ đang phải vật lộn
với các cuộc xung đột nội bộ, do vậy Somalia
không thể xử lý tình trạng cướp biển gia tăng
tại đây. Trên cơ sở đó, Hội đồng Bảo an Liên
Hợp Quốc kêu gọi các quốc gia, dựa trên
Điều 100 của Công ước UNCLOS 1982
(United Nations Convention on Law of the
Sea, 1982), hợp tác trong việc chống lại các
hoạt động cướp biển trong khu vực. Điều 100
quy định rằng tất cả các quốc gia sẽ hợp tác ở
mức độ cao nhất có thể trong việc chống lại
cướp biển. Đây là một cơ sở để xác định
nhiệm vụ của các quốc gia đối phó với cướp
biển. Các nhiệm vụ chính được đề cập bao
gồm chia sẻ thông tin và giúp đỡ trong việc
truy tố các nghi phạm cướp biển. Vì vậy, các
lực lượng hải quân quốc tế đã được triển khai
để bảo vệ khu vực theo sự thúc giục của Hội
đồng Bảo an Liên hợp quốc triển khai Nghị
quyết 1816 ngày 2/6/2008, Nghị quyết 1846
ngày 2/12/2008, Nghị quyết 1851 ngày
18/12/2008, liên quan đến tình trạng cướp
biển ngoài khơi Somalia. Liên Hợp Quốc kêu
gọi tất cả các quốc gia và tổ chức có khả
năng tích cực tham gia vào cuộc chiến chống
lại các hoạt động cướp biển ngoài khơi
Somalia.
Hiệu quả của việc triển khai các lực
lượng hải quân tại khu vực Somalia đã được
phản ánh trong báo cáo sự cố cướp biển của
IMO (International Maritime Organization),
năm 2011 có tổng cộng 286 vụ cướp biển
hoặc cố gắng tấn công tàu ở ngoài khơi
Somalia, con số đã giảm dần xuống còn 97
sự cố trong năm 2012, 20 sự cố vào năm
2013, năm 2014 có 12 vụ cướp biển, năm
2015 là 15 sự cố.
Theo UNCLOS, các quốc gia có nhiệm
vụ bắt giữ và truy tố cướp biển tại tòa án
quốc gia của họ. Các quốc gia cũng được
tham gia kiểm soát và chống lại cướp biển ở
cả cấp khu vực và quốc tế. Đại Hội đồng
Liên Hợp Quốc thông qua Nghị quyết 64/71
đã kêu gọi các quốc gia thực hiện các biện
pháp thích hợp theo luật quốc gia của họ để
tạo điều kiện bắt giữ, truy tố những người bị
cáo buộc đã có hành vi cướp biển, kêu gọi tất
cả các quốc gia, hợp tác với IMO, để tích cực
chống cướp biển và cướp có vũ trang trên
biển bằng cách áp dụng các biện pháp và luật
pháp quốc gia.
Một số quốc gia đã tích cực triển khai
Nghị quyết 64/71 của Đại Hội đồng Liên
Hợp Quốc, tuy nhiên vẫn có ít quốc gia lại
không có động thái gì. Các quốc gia Đông
Phi bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi các hoạt
động cướp biển xảy ra ngoài khơi Somalia
vào năm 2010 đã sửa đổi luật Hình sự của họ
để phù hợp với Điều 101 của UNCLOS.
Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đã coi
vấn đề này là một vấn đề cấp bách. Thông
qua nghị quyết 2015 (2011) ngày
24/10/2011, đã quy định việc thành lập các
tòa án chống cướp biển chuyên biệt ở
Somalia, và các quốc gia khác trong khu vực
sẽ tình nguyện truy tố, xử lý những tên cướp
biển, với viện trợ của cộng đồng quốc tế.
Sterio [7] đề nghị rằng các quốc gia cung
cấp hỗ trợ cho hải quân, và hỗ trợ việc truy tố
những tên cướp biển bị bắt. Nhiều quốc gia
đang trong cuộc chiến chống cướp biển
thường sử dụng các quốc gia đối tác khác
trong khu vực như Kenya, Seychelles,
Tanzania và Mauritius để chuyển giao cướp
biển tiến hành truy tố. Do vị trí địa lý, Kenya,
Seychelles và Mauritius đã bị ảnh hưởng
đáng kể bởi nạn cướp biển. Các quốc gia
hàng hải ở Đông Phi và dọc theo bờ biển Ấn
Độ Dương đang sử dụng tòa án ở ba quốc gia
này để truy tố những tên cướp biển bị bắt.
Tầm quan trọng của hợp tác quốc tế
chống lại cướp biển còn được đề cập tại
Công ước, ngăn chặn các hành vi trái pháp
luật chống lại sự an toàn của hàng hải - Công
ước SUA (Convention for the Suppression of
Unlawful Acts Against the Safety of
96
Journal of Transportation Science and Technology, Vol 36, May 2020
Maritime Navigation). Điều 13 quy định rằng
các quốc gia thành viên sẽ hợp tác trong việc
ngăn chặn các hành vi phạm tội theo quy
định của công ước này.
4. Giải pháp quốc tế nhằm ngăn chặn
cướp biển Somalia
4.1. Giải pháp tăng cường hợp tác
tuần tra quốc tế
Để đối phó với sự gia tăng lớn của nạn
cướp biển ngoài khơi Somalia năm 2008,
một lực lượng hải quân quốc tế do NATO
(The North Atlantic Treaty Organization) và
Liên minh châu Âu dẫn đầu đã được thành
lập dưới sự bảo trợ của UNCLOS, để tuần tra
khu vực này và tăng cường an ninh bằng
cách triển khai tới hai mươi tàu chiến đến
khu vực này. Các cuộc tuần tra bao gồm hải
quân từ khoảng 20 quốc gia, được điều phối
bởi Hoa Kỳ. Liên minh châu Âu cũng đã gia
nhập lực lượng thông qua việc triển khai lực
lượng hải quân chung theo Chiến dịch
Atalanta.
Nhận thấy sự bất lực của Chính phủ liên
bang Somalia trong việc chống lại các hành
động cướp biển và hiểu các hành động cướp
biển là mối đe dọa đối với hòa bình và an
ninh quốc tế trong khu vực, Hội đồng Bảo an
Liên Hợp Quốc hợp tác với Chính phủ
Somalia quyết định can thiệp bằng cách vào
lãnh hải nước này để thực thi các hành động
chống cướp biển và cướp có vũ trang. Ngoài
ra, Chiến dịch Ocean Shield của NATO cũng
là một hợp tác quốc tế quan trọng để ngăn
chặn cướp biển.
Tuy nhiên, cũng có nhiều quan điểm
cũng như nghi vấn đặt ra đối với tính hiệu
quả và bền vững của các chiến dịch này. Nếu
lực lượng hải quân quyết định rút lui thì có
chắc chắn rằng hải tặc sẽ không thiết lập lại
hoạt động? Cho đến nay, các lực lượng đã
làm rất tốt trong việc loại bỏ những tên cướp
biển ở ngoài khơi Somalia, tuy nhiên chúng
lại mở rộng địa bàn hoạt động ra biển cả và
gần vùng lãnh hải của các quốc gia bao
quanh vùng vịnh và Tây Ấn Độ Dương. Liệu
các lực lượng này có thể mở rộng ra vùng
biển Tây Phi không?
4.2. Giải pháp tăng cường khung pháp
lý đối với cướp biển
Nghị quyết số 1838168 của Hội đồng
Bảo an Liên Hợp Quốc kêu gọi tất cả các
quốc gia có tàu thuyền hoạt động dọc theo
vịnh Aden cùng chung tay và áp dụng các lực
lượng quân sự, hợp tác pháp luật, tăng cường
khung pháp lý để đàn áp các hành vi cướp
biển trong khu vực; và nghị quyết số
2018169 kêu gọi sự phối hợp và hỗ trợ hậu
cần của cộng đồng quốc tế đối với các sáng
kiến an ninh khu vực nhằm kiểm soát các
hoạt động cướp biển đang gia tăng ở vùng
biển Tây Phi vịnh Guinea, cũng kêu gọi các
quốc gia thành viên tình nguyện truy tố pháp
luật những tên cướp biển bị bắt giữ đến đất
nước của mình.
Công ước UNCLOS 1982, không áp đặt
nghĩa vụ pháp lý cho các quốc gia hợp tác
với nhau để loại bỏ các hành vi cướp biển
trên toàn bộ khu vực biển, thay vào đó, họ
mong muốn hợp tác với các quốc gia một
cách đầy đủ nhất trên biển hoặc ở bất kỳ nơi
nào khác ngoài phạm vi quyền tài phán của
bất kỳ quốc gia nào. Vấn đề ở đây là các
nước chỉ muốn hợp tác chống lại cướp biển
xảy ra trên biển, các vấn đề khác thì lại
không. Do đó, có thể xảy ra trường hợp các
quốc gia sử dụng ý riêng của mình để hợp tác
chống lại cướp biển trong vùng biển tài phán
của một quốc gia. Điều này làm cho cuộc
chiến chống lại các hoạt động cướp biển trở
nên khó khăn hơn khi cướp biển có thể tấn
công một con tàu trong lãnh hải của một
quốc gia và trốn thoát sang lãnh hải của một
quốc gia khác. Các lực lượng quốc tế tham
gia chống cướp biển trên vùng biển Somalia,
có thể áp dụng pháp lý đang được sử dụng tại
khu vực này làm căn cứ để mở rộng hoạt
động của họ tới vùng biển Tây Phi - nơi
không có quốc gia nào có thẩm quyền đối với
vùng biển này. Tuy nhiên, do việc triển khai
lực lượng quốc tế không phải là một giải
pháp lâu dài [9], nên tốt hơn hết các quốc gia,
đặc biệt là Somalia nên tăng cường khung
pháp lý và tìm giải pháp cho các vấn đề kinh
tế xã hội được coi là nguồn gốc của các hoạt
động cướp biển tại quốc gia này.
5. Kết luận
Như vậy, đặc điểm của cướp biển
Somalia là cướp tàu, giam giữ các thủy thủ
để đòi tiền chuộc, tuy nhiên lại xuất hiện sự
TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ GIAO THÔNG VẬN TẢI, SỐ 36-05/2020
97
gia tăng bạo lực do thay đổi của cộng đồng
cướp biển, và do sự trả thù cho những tên
cướp đã tử mạng bởi lực lượng hải quân. Với
tình trạng chế độ chính trị không ổn định nên
chính phủ Somalia không thể xử lý tình trạng
cướp biển gia tăng tại đây. Các giải pháp của
cộng đồng quốc tế đã hạn chế được vấn nạn
cướp biển tại khu vực này. Tuy nhiên, cướp
biển lại có xu thế dịch chuyển sang khu vực
Tây Phi. Do vậy, những giải pháp hiệu quả
đã thực hiện tại khu vực Somalia có thể là bài
học để cộng đồng quốc tế và các quốc gia tại
khu vực Tây Phi cần xem xét nhằm tránh
xuất hiện một vấn nạn cướp biển mới tại khu
vực Tây Phi này
Tài liệu tham khảo
[1] ICC IMB (2015), ICC IMB Piracy and Armed
Robbery against Ships – 2014 Annual Report,
available at: ww.hellenicshippingnews.com/wp-
content/uploads/2015/01/2014-Annual-IMB-
PiracyReport-ABRIDGED.pdf;
[2] Ocean Beyond Piracy (2012), State of Maritime
Piracy 2012 Report, available at:
ww.oceanbeyondpiracy.org/sites/default/files/eco
p2012final_2.pdf;
[3] Mathew R. Walje, et al (2014), The State of
Maritime Piracy 2014 Report, Ocean beyond
Piracy page 20, available at:
ww.oceanbeyondpiracy.org;
[4] BBC News Online (2009), Somali pirates free
Greek ship with Ukrainian crew, available at:
news.bbc.co.uk/2/hi/europe8406303.stm;
[5] Ocean Beyond Piracy (2016), Reports of
2011 to 2015, available at:
[6] United Nations Office on Drugs and Crime
(2013), Transnational Organized Crime in
Eastern Africa: A threat Assessment, available
at: www.unodc.org/documents/data-and-
analysis/Studies/Toc_East_Africa_2013.pdf;
[7] Sterio, M (2012), Piracy off the coast of
Somalia: The argument for pirate prosecutions
in the national courts of Kenya, the Seychelles,
and Mauritius, Amsterdam Law Forum 42. Pp
112;
[8] Ashraf Ghazy (2012), the Suez Canal: The
Invaluable Shipping Shortcut, available at:
https://www.porttechnology.org/technicalpapers/
the_suez_canal_the_invaluable_shippingshortcut
[9] Devotha Edward Mandanda (2017), Maritime
Piracy in Africa: An assessment of its Legal
Effects and Control Measures taken at
International Level, Doctorate thesis, Dalian
Maritime University;
[10] Will Ross (2011), US deaths shows growing
pirate violence in hijackings, BBC News,
Nairobi. Available at:
www.bbc.com/news/world-us-canada-12548045;
[11] Old Sailor (2008), Somali Pirates: How Ransom
Collected is spent, ailable at:
pirates-how-ransom-collected-is-spent/;
[12] www.imo.com.
Ngày nhận bài: 27/2/2020
Ngày chuyển phản biện: 31/3/2020
Ngày hoàn thành sửa bài: 21/4/2020
Ngày chấp nhận đăng: 28/4/2020
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khung_phap_ly_va_giai_phap_quoc_te_nham_ngan_chan_cuop_bien.pdf