Kết quả nghiên cứu (bảng 2) thấy, khi tìm hiểu
kiến thức về lợi ích của việc NCBSM thì các bà mẹ
chủ yếu hiểu biết về tác dụng phòng chống bệnh
tật, giúp trẻ phát triển trí não tối ưu và giúp gắn bó
tình cảm mẹ con, tỷ lệ này lần lượt là 80%, 68% và
80% ở các bà mẹ. Các lợi ích khác như sữa mẹ dễ tiêu
hóa, dễ hấp thu, tiết kiệm kinh phí và thời gian, hay
những lợi ích đối với chính bản thân người mẹ cũng
được các bà mẹ biết đến nhưng tỷ lệ không nhiều.
Trong quá trình điều tra, khi hỏi các bà mẹ về
khái niệm bú mẹ hoàn toàn thì có 72,4% các bà mẹ
có hiểu biết đúng (biểu đồ 1) và có 163/250 bà mẹ
hiểu nên cho trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng
đầu. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê p<0,05
giữa kiến thức và thực hành về thời gian bú mẹ
hoàn toàn. Có 65,2% bà mẹ có con từ 6 - 24 tháng
tuổi hiểu nên cho trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6
tháng đầu, nhưng chỉ có 24% các bà mẹ làm được
như vậy. Tại sao lại có sự khác biệt đó? Tìm hiểu sâu
hơn chúng tôi thấy lý do chủ yếu cản trở các bà mẹ
không thể cho con bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng
đầu là do mẹ thiếu sữa, mất sữa, và mẹ muốn tập
cho trẻ ăn dặm sớm trước khi trẻ tròn 6 tháng
tuổi để chuẩn bị cho mẹ đi làm, và các bà mẹ sợ
trẻ không kịp thích nghi được ngay với chế độ ăn
mới. Theo báo cáo của Viện Dinh dưỡng (2010) tỷ
lệ trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu trên toàn
quốc là 19,6% [7]. Trong nghiên cứu này, tỷ lệ các
bà mẹ hiểu đúng về khái niệm bú mẹ hoàn toàn và
về thời gian bú mẹ hoàn toàn là tương đối cao. Tuy
nhiên, vẫn còn gần 30% các bà mẹ chưa biết hoặc
hiểu sai về khái niệm này và gần 35% quan niệm
sai về thời gian bú mẹ hoàn toàn, đây là những con
số không hề nhỏ.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 5 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kiến thức, thực hành nuôi con bằng sữa mẹ và ăn bổ sung của bà mẹ đang nuôi con dưới 24 tháng tuổi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tạp chí nhi khoa 2019, 12, 1
56
KIẾN THỨC, THỰC HÀNH NUÔI CON BẰNG SỮA MẸ VÀ ĂN BỔ SUNG
CỦA BÀ MẸ ĐANG NUÔI CON DƯỚI 24 THÁNG TUỔI
Lưu Thị Mỹ Thục*, Nguyễn Thị Thúy Hồng, Nguyễn Thị Hằng
* Bệnh viện Nhi Trung ương
TÓM TẮT
Nuôi con bằng sữa mẹ và ăn bổ sung hợp lý đảm bảo cho trẻ phát triển toàn diện về thể chất,
tâm thần, tăng cường miễn dịch giúp phòng ngừa suy dinh dưỡng, giảm khả năng mắc bệnh
nhất là bệnh lý hô hấp - tiêu hóa. Nghiên cứu tiến hành nhằm mục tiêu đánh giá kiến thức, thực
hành của bà mẹ về nuôi con bằng sữa mẹ và ăn bổ sung để từ đó đưa ra các truyền thông hướng
dẫn hợp lý để cải thiện sự cách nuôi dưỡng trẻ của các bà mẹ nhắm giúp cho trẻ có một chế độ
dinh dưỡng tối ưu. Phương pháp nghiên cứu là mô tả cắt ngang qua phỏng vấn 250 bà mẹ đang
nuôi con nhỏ từ 6-24 tháng tuổi tại phòng khám Dinh dưỡng Bệnh viện Nhi Trung ương. Kết quả
nghiên cứu thu được 65,2% bà mẹ hiểu được phải cho con bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu
nhưng chỉ có 24% bà mẹ cho con bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu. Có 72,4% bà mẹ biết được
thời điểm bắt đầu cho ăn bổ sung nhưng chỉ có 31,2% thực hành đúng và có 68,4% vẫn cho ăn
bổ sung sớm.
Từ khóa: Breastfeeding knowledge, Eating supplements knowledge
ABSTRACT
KNOwLeDGe, pRACTICING ABOUT BReAST-feeDING AND SUppLeMeNTARy feeDING
Of MOTHeRS HAVe CHILDReN fROM 6 TO 24 MONTHS
Breastfeeding and proper complementary feeding will ensure that children develop well both
physically and mentally and ruduce the occurrence of dangerous diseases such as malnutrition
and other infections. The study was performed to assess mothers’ knowledge and practicing about
breastfeeding and complementary feeding, thereby improving the understanding of mothers
about how to nurture children to help children have a proper diet. Descriptive cross-sectional study.
Interview 250 mothers with children 6-24 months go to examine at clinical nutrition department of
national hospital of pediatric. The results study obtained 65.2% of mothers understand that they have
to bring up their baby by exclusively breastfeeding in the first 6 months but only 24% of mothers did
that. 72.4% of mothers know when to start complementary feeding, but only 31.2% practice correctly
and 68.4% still give supplementary feeding early.
Nhận bài: 5-1-2019; Thẩm định: 15-1-2019; Chấp nhận: 25-1-2019
Người chịu trách nhiệm chính: Lưu Thị Mỹ Thục
Địa chỉ: Bệnh viện Nhi Trung ương; Email: luuthuc@gmail.com
57
phần nGhIÊn CỨU
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Dinh dưỡng sớm đặc biệt giai đoạn 1000 ngày
đầu đời (thời kỳ bào thai và 2 năm đầu tiên của
cuộc đời) đóng vai trò quan trọng cho sự phát
triển toàn diện của trẻ cũng như phòng ngừa
bệnh lý mạn tính ở giai đoạn trưởng thành. Trong
hai năm đầu đời, tốc độ tăng trưởng nhanh và sự
thay đổi phát triển thay đổi qua nhiều giai đoạn,
vì vậy cần thay đổi chế độ dinh dưỡng phù hợp
với sự phát triển qua từng giai đoạn. Sữa mẹ là
một món quà tuyệt vời mà tạo hóa đã ban tặng
cho người phụ nữ để nuôi nấng những đứa con
thân yêu ngay từ khi chào đời [1]. Nếu coi nuôi con
bằng sữa mẹ (NCBSM) hoàn toàn trong 6 tháng
đầu là giai đoạn đặt viên gạch đầu tiên, viên gạch
nền tảng cho một sự khởi đầu tốt nhất trong cuộc
đời của trẻ, thì đến giai đoạn ăn bổ sung (ĂBS) sẽ
là giai đoạn đặt tiếp viên gạch nền tảng thứ hai
giúp cho trẻ có một sự phát triển toàn diện.
Ăn bổ sung hợp lý sẽ đảm bảo cho trẻ phát
triển tốt cả về thể chất lẫn tinh thần, đồng thời
hạn chế mắc những bệnh nguy hiểm như suy
dinh dưỡng và các bệnh nhiễm khuẩn khác. Hơn
nữa, trẻ dưới 2 tuổi, suy dinh dưỡng (SDD) có thể
đe dọa tính mạng trẻ do gây suy yếu hệ miễn dịch
và làm cho trẻ dễ bị tử vong vì các bệnh thông
thường như tiêu chảy, viêm phổi [2].
Nguyên nhân gây SDD rất phức tạp bao gồm
các vấn đề như ô nhiễm môi trường, bệnh tật và
sự hạn chế về nhận thức, thực hành nuôi con của
các bà mẹ. Trong đó việc ĂBS chưa hợp lý là một
trong những nguyên nhân trực tiếp, nhưng có
thể can thiệp được thông qua các truyền thông
giáo dục dinh dưỡng cho bà mẹ [3], [4]. Những
nghiên cứu về dinh dưỡng gần đây cho thấy tỷ
lệ trẻ được bú mẹ tới 18 - 24 tháng tuổi và được
ĂBS hợp lý còn rất thấp. Nghiên cứu của Mai Thị
Tâm (2010) cho thấy tỷ lệ trẻ được bú mẹ tới 18 -
24 tháng tuổi thấp (34,9%) và có tới 62% trẻ ĂBS
sớm trước 6 tháng tuổi [5]. Báo cáo của Viện Dinh
dưỡng (2013), tỷ lệ trẻ tiếp tục được cho bú tới 24
tháng tuổi là 22,6%, bên cạnh đó tỷ lệ ăn bổ sung
chưa hợp lý cũng còn khá cao với tỷ lệ 33,6% [6].
Với mong muốn sẽ góp một phần nào đó thúc
đẩy chương trình NCBSM và thực hành cho trẻ
ĂBS được tốt hơn, đề tài nghiên cứu được tiến
hành với mục tiêu: Tìm hiểu kiến thức, thực hành
nuôi con bằng sữa mẹ và ăn bổ sung của các bà mẹ
có con từ 6 - 24 tháng tuổi.
2. pHƯƠNG pHÁp NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu: 250 bà mẹ đang
nuôi con nhỏ từ 6-24 tháng tuổi.
* Tiêu chuẩn chọn đối tượng: Bà mẹ của những
trẻ tuổi từ 6-24 tháng đến kiểm tra sức khỏe.
- Bà mẹ là người trực tiếp chăm sóc, nuôi
dưỡng trẻ.
- Trẻ không mắc bệnh cấp, mạn hay dị tật bẩm
sinh.
- Là trẻ bé nhất nếu bà mẹ có 2 trẻ từ 6 - 24
tháng tuổi.
- Các bà mẹ đồng ý tham gia nghiên cứu.
* Tiêu chuẩn loại trừ:
Bà mẹ không hợp tác, hay không nhớ thông
tin về trẻ.
2.2. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả,
tiến hành phỏng vấn trực tiếp 250 bà mẹ dựa theo
bộ câu hỏi về kiến thức và thực hành nuôi con
bằng sữa mẹ và cho ăn bổ sung đã chuẩn bị trước.
2.3. Thời gian nghiên cứu
10/2017- 10-/2018
2.4. Địa điểm nghiên cứu: Phòng khám Dinh
dưỡng- Bệnh viện Nhi trung ương.
2.5. Cỡ mẫu nghiên cứu
Áp dụng công thức sau:
Trong đó:
n: là cỡ mẫu nghiên cứu.. Z ( 1-α /2 ) : hệ số tin cậy
với độ tin cậy 95% ( =1,96)
p: tỷ lệ % bà mẹ cho trẻ bú mẹ trong vòng 6
tháng đầu là 19,6% (theo báo cáo của Viện Dinh
dưỡng năm 2010) => p = 0,196 => q = 1 - p = 0,804.
d: sai số cho phép ( = 5%). Thay vào công thức
trên ta có n = 242≈ 250. Như vậy cỡ mẫu nghiên
cứu là 250.
2
2
)2/1( d
qpZn ×= −α
tạp chí nhi khoa 2019, 12, 1
58
2.6. Công cụ thu thập thông tin và xử lý số liệu
Bộ câu hỏi được thiết kế sẵn để phỏng vấn
trực tiếp các bà mẹ có con từ 6 - 24 tháng tuổi. Bộ
câu hỏi này đã được thử nghiệm tại phòng khám
Dinh dưỡng Bệnh viện Nhi Trung ương và chỉnh
sửa hoàn chỉnh cho phù hợp với mục tiêu nghiên
cứu. Sau khi thu thập thông tin, các số liệu sẽ
được kiểm tra, nhập và xử lý trên phần mềm SPSS
20.0. Sử dụng các phương pháp thống kê thông
thường: tính tỷ lệ phần trăm.
3. KẾT qUả NGHIÊN CỨU
Bảng 1. Thông tin chung về các bà mẹ tham gia nghiên cứu.
Thông tin Các chỉ số n %
Tuổi
< 18 tuổi 0 0
18 – 35 tuổi 226 90,4
> 35 tuổi 24 9,6
Trình độ học vấn
Mù chữ 0 0
Trình độ cấp I 7 2,8
Trình độ cấp II 67 26,8
Trình độ cấp III 61 24,4
Trung cấp / Đại học 115 46
Nghề nghiệp
Làm ruộng, nội trợ 180 72
Công chức, viên chức 70 28
Dân tộc
Kinh 244 97,6
Khác 6 2,4
Số con trong gia đình
1 – 2 con 225 90
>2 25 10
Nhận xét: Các bà mẹ tham gia nghiên cứu chủ yếu ở độ tuổi từ 18-35 tuổi (90,4%). Trình độ văn
hoá của bà mẹ chủ yếu là từ phổ thông trung học trở lên (70,4%), không có bà mẹ nào mù chữ. Nghề
nghiệp chính của các bà mẹ là làm ruộng và nội trợ (72%). Hầu hết các bà mẹ tham gia nghiên cứu là
dân tộc kinh (97,6%) và chỉ sinh 1 đến 2 con (90%).
Bảng 2. Kiến thức của bà mẹ về lợi ích của NCBSM
Lợi ích NCBSM n %
Lợi ích cho con
Dễ tiêu hóa, dễ hấp thu 93 37,3
Phòng chống bệnh tật 200 80
Giúp trẻ phát triển trí não tối ưu 170 68
Lợi ích cho mẹ
Gắn bó tình cảm mẹ con 200 80
Giảm nguy cơ mắc bệnh cho mẹ 93 37,2
Là phương pháp giúp KHHGĐ 164 65,6
Lấy lại vóc dáng sau sinh 65 26
Lợi ích cho GĐ, XH Tiết kiệm, giảm chi phí y tế 116 46,4
Không biết 20 8
KHHGĐ: Kế hoạch hóa gia đình; GĐ: Gia đình; XH: Xã hội
Nhận xét: Hầu hết các bà mẹ hiểu rằng nuôi con bằng sữa mẹ giúp trẻ phòng chống được bệnh tật.
Chỉ có 8% các bà mẹ là không biết về các lợi ích đó.
59
phần nGhIÊn CỨU
Bảng 3. Kiến thức và thực hành về thời điểm cho trẻ bú trong ngày
Thời điểm
Kiến thức Thực hành
n % n %
Theo nhu cầu của trẻ
(Bất cứ lúc nào trẻ muốn)
181 72,4 176 70,4
Theo nhu cầu của trẻ
(Theo số bữa bú/nhóm tuổi)
68 27,2 16 6,4
Không biết/Không nhớ 1 0,4 58 23,2
Tổng 250 100 250 100
Nhận xét: Kiến thức của bà mẹ hiểu đúng về thời điểm và số lần cho trẻ bú trong ngày còn thấp
(27,2%). Chỉ có 6,4% các bà mẹ thực hành đúng về thời điểm cho con bú. Có sự khác biệt rõ rệt giữa
kiến thức và thực hành của các bà mẹ về thời điểm cho con bú trong ngày (với p<0,05).
Biểu đồ 1. Kiến thức và thực hành của bà mẹ về thời gian cho trẻ bú mẹ hoàn toàn
Nhận xét: Kiến thức của bà mẹ hiểu đúng về thời gian nên cho trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng
đầu là 65,2%. Thực tế chỉ có 24% bà mẹ cho trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu. Như vậy, có sự
khác biệt rõ rệt giữa kiến thức và thực hành của các bà mẹ về thời gian cho trẻ bú mẹ hoàn toàn.
tạp chí nhi khoa 2019, 12, 1
60
Biểu đồ 2. Kiến thức và thực hành của bà mẹ về thời điểm bắt đầu cho trẻ ăn bổ sung
Nhận xét: Phần lớn các bà mẹ hiểu đúng trẻ cần được ĂBS khi được 6 tháng tuổi (72,4%), có 21,2%
bà mẹ cho rằng nên cho trẻ ăn sớm trước 6 tháng tuổi. Tuy nhiên, chỉ có 31,2% các bà mẹ thực hành
đúng về thời điểm bắt đầu cho trẻ ĂBS, 68,4% bà mẹ cho con ăn bổ sung sớm.
Bảng 4. Lý do các bà mẹ cho trẻ ăn bổ sung sớm trước 6 tháng
Lý do n %
Mẹ thiếu sữa 128 51,2
Mẹ phải đi làm 68 27,2
Trẻ đủ no, cứng cáp 60 24
Ăn cho đủ chất 85 34
Nhận xét: Lý do trẻ ĂBS sớm chủ yếu là do mẹ thiếu sữa (51,2%) hoặc lo trẻ bú mẹ không đủ chất
(34%), mẹ phải đi làm (27,2%).
4. BÀN LUậN
Kết quả nghiên cứu (bảng 2) thấy, khi tìm hiểu
kiến thức về lợi ích của việc NCBSM thì các bà mẹ
chủ yếu hiểu biết về tác dụng phòng chống bệnh
tật, giúp trẻ phát triển trí não tối ưu và giúp gắn bó
tình cảm mẹ con, tỷ lệ này lần lượt là 80%, 68% và
80% ở các bà mẹ. Các lợi ích khác như sữa mẹ dễ tiêu
hóa, dễ hấp thu, tiết kiệm kinh phí và thời gian, hay
những lợi ích đối với chính bản thân người mẹ cũng
được các bà mẹ biết đến nhưng tỷ lệ không nhiều.
Trong quá trình điều tra, khi hỏi các bà mẹ về
khái niệm bú mẹ hoàn toàn thì có 72,4% các bà mẹ
có hiểu biết đúng (biểu đồ 1) và có 163/250 bà mẹ
hiểu nên cho trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng
đầu. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê p<0,05
giữa kiến thức và thực hành về thời gian bú mẹ
hoàn toàn. Có 65,2% bà mẹ có con từ 6 - 24 tháng
tuổi hiểu nên cho trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6
tháng đầu, nhưng chỉ có 24% các bà mẹ làm được
như vậy. Tại sao lại có sự khác biệt đó? Tìm hiểu sâu
hơn chúng tôi thấy lý do chủ yếu cản trở các bà mẹ
không thể cho con bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng
đầu là do mẹ thiếu sữa, mất sữa, và mẹ muốn tập
cho trẻ ăn dặm sớm trước khi trẻ tròn 6 tháng
tuổi để chuẩn bị cho mẹ đi làm, và các bà mẹ sợ
trẻ không kịp thích nghi được ngay với chế độ ăn
mới. Theo báo cáo của Viện Dinh dưỡng (2010) tỷ
61
phần nGhIÊn CỨU
lệ trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu trên toàn
quốc là 19,6% [7]. Trong nghiên cứu này, tỷ lệ các
bà mẹ hiểu đúng về khái niệm bú mẹ hoàn toàn và
về thời gian bú mẹ hoàn toàn là tương đối cao. Tuy
nhiên, vẫn còn gần 30% các bà mẹ chưa biết hoặc
hiểu sai về khái niệm này và gần 35% quan niệm
sai về thời gian bú mẹ hoàn toàn, đây là những con
số không hề nhỏ.
Về kiến thức (biểu đồ 2), đa số các bà mẹ
cho rằng nên cho trẻ ĂBS lúc 6 tháng tuổi, chỉ
có 21,2% bà mẹ cho rằng nên cho trẻ ăn trước 6
tháng. Nhưng về thực hành, thấy tỷ lệ ĂBS khá
sớm, có tới 68,4% bà mẹ cho trẻ ĂBS trước 6
tháng tuổi và chỉ có 31,2% số trẻ được ĂBS đúng
thời điểm. So với các nghiên cứu của Phạm Thị
Thanh Thủy (2014) cho thấy tỷ lệ trẻ ĂBS trước
6 tháng là 60,6% và 32,3% bà mẹ đã cho trẻ ăn
theo đúng khuyến cáo [8]. Nghiên cứu của Trần
Thị Tuyết Mai (2011) cho thấy tỷ lệ trẻ được ĂBS
đúng thời điểm và ăn trước 6 tháng lần lượt là
35,2% và 64,8% [9]. Việc cho trẻ ĂBS sớm trong
những tháng đầu sẽ làm trẻ bỏ dần bú mẹ. Do đó
lguồn sữa mẹ, vốn là thức ăn tốt nhất, đầy đủ chất
dinh dưỡng nhất đối với trẻ < 1 tuổi bị giảm đi.
Hơn nữa, lúc này bộ máy tiêu hóa của trẻ chưa
hoàn chỉnh về các chức năng tiêu hóa, hấp thu,
khả năng miễn dịch của trẻ còn hạn chế nên việc
cho trẻ ĂBS sớm, không đúng cách sẽ ảnh hưởng
đến sự phát triển của trẻ. Lý do cho trẻ ăn bổ sung
trước 6 tháng trong kết quả ở bảng 4 chủ yếu là
mẹ thiếu sữa là 51,2% và cho trẻ ăn để trẻ đủ chất
(34%). Nguyên nhân của việc bà mẹ cho trẻ ĂBS
sớm một số là do: đối với các bà mẹ làm ruộng/
nội trợ trở lại làm việc sau khi sinh sớm vì “tham
công tiếc việc”, đối với các bà mẹ công nhân viên
chức dù thời gian được nghỉ sau sinh đến 6 tháng
chiếm tới 88.8% nhưng vì trong suy nghĩ của họ
vẫn còn những quan niệm sai lầm và lạc hậu như
cho trẻ ăn sớm để trẻ cứng cáp hơn hoặc để trẻ
có thể làm quen với thức ăn sớm trước khi mẹ đi
làm, Vì thế, mà cho con ăn dặm khi chưa đủ 6
tháng tuổi là giải pháp lựa chọn của nhiều bà mẹ.
5. KẾT LUậN
Kết quả nghiên cứu thu được 65,2% bà mẹ
hiểu được phải cho con bú mẹ hoàn toàn trong
6 tháng đầu nhưng chỉ có 24% bà mẹ cho con bú
mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu. Có 72,4% bà
mẹ biết được thời điểm bắt đầu cho ăn bổ sung
nhưng chỉ có 31,2% thực hành đúng và có 68,4%
vẫn cho ăn bổ sung sớm. Như vậy việc thực hiện
đúng chế độ ăn của các bà mẹ có con từ 6- 24
tháng còn rất hạn chế vì vậy cần phải nâng cao
hơn nữa về kiến thức cũng như thực hành dinh
dưỡng của các bà mẹ có con trong độ tuổi này.
TÀI LIỆU THAM KHảO
1. phạm Thị Tâm Khê (2009), Khảo sát kiến
thức, thái độ thực hành về nuôi con bằng sữa mẹ
của các bà mẹ sau khi sinh tại khoa Sản Bệnh viện
Trường Đại học Y Dược Huế, Khóa luận tốt nghiệp
Cử nhân Phụ Sản, Trường Đại học Y Dược Huế.
2. Shroeder D, and Brown KH, (1994), Nutritional
status as a predictor of child survival: summarizing
the association and quantifying its global- impact
Bull WHO, 569-579.
3. Keyou. Ge. (1995). Dietary intake and
physical development in China based on the
1992 Nutritional Nutrition survey. Asia Pacific
journal of clinical nutrition supp, No 1, 19-23.
4. pAHO- wHO (2002), Guiding principles for
complementary feeding of the breastfed child,
Washington DC, PAN American Health Organnization -
World Health Organnization.
5. Mai Thị Tâm (2010), Thực trạng nuôi con
bằng sữa mẹ và ăn bổ sung của các bà mẹ có con
dưới 2 tuổi, Luận văn thạc sĩ Y học, Hà Nội.
6. Viện Dinh dưỡng, UNICef (2013), Giám sát
điều tra dinh dưỡng 2013, Viện Dinh dưỡng, Hà Nội.
7. Viện Dinh Dưỡng và UNICef (2011), Tình
hình dinh dưỡng Việt Nam 2009 - 2010, Nhà xuất
bản Y học.
8. phạm Thị Thanh Thủy (2014), Thực trạng
nuôi con bằng sữa mẹ ở các bà mẹ có con dưới
2 tuổi tại khoa Nhi Bệnh viện Saint Paul, Hà Nội,
Khóa luận tốt nghiệp bác sĩ đa khoa, Trường Đại
học Y Hà Nội.
9. Trần Thị Tuyết Mai (2013), Xây dựng và
đánh giá hiệu quả mô hình truyền thông đa dạng
tại tuyến y tế cơ sở trong phòng chống suy dinh
dưỡng trẻ em tỉnh Khánh Hòa, Luận văn Tiến sĩ y
tế công cộng.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
kien_thuc_thuc_hanh_nuoi_con_bang_sua_me_va_an_bo_sung_cua_b.pdf