Kiến thức, thực hành nuôi con bằng sữa mẹ và ăn bổ sung của bà mẹ đang nuôi con dưới 24 tháng tuổi

Kết quả nghiên cứu (bảng 2) thấy, khi tìm hiểu kiến thức về lợi ích của việc NCBSM thì các bà mẹ chủ yếu hiểu biết về tác dụng phòng chống bệnh tật, giúp trẻ phát triển trí não tối ưu và giúp gắn bó tình cảm mẹ con, tỷ lệ này lần lượt là 80%, 68% và 80% ở các bà mẹ. Các lợi ích khác như sữa mẹ dễ tiêu hóa, dễ hấp thu, tiết kiệm kinh phí và thời gian, hay những lợi ích đối với chính bản thân người mẹ cũng được các bà mẹ biết đến nhưng tỷ lệ không nhiều. Trong quá trình điều tra, khi hỏi các bà mẹ về khái niệm bú mẹ hoàn toàn thì có 72,4% các bà mẹ có hiểu biết đúng (biểu đồ 1) và có 163/250 bà mẹ hiểu nên cho trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê p<0,05 giữa kiến thức và thực hành về thời gian bú mẹ hoàn toàn. Có 65,2% bà mẹ có con từ 6 - 24 tháng tuổi hiểu nên cho trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu, nhưng chỉ có 24% các bà mẹ làm được như vậy. Tại sao lại có sự khác biệt đó? Tìm hiểu sâu hơn chúng tôi thấy lý do chủ yếu cản trở các bà mẹ không thể cho con bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu là do mẹ thiếu sữa, mất sữa, và mẹ muốn tập cho trẻ ăn dặm sớm trước khi trẻ tròn 6 tháng tuổi để chuẩn bị cho mẹ đi làm, và các bà mẹ sợ trẻ không kịp thích nghi được ngay với chế độ ăn mới. Theo báo cáo của Viện Dinh dưỡng (2010) tỷ lệ trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu trên toàn quốc là 19,6% [7]. Trong nghiên cứu này, tỷ lệ các bà mẹ hiểu đúng về khái niệm bú mẹ hoàn toàn và về thời gian bú mẹ hoàn toàn là tương đối cao. Tuy nhiên, vẫn còn gần 30% các bà mẹ chưa biết hoặc hiểu sai về khái niệm này và gần 35% quan niệm sai về thời gian bú mẹ hoàn toàn, đây là những con số không hề nhỏ.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 5 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kiến thức, thực hành nuôi con bằng sữa mẹ và ăn bổ sung của bà mẹ đang nuôi con dưới 24 tháng tuổi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tạp chí nhi khoa 2019, 12, 1 56 KIẾN THỨC, THỰC HÀNH NUÔI CON BẰNG SỮA MẸ VÀ ĂN BỔ SUNG CỦA BÀ MẸ ĐANG NUÔI CON DƯỚI 24 THÁNG TUỔI Lưu Thị Mỹ Thục*, Nguyễn Thị Thúy Hồng, Nguyễn Thị Hằng * Bệnh viện Nhi Trung ương TÓM TẮT Nuôi con bằng sữa mẹ và ăn bổ sung hợp lý đảm bảo cho trẻ phát triển toàn diện về thể chất, tâm thần, tăng cường miễn dịch giúp phòng ngừa suy dinh dưỡng, giảm khả năng mắc bệnh nhất là bệnh lý hô hấp - tiêu hóa. Nghiên cứu tiến hành nhằm mục tiêu đánh giá kiến thức, thực hành của bà mẹ về nuôi con bằng sữa mẹ và ăn bổ sung để từ đó đưa ra các truyền thông hướng dẫn hợp lý để cải thiện sự cách nuôi dưỡng trẻ của các bà mẹ nhắm giúp cho trẻ có một chế độ dinh dưỡng tối ưu. Phương pháp nghiên cứu là mô tả cắt ngang qua phỏng vấn 250 bà mẹ đang nuôi con nhỏ từ 6-24 tháng tuổi tại phòng khám Dinh dưỡng Bệnh viện Nhi Trung ương. Kết quả nghiên cứu thu được 65,2% bà mẹ hiểu được phải cho con bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu nhưng chỉ có 24% bà mẹ cho con bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu. Có 72,4% bà mẹ biết được thời điểm bắt đầu cho ăn bổ sung nhưng chỉ có 31,2% thực hành đúng và có 68,4% vẫn cho ăn bổ sung sớm. Từ khóa: Breastfeeding knowledge, Eating supplements knowledge ABSTRACT KNOwLeDGe, pRACTICING ABOUT BReAST-feeDING AND SUppLeMeNTARy feeDING Of MOTHeRS HAVe CHILDReN fROM 6 TO 24 MONTHS Breastfeeding and proper complementary feeding will ensure that children develop well both physically and mentally and ruduce the occurrence of dangerous diseases such as malnutrition and other infections. The study was performed to assess mothers’ knowledge and practicing about breastfeeding and complementary feeding, thereby improving the understanding of mothers about how to nurture children to help children have a proper diet. Descriptive cross-sectional study. Interview 250 mothers with children 6-24 months go to examine at clinical nutrition department of national hospital of pediatric. The results study obtained 65.2% of mothers understand that they have to bring up their baby by exclusively breastfeeding in the first 6 months but only 24% of mothers did that. 72.4% of mothers know when to start complementary feeding, but only 31.2% practice correctly and 68.4% still give supplementary feeding early. Nhận bài: 5-1-2019; Thẩm định: 15-1-2019; Chấp nhận: 25-1-2019 Người chịu trách nhiệm chính: Lưu Thị Mỹ Thục Địa chỉ: Bệnh viện Nhi Trung ương; Email: luuthuc@gmail.com 57 phần nGhIÊn CỨU 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Dinh dưỡng sớm đặc biệt giai đoạn 1000 ngày đầu đời (thời kỳ bào thai và 2 năm đầu tiên của cuộc đời) đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển toàn diện của trẻ cũng như phòng ngừa bệnh lý mạn tính ở giai đoạn trưởng thành. Trong hai năm đầu đời, tốc độ tăng trưởng nhanh và sự thay đổi phát triển thay đổi qua nhiều giai đoạn, vì vậy cần thay đổi chế độ dinh dưỡng phù hợp với sự phát triển qua từng giai đoạn. Sữa mẹ là một món quà tuyệt vời mà tạo hóa đã ban tặng cho người phụ nữ để nuôi nấng những đứa con thân yêu ngay từ khi chào đời [1]. Nếu coi nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) hoàn toàn trong 6 tháng đầu là giai đoạn đặt viên gạch đầu tiên, viên gạch nền tảng cho một sự khởi đầu tốt nhất trong cuộc đời của trẻ, thì đến giai đoạn ăn bổ sung (ĂBS) sẽ là giai đoạn đặt tiếp viên gạch nền tảng thứ hai giúp cho trẻ có một sự phát triển toàn diện. Ăn bổ sung hợp lý sẽ đảm bảo cho trẻ phát triển tốt cả về thể chất lẫn tinh thần, đồng thời hạn chế mắc những bệnh nguy hiểm như suy dinh dưỡng và các bệnh nhiễm khuẩn khác. Hơn nữa, trẻ dưới 2 tuổi, suy dinh dưỡng (SDD) có thể đe dọa tính mạng trẻ do gây suy yếu hệ miễn dịch và làm cho trẻ dễ bị tử vong vì các bệnh thông thường như tiêu chảy, viêm phổi [2]. Nguyên nhân gây SDD rất phức tạp bao gồm các vấn đề như ô nhiễm môi trường, bệnh tật và sự hạn chế về nhận thức, thực hành nuôi con của các bà mẹ. Trong đó việc ĂBS chưa hợp lý là một trong những nguyên nhân trực tiếp, nhưng có thể can thiệp được thông qua các truyền thông giáo dục dinh dưỡng cho bà mẹ [3], [4]. Những nghiên cứu về dinh dưỡng gần đây cho thấy tỷ lệ trẻ được bú mẹ tới 18 - 24 tháng tuổi và được ĂBS hợp lý còn rất thấp. Nghiên cứu của Mai Thị Tâm (2010) cho thấy tỷ lệ trẻ được bú mẹ tới 18 - 24 tháng tuổi thấp (34,9%) và có tới 62% trẻ ĂBS sớm trước 6 tháng tuổi [5]. Báo cáo của Viện Dinh dưỡng (2013), tỷ lệ trẻ tiếp tục được cho bú tới 24 tháng tuổi là 22,6%, bên cạnh đó tỷ lệ ăn bổ sung chưa hợp lý cũng còn khá cao với tỷ lệ 33,6% [6]. Với mong muốn sẽ góp một phần nào đó thúc đẩy chương trình NCBSM và thực hành cho trẻ ĂBS được tốt hơn, đề tài nghiên cứu được tiến hành với mục tiêu: Tìm hiểu kiến thức, thực hành nuôi con bằng sữa mẹ và ăn bổ sung của các bà mẹ có con từ 6 - 24 tháng tuổi. 2. pHƯƠNG pHÁp NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng nghiên cứu: 250 bà mẹ đang nuôi con nhỏ từ 6-24 tháng tuổi. * Tiêu chuẩn chọn đối tượng: Bà mẹ của những trẻ tuổi từ 6-24 tháng đến kiểm tra sức khỏe. - Bà mẹ là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ. - Trẻ không mắc bệnh cấp, mạn hay dị tật bẩm sinh. - Là trẻ bé nhất nếu bà mẹ có 2 trẻ từ 6 - 24 tháng tuổi. - Các bà mẹ đồng ý tham gia nghiên cứu. * Tiêu chuẩn loại trừ: Bà mẹ không hợp tác, hay không nhớ thông tin về trẻ. 2.2. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả, tiến hành phỏng vấn trực tiếp 250 bà mẹ dựa theo bộ câu hỏi về kiến thức và thực hành nuôi con bằng sữa mẹ và cho ăn bổ sung đã chuẩn bị trước. 2.3. Thời gian nghiên cứu 10/2017- 10-/2018 2.4. Địa điểm nghiên cứu: Phòng khám Dinh dưỡng- Bệnh viện Nhi trung ương. 2.5. Cỡ mẫu nghiên cứu Áp dụng công thức sau: Trong đó: n: là cỡ mẫu nghiên cứu.. Z ( 1-α /2 ) : hệ số tin cậy với độ tin cậy 95% ( =1,96) p: tỷ lệ % bà mẹ cho trẻ bú mẹ trong vòng 6 tháng đầu là 19,6% (theo báo cáo của Viện Dinh dưỡng năm 2010) => p = 0,196 => q = 1 - p = 0,804. d: sai số cho phép ( = 5%). Thay vào công thức trên ta có n = 242≈ 250. Như vậy cỡ mẫu nghiên cứu là 250. 2 2 )2/1( d qpZn ×= −α tạp chí nhi khoa 2019, 12, 1 58 2.6. Công cụ thu thập thông tin và xử lý số liệu Bộ câu hỏi được thiết kế sẵn để phỏng vấn trực tiếp các bà mẹ có con từ 6 - 24 tháng tuổi. Bộ câu hỏi này đã được thử nghiệm tại phòng khám Dinh dưỡng Bệnh viện Nhi Trung ương và chỉnh sửa hoàn chỉnh cho phù hợp với mục tiêu nghiên cứu. Sau khi thu thập thông tin, các số liệu sẽ được kiểm tra, nhập và xử lý trên phần mềm SPSS 20.0. Sử dụng các phương pháp thống kê thông thường: tính tỷ lệ phần trăm. 3. KẾT qUả NGHIÊN CỨU Bảng 1. Thông tin chung về các bà mẹ tham gia nghiên cứu. Thông tin Các chỉ số n % Tuổi < 18 tuổi 0 0 18 – 35 tuổi 226 90,4 > 35 tuổi 24 9,6 Trình độ học vấn Mù chữ 0 0 Trình độ cấp I 7 2,8 Trình độ cấp II 67 26,8 Trình độ cấp III 61 24,4 Trung cấp / Đại học 115 46 Nghề nghiệp Làm ruộng, nội trợ 180 72 Công chức, viên chức 70 28 Dân tộc Kinh 244 97,6 Khác 6 2,4 Số con trong gia đình 1 – 2 con 225 90 >2 25 10 Nhận xét: Các bà mẹ tham gia nghiên cứu chủ yếu ở độ tuổi từ 18-35 tuổi (90,4%). Trình độ văn hoá của bà mẹ chủ yếu là từ phổ thông trung học trở lên (70,4%), không có bà mẹ nào mù chữ. Nghề nghiệp chính của các bà mẹ là làm ruộng và nội trợ (72%). Hầu hết các bà mẹ tham gia nghiên cứu là dân tộc kinh (97,6%) và chỉ sinh 1 đến 2 con (90%). Bảng 2. Kiến thức của bà mẹ về lợi ích của NCBSM Lợi ích NCBSM n % Lợi ích cho con Dễ tiêu hóa, dễ hấp thu 93 37,3 Phòng chống bệnh tật 200 80 Giúp trẻ phát triển trí não tối ưu 170 68 Lợi ích cho mẹ Gắn bó tình cảm mẹ con 200 80 Giảm nguy cơ mắc bệnh cho mẹ 93 37,2 Là phương pháp giúp KHHGĐ 164 65,6 Lấy lại vóc dáng sau sinh 65 26 Lợi ích cho GĐ, XH Tiết kiệm, giảm chi phí y tế 116 46,4 Không biết 20 8 KHHGĐ: Kế hoạch hóa gia đình; GĐ: Gia đình; XH: Xã hội Nhận xét: Hầu hết các bà mẹ hiểu rằng nuôi con bằng sữa mẹ giúp trẻ phòng chống được bệnh tật. Chỉ có 8% các bà mẹ là không biết về các lợi ích đó. 59 phần nGhIÊn CỨU Bảng 3. Kiến thức và thực hành về thời điểm cho trẻ bú trong ngày Thời điểm Kiến thức Thực hành n % n % Theo nhu cầu của trẻ (Bất cứ lúc nào trẻ muốn) 181 72,4 176 70,4 Theo nhu cầu của trẻ (Theo số bữa bú/nhóm tuổi) 68 27,2 16 6,4 Không biết/Không nhớ 1 0,4 58 23,2 Tổng 250 100 250 100 Nhận xét: Kiến thức của bà mẹ hiểu đúng về thời điểm và số lần cho trẻ bú trong ngày còn thấp (27,2%). Chỉ có 6,4% các bà mẹ thực hành đúng về thời điểm cho con bú. Có sự khác biệt rõ rệt giữa kiến thức và thực hành của các bà mẹ về thời điểm cho con bú trong ngày (với p<0,05). Biểu đồ 1. Kiến thức và thực hành của bà mẹ về thời gian cho trẻ bú mẹ hoàn toàn Nhận xét: Kiến thức của bà mẹ hiểu đúng về thời gian nên cho trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu là 65,2%. Thực tế chỉ có 24% bà mẹ cho trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu. Như vậy, có sự khác biệt rõ rệt giữa kiến thức và thực hành của các bà mẹ về thời gian cho trẻ bú mẹ hoàn toàn. tạp chí nhi khoa 2019, 12, 1 60 Biểu đồ 2. Kiến thức và thực hành của bà mẹ về thời điểm bắt đầu cho trẻ ăn bổ sung Nhận xét: Phần lớn các bà mẹ hiểu đúng trẻ cần được ĂBS khi được 6 tháng tuổi (72,4%), có 21,2% bà mẹ cho rằng nên cho trẻ ăn sớm trước 6 tháng tuổi. Tuy nhiên, chỉ có 31,2% các bà mẹ thực hành đúng về thời điểm bắt đầu cho trẻ ĂBS, 68,4% bà mẹ cho con ăn bổ sung sớm. Bảng 4. Lý do các bà mẹ cho trẻ ăn bổ sung sớm trước 6 tháng Lý do n % Mẹ thiếu sữa 128 51,2 Mẹ phải đi làm 68 27,2 Trẻ đủ no, cứng cáp 60 24 Ăn cho đủ chất 85 34 Nhận xét: Lý do trẻ ĂBS sớm chủ yếu là do mẹ thiếu sữa (51,2%) hoặc lo trẻ bú mẹ không đủ chất (34%), mẹ phải đi làm (27,2%). 4. BÀN LUậN Kết quả nghiên cứu (bảng 2) thấy, khi tìm hiểu kiến thức về lợi ích của việc NCBSM thì các bà mẹ chủ yếu hiểu biết về tác dụng phòng chống bệnh tật, giúp trẻ phát triển trí não tối ưu và giúp gắn bó tình cảm mẹ con, tỷ lệ này lần lượt là 80%, 68% và 80% ở các bà mẹ. Các lợi ích khác như sữa mẹ dễ tiêu hóa, dễ hấp thu, tiết kiệm kinh phí và thời gian, hay những lợi ích đối với chính bản thân người mẹ cũng được các bà mẹ biết đến nhưng tỷ lệ không nhiều. Trong quá trình điều tra, khi hỏi các bà mẹ về khái niệm bú mẹ hoàn toàn thì có 72,4% các bà mẹ có hiểu biết đúng (biểu đồ 1) và có 163/250 bà mẹ hiểu nên cho trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê p<0,05 giữa kiến thức và thực hành về thời gian bú mẹ hoàn toàn. Có 65,2% bà mẹ có con từ 6 - 24 tháng tuổi hiểu nên cho trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu, nhưng chỉ có 24% các bà mẹ làm được như vậy. Tại sao lại có sự khác biệt đó? Tìm hiểu sâu hơn chúng tôi thấy lý do chủ yếu cản trở các bà mẹ không thể cho con bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu là do mẹ thiếu sữa, mất sữa, và mẹ muốn tập cho trẻ ăn dặm sớm trước khi trẻ tròn 6 tháng tuổi để chuẩn bị cho mẹ đi làm, và các bà mẹ sợ trẻ không kịp thích nghi được ngay với chế độ ăn mới. Theo báo cáo của Viện Dinh dưỡng (2010) tỷ 61 phần nGhIÊn CỨU lệ trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu trên toàn quốc là 19,6% [7]. Trong nghiên cứu này, tỷ lệ các bà mẹ hiểu đúng về khái niệm bú mẹ hoàn toàn và về thời gian bú mẹ hoàn toàn là tương đối cao. Tuy nhiên, vẫn còn gần 30% các bà mẹ chưa biết hoặc hiểu sai về khái niệm này và gần 35% quan niệm sai về thời gian bú mẹ hoàn toàn, đây là những con số không hề nhỏ. Về kiến thức (biểu đồ 2), đa số các bà mẹ cho rằng nên cho trẻ ĂBS lúc 6 tháng tuổi, chỉ có 21,2% bà mẹ cho rằng nên cho trẻ ăn trước 6 tháng. Nhưng về thực hành, thấy tỷ lệ ĂBS khá sớm, có tới 68,4% bà mẹ cho trẻ ĂBS trước 6 tháng tuổi và chỉ có 31,2% số trẻ được ĂBS đúng thời điểm. So với các nghiên cứu của Phạm Thị Thanh Thủy (2014) cho thấy tỷ lệ trẻ ĂBS trước 6 tháng là 60,6% và 32,3% bà mẹ đã cho trẻ ăn theo đúng khuyến cáo [8]. Nghiên cứu của Trần Thị Tuyết Mai (2011) cho thấy tỷ lệ trẻ được ĂBS đúng thời điểm và ăn trước 6 tháng lần lượt là 35,2% và 64,8% [9]. Việc cho trẻ ĂBS sớm trong những tháng đầu sẽ làm trẻ bỏ dần bú mẹ. Do đó lguồn sữa mẹ, vốn là thức ăn tốt nhất, đầy đủ chất dinh dưỡng nhất đối với trẻ < 1 tuổi bị giảm đi. Hơn nữa, lúc này bộ máy tiêu hóa của trẻ chưa hoàn chỉnh về các chức năng tiêu hóa, hấp thu, khả năng miễn dịch của trẻ còn hạn chế nên việc cho trẻ ĂBS sớm, không đúng cách sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ. Lý do cho trẻ ăn bổ sung trước 6 tháng trong kết quả ở bảng 4 chủ yếu là mẹ thiếu sữa là 51,2% và cho trẻ ăn để trẻ đủ chất (34%). Nguyên nhân của việc bà mẹ cho trẻ ĂBS sớm một số là do: đối với các bà mẹ làm ruộng/ nội trợ trở lại làm việc sau khi sinh sớm vì “tham công tiếc việc”, đối với các bà mẹ công nhân viên chức dù thời gian được nghỉ sau sinh đến 6 tháng chiếm tới 88.8% nhưng vì trong suy nghĩ của họ vẫn còn những quan niệm sai lầm và lạc hậu như cho trẻ ăn sớm để trẻ cứng cáp hơn hoặc để trẻ có thể làm quen với thức ăn sớm trước khi mẹ đi làm, Vì thế, mà cho con ăn dặm khi chưa đủ 6 tháng tuổi là giải pháp lựa chọn của nhiều bà mẹ. 5. KẾT LUậN Kết quả nghiên cứu thu được 65,2% bà mẹ hiểu được phải cho con bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu nhưng chỉ có 24% bà mẹ cho con bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu. Có 72,4% bà mẹ biết được thời điểm bắt đầu cho ăn bổ sung nhưng chỉ có 31,2% thực hành đúng và có 68,4% vẫn cho ăn bổ sung sớm. Như vậy việc thực hiện đúng chế độ ăn của các bà mẹ có con từ 6- 24 tháng còn rất hạn chế vì vậy cần phải nâng cao hơn nữa về kiến thức cũng như thực hành dinh dưỡng của các bà mẹ có con trong độ tuổi này. TÀI LIỆU THAM KHảO 1. phạm Thị Tâm Khê (2009), Khảo sát kiến thức, thái độ thực hành về nuôi con bằng sữa mẹ của các bà mẹ sau khi sinh tại khoa Sản Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế, Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Phụ Sản, Trường Đại học Y Dược Huế. 2. Shroeder D, and Brown KH, (1994), Nutritional status as a predictor of child survival: summarizing the association and quantifying its global- impact Bull WHO, 569-579. 3. Keyou. Ge. (1995). Dietary intake and physical development in China based on the 1992 Nutritional Nutrition survey. Asia Pacific journal of clinical nutrition supp, No 1, 19-23. 4. pAHO- wHO (2002), Guiding principles for complementary feeding of the breastfed child, Washington DC, PAN American Health Organnization - World Health Organnization. 5. Mai Thị Tâm (2010), Thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ và ăn bổ sung của các bà mẹ có con dưới 2 tuổi, Luận văn thạc sĩ Y học, Hà Nội. 6. Viện Dinh dưỡng, UNICef (2013), Giám sát điều tra dinh dưỡng 2013, Viện Dinh dưỡng, Hà Nội. 7. Viện Dinh Dưỡng và UNICef (2011), Tình hình dinh dưỡng Việt Nam 2009 - 2010, Nhà xuất bản Y học. 8. phạm Thị Thanh Thủy (2014), Thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ ở các bà mẹ có con dưới 2 tuổi tại khoa Nhi Bệnh viện Saint Paul, Hà Nội, Khóa luận tốt nghiệp bác sĩ đa khoa, Trường Đại học Y Hà Nội. 9. Trần Thị Tuyết Mai (2013), Xây dựng và đánh giá hiệu quả mô hình truyền thông đa dạng tại tuyến y tế cơ sở trong phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em tỉnh Khánh Hòa, Luận văn Tiến sĩ y tế công cộng.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfkien_thuc_thuc_hanh_nuoi_con_bang_sua_me_va_an_bo_sung_cua_b.pdf
Tài liệu liên quan