Đối với đời sống kinh tế - xã hội
Kinh tế - xã hội phát triển đòi hỏi tình
trạng pháp lý của động sản, BĐS được đăng
ký chính xác, thuận lợi với chi phí hợp lý,
qua đó bảo đảm tính công khai, minh bạch,
tin cậy, an toàn của các giao dịch dân sự, kinh
tế, giúp tiết kiệm chi phí giao dịch (gồm chi
phí về thời gian, công sức, tiền của.), nâng
cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, khuyến
khích, thúc đẩy mạnh mẽ các giao dịch dân
sự, kinh tế được thực hiện trong xã hội.
Một cách khái quát, trong bối cảnh
của Việt Nam, việc xây dựng, ban hành Luật
Đăng ký tài sản sẽ có ý nghĩa quan trọng
trên các mặt sau đây:
Thứ nhất, góp phần minh bạch hóa
tình trạng của tài sản, công khai hóa các
tài sản quan trọng, tạo cơ sở cho việc tăng
cường quản lý nhà nước về tài sản, đặc biệt
là đối với đất đai.
Thứ hai, góp phần phòng, chống tham
nhũng trên sơ sở đăng ký minh bạch, công
khai tài sản.
Thứ ba, tạo cơ chế pháp lý an toàn cho
giao dịch dân sự, kinh tế. Với tính chất công
khai, minh bạch tình trạng pháp lý của tài
sản, các cá nhân, tổ chức sẽ chủ động trong
việc quyết định tham gia giao dịch dân sự, từ
đó thúc đẩy kinh tế phát triển.
Thứ tư, tạo cơ chế tốt hơn trong việc
bảo đảm và bảo vệ quyền và lợi ích của cá
nhân, tổ chức. Việc đăng ký được thực hiện
tốt, chính xác có ý nghĩa quan trọng trong
hoạt động tố tụng của Tòa án khi có tranh
chấp phát sinh.
Thứ năm, minh bạch trách nhiệm của
các cá nhân, tổ chức trong hoạt động đăng ký,
đặc biệt là trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Nhật Bản đã học tập chế độ đăng ký tài
sản từ các nước Tây Âu 150 năm trước và đã
ứng dụng thành công. Chế độ đăng ký BĐS
là nền tảng cơ bản phát triển kinh tế của mỗi
nước – đó là bài học kinh nghiệm rút ra từ
Nhật Bản và tại các nước phát triển và đang
phát triển hiện nay. Trong vấn đề này, Việt
Nam đang bị tụt hậu so với các nước, đặc
biệt trong bối cảnh tự do thương mại toàn
cầu đang ngày càng mang tới nhiều hơn các
cơ hội và thách thức cho mỗi nước. Vì vậy,
cần khẩn trương nghiên cứu, xây dựng, ban
hành Luật Đăng ký tài sản, tạo cơ sở đổi mới
cơ bản chế độ đăng ký tài sản, trước hết là
đăng ký BĐS theo các chuẩn mực chung
của quốc tế, phù hợp với điều kiện của Việt
Nam, tạo động lực thúc đẩy đổi mới, phát
triển kinh tế nhanh, bền vững, góp phần ổn
định xã hội trong bối cảnh hiện nay
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 224 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kinh nghiệm của Nhật Bản và yêu cầu cấp bách cần xây dựng, ban hành luật đăng ký tài sản ở nước ta, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KINH NGHIỆM CỦA NHẬT BẢN VÀ YÊU CẦU CẤP BÁCH CẦN XÂY DỰNG,
BAN HÀNH LUẬT ĐĂNG KÝ TÀI SẢN Ở NƯỚC TA
Tóm tắt:
Chế độ đăng ký tài sản được coi là nền tảng căn bản của ổn định
xã hội và phát triển kinh tế ở Nhật Bản. Những kinh nghiệm của
Nhật Bản về vấn đề này có giá trị tham khảo để Việt Nam xây
dựng, ban hành Luật Đăng ký tài sản nhằm đổi mới chế độ đăng
ký tài sản, góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng
bộ, hiện đại, hội nhập quốc tế.
Nguyễn Phước Thọ*
* Văn phòng Chính phủ.
Abstract
The regime of property registration is considered to be the basic
ground of social stability and economic development in Japan.
The Japanese experience in this matter is valuable for Vietnam to
develop and issue the Law on Property Registration to renovate
the property registration regime, and to further improve the
market economy with synchronized and modern orientation for
international integration context.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Tài sản, sở hữu tài sản, quyền
tài sản, bất động sản, đăng ký tài sản.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 05/10/2019
Biên tập : 07/10/2019
Duyệt bài : 07/10/2019
Article Infomation:
Keywords: property; property
ownership; property right; real estate,
property registration.
Article History:
Received : 05 Oct. 2019
Edited : 07 Oct. 2019
Approved : 07 Oct. 2019
1. Một số hạn chế của chế độ đăng ký tài
sản ở Việt Nam
Ở nước ta, bên cạnh những mặt được,
chế độ đăng ký tài sản còn nhiều hạn chế.
Cụ thể là hiện nay có tới 14 đạo luật1 và rất
nhiều văn bản dưới luật quy định về đăng
ký tài sản. Các quy định của pháp luật hiện
1 Bộ luật Dân sự năm 2005 (sửa đổi năm 2013), Luật Đất đai năm 2013; Luật Nhà ở năm 2014; Luật Bảo vệ và phát triển
rừng năm 2004, Luật Xây dựng năm 2014, Luật Di sản văn hóa năm 2001 (sửa đổi năm 2009), Luật Giao thông đường
thủy nội địa năm 2004, Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 (sửa đổi năm 2017), Luật Hàng không dân dụng năm
2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2014), Bộ luật Hàng hải năm 2015, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm
2009); Luật Chuyển giao công nghệ năm 2006, Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi năm 2014), Luật Chứng
khoán năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2010), Luật Đường sắt 2005 (sửa đổi năm 2017).
hành về đăng ký tài sản không chỉ phân tán,
chưa bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, mà
điều bất hợp lý nhất là mới chỉ tập trung phục
vụ yêu cầu quản lý nhà nước (đối với bất
động sản (BĐS), chỉ thực hiện đăng ký tình
trạng vật lý: vị trí, diện tích, danh tính chủ sở
hữu hoặc có quyền sử dụng), chưa tạo lập
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
60 Số 20(396) T10/2019
cơ sở cho việc đăng ký và công khai, minh
bạch những diễn biến và thực trạng các mối
quan hệ quyền lợi đối với từng tài sản, nhất
là BĐS. Việc công khai, minh bạch và khả
năng cá nhân, tổ chức tiếp cận đầy đủ, chính
xác các thông tin về BĐS rất hạn chế và khó
khăn, do đó, đang gây nhiều ách tắc, rủi ro
cho các giao dịch kinh tế, dân sự trong xã
hội. Các quyền về tài sản không được giao
dịch một cách minh bạch, an toàn và thuận
lợi. Nhà nước khó quản lý, không thu được
nhiều khoản thuế.
Về tổ chức, hiện đang tồn tại 3 hệ
thống cơ quan đăng ký về BĐS: (1) Bộ Tài
nguyên và Môi trường thực hiện quản lý nhà
nước về đăng ký đất đai; (2) Bộ Tư pháp thực
hiện quản lý nhà nước về đăng ký các biện
pháp bảo đảm gồm BĐS và một số tài sản
khác; (3) Bộ Giao thông vận tải thực hiện
đăng ký đối với tàu bay, tàu biển. Thực trạng
này đang đặt ra những thách thức rất lớn về
việc thống nhất cơ chế đăng ký BĐS; về chi
phí, hiệu quả đăng ký; về chia sẻ thông tin...
a) Đối với pháp luật về đăng ký BĐS
- Nội dung về đăng ký BĐS (gồm
quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất),
theo quy định của pháp luật hiện hành, mặc
dù đã có quy định về cấp một loại Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở
và tài sản khác gắn liền với đất. Tuy nhiên,
đây chỉ là giải pháp trước mắt nhằm khắc
phục tình trạng nhiều giấy chứng nhận đang
gây khó khăn cho người dân khi thực hiện
các quyền liên quan đến BĐS, nhưng chưa
phải là giải pháp tối ưu, tổng thể để nhất thể
hoá các quy định về đăng ký tài sản.
- Thiếu thống nhất trong các quy định
của pháp luật hiện hành về một số nội dung
cơ bản của đăng ký đối với BĐS. Tại từng
văn bản, do vấn đề đăng ký đối với mỗi loại
BĐS được nhìn nhận theo một góc độ khác
nhau nên các quy định về đăng ký BĐS khó
có thể tránh khỏi tình trạng thiếu tính tổng
thể, thiếu sự liên kết, ví dụ như: Thiếu thống
nhất trong các quy định về giá trị pháp lý của
đăng ký BĐS; về thời điểm chuyển quyền
sở hữu BĐS; về công chứng, đăng ký hợp
đồng, giao dịch BĐS...
- Hoạt động đăng ký BĐS vẫn chưa đáp
ứng các yêu cầu cải cách hành chính, nhất là
yêu cầu phát triển kinh tế do còn có sự lẫn lộn
trong việc điều chỉnh quan hệ hành chính với
quan hệ dân sự, kinh tế. Theo quy định của
pháp luật hiện hành, thời điểm người sử dụng
đất được thực hiện các quyền là khi có Giấy
chứng nhận, trong khi đó, thực chất quyền sử
dụng đất của cá nhân, tổ chức được xác lập
kể từ thời điểm giao kết hợp đồng, nhận thừa
kế hoặc từ thời điểm có quyết định giao đất,
cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất
của cơ quan có thẩm quyền hoặc theo bản án,
quyết định của Tòa án.
Có thể thấy rõ, hiện tại, việc quản lý đất
đai ở Việt Nam chủ yếu tập trung vào tổ chức
quản lý hành chính về tình trạng vật lý của
đất đai, chưa tạo được đầy đủ cơ chế pháp lý
để bảo hộ, để công khai, minh bạch các mối
quan hệ về quyền tài sản có liên quan, tạo
động lực cho khai thác hiệu quả nguồn lực
này, từ đó thực sự coi đất đai là nguồn lực to
lớn cho phát triển kinh tế - xã hội.
Việc xây dựng chế độ đăng ký BĐS
(chủ yếu là đất đai và nhà ở, tài nguyên cơ
bản của hoạt động kinh tế) là điều kiện tiên
quyết để cải thiện năng suất lao động của
nền kinh tế, từ đó thực hiện thành công đổi
mới mô hình tăng trưởng kinh tế theo Nghị
quyết Trung ương 5 khóa XII, đồng thời
đóng góp quan trong tăng thu ngân sách nhà
nước (qua thu thuế tài sản là đất và nhà).
b) Đối với pháp luật về đăng ký
động sản
Đối với tàu bay, tàu biển và quyền sở
hữu trí tuệ đối với sáng chế, kiểu dáng công
nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa
lý, việc đăng ký làm phát sinh quyền sở hữu
của người đăng ký. Đối với những trường
hợp còn lại, đăng ký quyền sở hữu không có
giá trị bắt buộc, không được công khai và
không phải căn cứ chứng minh việc tạo lập
quyền sở hữu. Ngoài ra, hiện nay pháp luật
chưa có quy định về đăng ký sở hữu động
sản có giá trị lớn theo yêu cầu để được công
nhận và bảo hộ quyền sở hữu thông qua các
căn cứ như tạo lập tài sản hợp pháp hoặc
nhận chuyển quyền hợp pháp.
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
61Số 20(396) T10/2019
2. Tham khảo chế độ đăng ký BĐS ở
Nhật Bản
Văn bản pháp lý then chốt của chế độ
đăng ký BĐS ở Nhật Bản là Luật Đăng ký
BĐS. Đây được coi là một đạo luật quan
trọng nhất cho phát triển kinh tế của Nhật
Bản, được ban hành từ năm 1887. Đạo Luật
này đã qua 12 lần sửa đổi, bổ sung2, lần gần
đây nhất vào năm 2004. Qua các lần sửa đổi,
bổ sung này, tinh thần cơ bản của Luật vẫn
được giữ nguyên, đó là bảo đảm tính công
khai, minh bạch, an toàn, tin cậy của đăng ký
BĐS. Đây chính là nền tảng cơ bản cho các
giao dịch dân sự, kinh tế được thực hiện an
toàn, thuận lợi, qua đó các quyền tài sản được
vận hành, dịch chuyển thông suốt theo các
quy luật của thị trường, bảo toàn quyền lợi
đối với người có tài sản đưa vào giao dịch.
Tư tưởng chủ đạo của chế độ đăng ký
tài sản là bảo đảm sự công khai, minh bạch,
tính ổn định, tin cậy của các quan hệ giao
dịch tài sản, giao dịch kinh tế trong xã hội;
cho phép dự đoán trước được các quan hệ về
quyền lợi liên quan đến giao dịch đó. Qua
đó, những người có liên quan có thể an tâm
hoạt động kinh tế do quyền lợi được bảo hộ.
Và điều đó, thúc đẩy phát triển kinh tế mạnh
mẽ và bền vững.
Đăng ký BĐS là việc cơ quan nhà
nước ghi vào Sổ đăng ký (bản giấy và điện
tử) và thực hiện công khai về tình trạng vật
lý (tình trạng tự nhiên của BĐS, gồm các
thông tin về địa chỉ đất, số hiệu, diện tích
đất, địa chỉ nhà, số hiệu, chủng loại nhà, cấu
tạo nhà, diện tích sản... kèm bản đồ, sơ đồ
tương đương) và các quan hệ về quyền lợi
đối với BĐS (quyền sở hữu, quyền thế chấp,
quyền bề mặt, quyền canh tác lâu dài, quyền
2 Thông tin này và một số số liệu khác được tác giả bài viết này thu thập thông qua các cuộc trao đổi trực tiếp với các
chuyên gia Nhật Bản khi tham gia Đoàn công tác của Văn phòng Chính phủ đi nghiên cứu về chế độ đăng ký tài sản
và xử lý nợ xấu tại Nhật Bản từ ngày 17/7/2017 đến ngày 29/7/2017 do Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Nguyễn
Xuân Thành làm Trưởng đoàn.
3 Bài giới thiệu Khái quát về chế độ đăng ký bất động sản Nhật Bản – July, 2017 – Giảng viên pháp vụ Onishi Hiromichi,
Phòng hợp tác quốc tế, Viện nghiên cứu đào tạo Bộ Tư pháp Nhật Bản, tr. 28 (trong Tập tài liệu của Tổ chức hợp tác quốc
tế Nhật bản (JICA) phục vụ cho Đoàn công tác đi nghiên cứu về chế độ đăng ký tài sản và xử lý nợ xấu tại Nhật Bản từ
ngày 17/7/2017 đến ngày 29/7/2017 do Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Nguyễn Xuân Thành làm Trưởng đoàn).
lấy trước, quyền cầm cố, quyền bảo đảm
tạm đăng ký, bảo đảm chuyển nhượng; sự
việc đăng ký về quyền lợi, mục đích và ngày
đăng ký, họ tên người có quyền lợi liên quan
đến đăng ký, thứ tự đăng ký...).
Chế độ đăng ký BĐS là nền tảng căn
bản của xã hội và của sự phát triển kinh tế
của Nhật Bản, được tận dụng trong các hoạt
động kinh tế và quản lý đất đai. Cụ thể: (1)
trong giao dịch BĐS: thu thập thông tin, đăng
ký bảo tồn quyền sở hữu, đăng ký chuyển
quyền sở hữu; (2) tận dụng trong hoạt động
tín dụng: thu thập thông tin, quyền thế chấp,
bảo đảm đăng ký tạm, quyền mua lại; (3)
tận dụng trong phát triển: thu thập thông tin,
phát triển BĐS...; (4) tận dụng trong điều tra
đất đai: điều tra địa tịch, hoàn thiện bản đồ
địa chính; (5) tận dụng trong chế độ thuế: thu
thuế, xử lý nộp chậm, giảm thuế mua nhà trả
chậm...; (6) tận dụng trong chính sách nông
nghiệp, chính sách sông ngòi; (7) tận dụng
trong thi hành án dân sự, thu hồi đất.
Chế độ đăng ký BĐS ở Nhật Bản có
một số đặc điểm sau đây:
- Về tổ chức, cơ quan chủ quản là Bộ
Tư pháp; cơ quan đăng ký là Cục Tư pháp
thuộc Bộ Tư pháp và các Cục Tư pháp địa
phương (50 địa điểm3) và các chi cục, trạm
công tác các chi cục, tổng cộng khoảng 410
địa điểm trên toàn quốc. Về thẩm quyền lãnh
thổ của Trung tâm đăng ký là địa phương
nơi có BĐS.
- Về nội dung đăng ký: ghi chép về
tình trạng vật lý của BĐS (nghĩa vụ bắt
buộc, gồm thông tin về địa chỉ đất, số hiệu,
diện tích đất, địa chỉ nhà, số hiệu, chủng loại
nhà, cấu tạo nhà, diện tích sản... kèm bản đồ,
sơ đồ tương đương) và hiện trạng của quyền
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
62 Số 20(396) T10/2019
lợi liên quan đến BĐS (không bắt buộc gồm:
quyền sở hữu, quyền thế chấp, quyền bề
mặt, quyền canh tác lâu dài, quyền lấy trước,
quyền cầm cố, quyền bảo đảm tạm đăng ký,
bảo đảm chuyển nhượng...; sự việc đăng ký
về quyền lợi, mục đích và ngày đăng ký, họ
tên người có quyền lợi liên quan đến đăng
ký, thứ tự đăng ký...)
- Đất và nhà được coi là các BĐS
riêng biệt, được xử lý cùng một đầu mối tại
cùng cơ quan đăng ký. Sổ đăng ký được ghi
theo từng BĐS; ghi theo tiêu chuẩn thống
nhất trên toàn quốc, thủ tục đăng ký nhanh
chóng, chính xác.
- Sổ đăng ký được coi là bản gốc và
được công khai rộng rãi nội dung trên mạng
điện tử. Trường hợp cần thiết, cơ quan đăng
ký có thể cấp Giấy chứng minh sự việc đăng
ký theo yêu cầu với chi phí thấp. Thông tin
được lưu giữ tối thiểu 30 năm. Nhờ việc
công khai rộng rãi Sổ đăng ký, nên ai cũng
có thể biết được người đứng tên BĐS cụ thể
(trong quá khứ cũng như hiện tại), quyền lợi
của người khác có liên quan đến BĐS đó và
là quyền lợi gì.
- Chi phí: đăng ký về tình trạng vật lý
không bị đánh thuế; còn đăng ký về quyền
lợi, phải chịu thuế cấp phép đăng bạ. Nguồn
thuế này hàng năm đóng góp đáng kể cho
ngân sách nhà nước4.
- Trường hợp thông tin không chính
xác dẫn đến thiệt hại cho người sử dụng
thông tin từ chế độ đăng ký, Nhật Bản sẽ áp
dụng pháp luật về bồi thường nhà nước.
Có thể lấy một ví dụ, một trong những
ứng dụng chế độ đăng ký BĐS được Nhật
Bản sử dụng rất có hiệu quả là trong nghiệp
vụ tín dụng và thu hồi nợ của ngân hàng.
Theo đó, trong trường hợp bên đi vay (con
nợ) không tự nguyện thanh toán khoản nợ
4 Năm 2015, thuế cấp phép đăng ký đất đai của Nhật Bản khoảng 560 tỷ Yên (khoảng 112 nghìn tỷ VNĐ); nguồn thu lệ
phí từ cung cấp thông tin đăng ký đất đai là 48,7 tỷ Yên (khoảng 9740 tỷ VNĐ). Nguồn: Công ty cổ phần Fujitsu – Hành
chính quản lý đất đai và hiệu quả kinh tế - Triển khai hệ thống IT với kinh nghiệm của Nhật Bản - Tr. 11 (Trong Tập tài
liệu của Tổ chức hợp tác quốc tế Nhật bản (JICA) phục vụ cho Đoàn công tác đi nghiên cứu về chế độ đăng ký tài sản
và xử lý nợ xấu tại Nhật Bản từ ngày 17/7/2017 đến ngày 29/7/2017 do Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Nguyễn
Xuân Thành làm Trưởng đoàn).
cho ngân hàng (bên cho vay – chủ nợ) theo
hợp đồng tín dụng đã ký, thì ngân hàng có
hai cách để thu hồi nợ:
- Thứ nhất, thu hồi bằng thi hành tố
tụng dân sự: chủ nợ sẽ kiện con nợ ra Tòa
án để Tòa tuyên án phải trả nợ cho chủ nợ.
Cách này có một số điểm yếu: thời gian
ra bản án của tòa mất nhiều thời gian (2-3
tháng); khi đã có bản án thì không còn tài
sản để kê biên, thu hồi nợ (giải pháp là cần
đề nghị Tòa thực hiện biện pháp tạm kê biên
trước khi bắt đầu quá trình tố tụng); có tài
sản để kê biên nhưng không có quyền ưu
tiên so với các chủ nợ đã đăng ký quyền thế
chấp đối với tài sản đó hoặc khi con nợ lâm
vào tình trạng phá sản, khi đó chỉ được trả
tương ứng với tỷ lệ khoản nợ của các chủ nợ
thông thường khác.
- Thứ hai, thu hồi bằng thực hiện quyền
bảo đảm (đối với trường hợp đăng ký quyền
thế chấp): nhờ chế độ đăng ký BĐS nên các
điểm yếu nêu trên đều được giải quyết. Chủ
nợ hoàn toàn có quyền và được ưu tiên từ
thi hành tài sản bảo đảm thông qua thủ tục
bán đấu giá để thu hồi nợ. Chế độ đăng ký
BĐS đã ghi nhận và bảo vệ quyền của chủ
nợ (ngân hàng) đối với tài sản thế chấp so
với các chủ nợ và đối tượng liên quan khác.
Có thể thấy, dựa vào chế độ đăng ký,
bất kỳ ai cũng có thể biết thông tin về BĐS
và an tâm giao dịch BĐS, dùng BĐS làm vật
bảo đảm để huy động vốn, an tâm cho người
cho vay và người đi vay. Do tài sản thế chấp
lúc nào cũng có thể thực hiện bán đầu giá để
thu hồi nợ, nên người cho vay sẵn sàng cho
vay hơn, cho vay có thể lên tới 100% giá trị
tài sản đảm bảo và hạ lãi suất cho vay (do
độ rủi ro không thu hồi được khoản vay thấp
nhờ khả năng thanh lý tài sản bảo đảm để
thu hồi nợ).
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
63Số 20(396) T10/2019
3. Kinh nghiệm có thể tham khảo để xây
dựng, ban hành Luật Đăng ký tài sản
nước ta
Việc xây dựng, ban hành Luật Đăng ký
tài sản theo tinh thần đổi mới, trong đó có tham
khảo kinh nghiệm của Nhật Bản, sẽ tạo cơ sở
pháp lý vững chắc thúc đẩy việc đổi mới, khắc
phục những bất cập, hạn chế về chế độ đăng
ký tài sản hiện nay, tạo môi trường và động
lực to lớn cho phát triển kinh tế thị trường, góp
phần ổn định xã hội. Cụ thể:
a) Đối với người dân và doanh nghiệp
Thông qua hệ thống đăng ký tài sản
được xây dựng theo đúng nguyên lý, quyền
lợi của các bên tham gia giao dịch được công
khai, minh bạch, an toàn. Với việc không
hạn chế tiếp cận các thông tin trong Sổ đăng
ký về tài sản, công chúng có thể dễ dàng tìm
hiểu và biết chính xác tất cả các thông tin
cơ bản về tài sản, từ đó có đầy đủ cơ sở để
xem xét, quyết định việc tham gia các giao
dịch dân sự, kinh tế liên quan đến tài sản và
là cơ sở để giải quyết các tranh chấp, bảo vệ
quyền và lợi ích của các chủ thể.
b) Đối với Nhà nước
Việc đăng ký tài sản không chỉ nhằm
ghi nhận quyền đối với tài sản, mà còn là
công cụ hữu hiệu để Nhà nước: (i) tăng
nguồn thu thuế từ tài sản; (ii) ngăn ngừa
giao dịch bất hợp pháp, không chính đáng;
(iii) phục vụ quá trình hoạch định chính sách
mang tính vĩ mô.
c) Đối với đời sống kinh tế - xã hội
Kinh tế - xã hội phát triển đòi hỏi tình
trạng pháp lý của động sản, BĐS được đăng
ký chính xác, thuận lợi với chi phí hợp lý,
qua đó bảo đảm tính công khai, minh bạch,
tin cậy, an toàn của các giao dịch dân sự, kinh
tế, giúp tiết kiệm chi phí giao dịch (gồm chi
phí về thời gian, công sức, tiền của...), nâng
cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, khuyến
khích, thúc đẩy mạnh mẽ các giao dịch dân
sự, kinh tế được thực hiện trong xã hội.
Một cách khái quát, trong bối cảnh
của Việt Nam, việc xây dựng, ban hành Luật
Đăng ký tài sản sẽ có ý nghĩa quan trọng
trên các mặt sau đây:
Thứ nhất, góp phần minh bạch hóa
tình trạng của tài sản, công khai hóa các
tài sản quan trọng, tạo cơ sở cho việc tăng
cường quản lý nhà nước về tài sản, đặc biệt
là đối với đất đai.
Thứ hai, góp phần phòng, chống tham
nhũng trên sơ sở đăng ký minh bạch, công
khai tài sản.
Thứ ba, tạo cơ chế pháp lý an toàn cho
giao dịch dân sự, kinh tế. Với tính chất công
khai, minh bạch tình trạng pháp lý của tài
sản, các cá nhân, tổ chức sẽ chủ động trong
việc quyết định tham gia giao dịch dân sự, từ
đó thúc đẩy kinh tế phát triển.
Thứ tư, tạo cơ chế tốt hơn trong việc
bảo đảm và bảo vệ quyền và lợi ích của cá
nhân, tổ chức. Việc đăng ký được thực hiện
tốt, chính xác có ý nghĩa quan trọng trong
hoạt động tố tụng của Tòa án khi có tranh
chấp phát sinh.
Thứ năm, minh bạch trách nhiệm của
các cá nhân, tổ chức trong hoạt động đăng ký,
đặc biệt là trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Nhật Bản đã học tập chế độ đăng ký tài
sản từ các nước Tây Âu 150 năm trước và đã
ứng dụng thành công. Chế độ đăng ký BĐS
là nền tảng cơ bản phát triển kinh tế của mỗi
nước – đó là bài học kinh nghiệm rút ra từ
Nhật Bản và tại các nước phát triển và đang
phát triển hiện nay. Trong vấn đề này, Việt
Nam đang bị tụt hậu so với các nước, đặc
biệt trong bối cảnh tự do thương mại toàn
cầu đang ngày càng mang tới nhiều hơn các
cơ hội và thách thức cho mỗi nước. Vì vậy,
cần khẩn trương nghiên cứu, xây dựng, ban
hành Luật Đăng ký tài sản, tạo cơ sở đổi mới
cơ bản chế độ đăng ký tài sản, trước hết là
đăng ký BĐS theo các chuẩn mực chung
của quốc tế, phù hợp với điều kiện của Việt
Nam, tạo động lực thúc đẩy đổi mới, phát
triển kinh tế nhanh, bền vững, góp phần ổn
định xã hội trong bối cảnh hiện nay
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
64 Số 20(396) T10/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- kinh_nghiem_cua_nhat_ban_va_yeu_cau_cap_bach_can_xay_dung_ba.pdf