Một là, chất vấn thể hiện bản lĩnh, trách
nhiệm và năng lực tổng hợp của ĐBQH;
năng lực chất vấn của ĐBQH phụ thuộc lớn
vào các thông tin và năng lực xử lý thông tin
mà ĐBQH thu nhận được. Do đó, ĐBQH
phải được cung cấp thông tin một cách đầy
đủ, toàn diện và kịp thời về những vấn đề mà
đại biểu quan tâm chất vấn.Tuy nhiên, cần
có những thông tin đã được xử lý thông qua
chính ĐBQH, bằng chuyên gia phân tích, tư
vấn, bằng thảo luận, tranh luận tại kỳ họp.
Chất vấn của ĐBQH phải thật “đắt”, làm rõ
được trách nhiệm của đối tượng bị chất vấn,
tạo cơ sở để Quốc hội buộc họ nhận thức ra
và sửa chữa, khắc phục những yếu kém. Đây
là khâu còn yếu, cần phải được hoàn thiện
trong thời gian tới.
Hai là, sau khi nghe báo cáo công tác
của Chính phủ, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Tòa án nhân dân tối cao và các báo cáo
khác (nếu có), các ĐBQH gửi chất vấn đến
Chủ tịch Quốc hội. Đoàn thư ký kỳ họp có
trách nhiệm tổng hợp các chất vấn. UBTVQH
dự kiến và trình Quốc hội quyết định những
vấn đề chất vấn phải trả lời tại hội trường,
những chất vấn cần được trả lời bằng văn
bản, những chất vấn cần được chuẩn bị để
trả lời tại kỳ họp khác của Quốc hội hoặc trả
lời tại các phiên họp của UBTVQH.
Ba là, sau khi nghe trả lời chất vấn,
Quốc hội cần có kết luận hoặc ra nghị quyết
làm rõ trách nhiệm của từng đối tượng bị
chất vấn và giao nhiệm vụ cụ thể cho Chính
phủ, từng thành viên của Chính phủ, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa
án nhân dân tối cao. trong việc khắc phục
những yếu kém, hạn chế mà ĐBQH chất
vấn. Đây là cơ sở pháp lý để biến chất vấn
của ĐBQH thành giám sát tối cao của Quốc
hội tại kỳ họp và có giá trị pháp lý buộc chủ
thể bị chất vấn phải thực hiện, đồng thời để
tiếp tục giám sát, đánh giá tại các kỳ họp
tiếp theo. Trên thực tế, việc ra nghị quyết về
chất vấn và trả lời chất vấn chưa thực hiện
theo đúng quy định tại Điều 15 Luật Hoạt
động giám sát của Quốc hội và Hội đồng
nhân dân.
Việc ra nghị quyết của Quốc hội về
việc trả lời chất vấn và trách nhiệm của
người bị chất vấn phải được xem như một
hoạt động bình thường, thể hiện tính cương
quyết, công khai, minh bạch trong hoạt động
giám sát của ĐBQH.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 201 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kỹ năng đặt câu hỏi chất vấn và đưa kiến nghị khi chất vấn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TS. Nguyễn Đình Quyền*
* Viện trưởng Viện Nghiên cứu lập pháp
Nguyên phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội
Đại biểu Quốc hội khóa XII, XIII
KỸ NĂNG ĐẶT CÂU HỎI CHẤT VẤN VÀ ĐƯA KIẾN NGHỊ KHI CHẤT VẤN
1. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về
kỹ năng đặt câu hỏi chất vấn của đại biểu
quốc hội ở Việt Nam
- Để thực hiện vai trò giám sát của
mình, ĐBQH không chỉ tham gia vào hoạt
động của Quốc hội trong việc xem xét các
báo cáo của Chủ tịch nước, UBTVQH, Chính
phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, các báo cáo giám sát của
các cơ quan Quốc hội mà còn được thực hiện
ở hoạt động chất vấn. Chất vấn của ĐBQH
là hình thức giám sát tối cao tại kỳ họp. Điều
80 của Hiến pháp năm 2013 quy định: “Đại
biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch
nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính
phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của
Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Tổng Kiểm toán nhà nước”.
Hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ
đều quy định các ĐBQH có quyền chất vấn.
Từ Hiến pháp 1946 đến Hiến pháp năm
2013, đối tượng bị chất vấn ngày càng được
mở rộng. Hiến pháp 1946 chỉ dừng lại ở quy
định Nghị viện chất vấn đối với Bộ trưởng.
Hiến pháp năm 1959 quy định ĐBQH có
quyền chất vấn Hội đồng Chính phủ, các cơ
quan thuộc Hội đồng Chính phủ. Hiến pháp
năm 1980 quy định ĐBQH có quyền chất
vấn Hội đồng Bộ trưởng và các thành viên
của Hội đồng Bộ trưởng, Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao. Hiến pháp năm 1992 và
Hiến pháp năm 2013 mở rộng và cá thể hóa
trách nhiệm của người bị chất vấn, theo đó,
ĐBQH có quyền chất vấn Chủ tịch nước,
Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ,
Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính
phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng
Kiểm toán nhà nước.
- Chất vấn là quyền và là hình thức
giám sát riêng và quan trọng nhất của ĐBQH.
Chất vấn là yêu cầu của đại biểu với tư cách
là người đại diện có thẩm quyền của nhân
dân đối với người bị chất vấn trong việc làm
rõ trách nhiệm của người bị chất vấn, buộc
người bị chất vấn phải báo cáo, giải trình
trước cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất
về những vấn đề liên quan đến trách nhiệm
của họ trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn do pháp luật quy định. Chất vấn do cá
nhân ĐBQH thực hiện nhưng khi tiến hành
tại kỳ họp Quốc hội trở thành một trong
những hoạt động giám sát tối cao của Quốc
hội. Các ĐBQH khi thực hiện quyền chất
vấn thì không còn nhân danh cá nhân nữa
mà nhân danh quyền lực tối cao của nhân
dân, hay còn gọi là quyền lực gốc, quyền
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
3Số 10(362) T5/2018
lực do dân bầu và ủy nhiệm, thay mặt nhân
dân yêu cầu người bị chất vấn phải trả lời
về những vấn đề liên quan đến trách nhiệm
pháp lý của mình, quy trách nhiệm pháp lý
đối với người bị chất vấn. Đặc điểm quyền
chất vấn của ĐBQH là chất vấn đối với cá
nhân những người đứng đầu các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền. Thực hiện quyền
chất vấn giúp cho ĐBQH thay mặt nhân dân
xem xét tính đúng đắn trong hoạt động của
bộ máy nhà nước và có thêm cơ sở để thực
hiện quyền bầu, phê chuẩn, bãi nhiệm, miễn
nhiệm và lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín
nhiệm đối với những người lãnh đạo, những
người do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn.
Khi nghiên cứu về quyền chất vấn,
một vấn đề cần lưu ý trong việc phân biệt
rõ giữa quyền này với quyền của ĐBQH
yêu cầu trả lời về những vấn đề mà ĐBQH
quan tâm, theo đó quyền chất vấn và quyền
yêu cầu trả lời về những vấn đề mà ĐBQH
quan tâm về mặt hình thức thường giống
nhau ở chỗ đều là dạng đặt câu hỏi nhưng
khác nhau ở mục đích, chủ thể, trình tự, thủ
tục tiến hành và đặc biệt là hậu quả pháp
lý. Việc yêu cầu trả lời những vấn đề mà
ĐBQH quan tâm thường chỉ đặt ra nhằm
thu thập thông tin để phục vụ cho hoạt động
của ĐBQH, trong khi đó, chất vấn là một
hoạt động quyền lực nhằm làm rõ và quy kết
trách nhiệm, kết quả trả lời chất vấn dẫn đến
việc có áp dụng hay không áp dụng các hình
thức chế tài của Nhà nước đối với người bị
chất vấn và buộc người bị chất vấn phải đưa
ra, thực hiện cho được giải pháp khắc phục
yếu kém. Hơn nữa, đối với quyền chất vấn,
đối tượng bị chất vấn được xác định cụ thể
và có phạm vi nhất định, còn quyền yêu cầu
trả lời về những vấn đề mà ĐBQH quan tâm
không hạn chế đối với bất kỳ đối tượng, lĩnh
vực nào.
Ở các nước đối tượng và thẩm quyền
giám sát, chất vấn của Nghị viện, đại biểu
Nghị viện phụ thuộc vào hình thức chính thể.
Đối với chính thể cộng hòa tổng thống, đại
biểu Nghị viện thường ít chất vấn, điều trần,
giám sát hoạt động của Chính phủ, thành
viên Chính phủ; các nước theo chính thể đại
nghị dù là cộng hòa hay dân chủ, Chính phủ
được thành lập trên cơ sở Nghị viện, được
sự tín nhiệm của Nghị viện, chịu sự chi
phối về mặt pháp lý của Nghị viện, theo đó,
đại biểu Nghị viện có thể thực hiện những
quyền hạn nhất định trong giám sát, chất
vấn Chính phủ, thành viên của Chính phủ,
đồng thời xác định trách nhiệm về pháp lý,
chính trị của Chính phủ đối với Nghị viện.
Bởi suy cho cùng ở chính thể này, Nghị viện
và Chính phủ đều nằm trong tay của đảng
chiếm đa số hoặc liên minh các đảng cầm
quyền, thực hiện chính sách, đường lối của
đảng chính trị đó. Nên với kỷ luật đảng, các
đại biểu là đảng viên phải tuân theo chính
sách, đường lối của đảng, trách nhiệm của
các đại biểu Nghị viện và Chính phủ đều
hướng tới mục tiêu đó, vì vậy sự phân quyền
về mặt pháp lý giữa Nghị viên và Chính phủ
trong chính thể này nhiều khi trở thành hình
thức, khi đó Nghị viện của đảng đối lập đóng
vai trò quan trọng trong chất vấn và gây áp
lực, đề nghị bỏ phiếu tín nhiệm Chính phủ.
Kết quả giám sát của Nghị viện đối
với Chính phủ thể hiện ở những chất vấn,
yêu cầu, kiến nghị của đại biểu nghị viện
và Nghị viện đối với Chính phủ, các thành
viên của Chính phủ và trường hợp Chính
phủ không còn tín nhiệm thì vấn đề bỏ phiếu
bất tín nhiệm Chính phủ có thể được các đại
biểu nghị viện đặt ra theo một tỷ lệ đại biểu
do pháp luật quy định.
- Đặc điểm quyền chất vấn của ĐBQH
theo Hiến pháp năm 1992 và năm 2013 là
các đại biểu không chất vấn cơ quan nhà
nước nói chung mà chất vấn cá nhân người
đứng đầu các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Đây là điều khác biệt so với quyền
chất vấn của ĐBQH đã được quy định tại
các Hiến pháp trước đây.
Về hình thức chất vấn, nếu trước đây
chất vấn chỉ là đối thoại trực tiếp thì Hiến
pháp năm 1992 trở đi, ĐBQH có thể chất
vấn trực tiếp hoặc gửi phiếu chất vấn qua
UBTVQH để chuyển tới người bị chất vấn.
Và được thực hiện không chỉ tại kỳ họp mà
ĐBQH có thể gửi chất vấn trong thời gian
giữa hai kỳ họp.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
4 Số 10(362) T5/2018
Trong mấy nhiệm kỳ gần đây, chất
vấn và trả lời chất vấn đã được tiến hành
thường xuyên. Tại mỗi kỳ họp, Quốc hội
dành khoảng ba đến bốn ngày để tiến hành
chất vấn. Các hoạt động chất vấn đã được
truyền hình trực tiếp để người dân theo dõi.
Các nội dung mà ĐBQH chất vấn thường đề
cập tới những vấn đề nóng bỏng, bức xúc,
liên quan tới trách nhiệm của nhiều cơ quan,
người đứng đầu các cơ quan thuộc mọi lĩnh
vực của đời sống kinh tế - xã hội và đã được
các thành viên của Chính phủ, người đứng
đầu Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án
nhân dân tối cao và các cơ quan khác trả lời
nghiêm túc. Thông qua chất vấn, trả lời chất
vấn, nhiều vấn đề được làm sáng tỏ, nhất
là trách nhiệm của các cơ quan, người đứng
đầu các cơ quan hữu quan trong công tác
của mình. Hình thức đối thoại trực tiếp tạo
không khí dân chủ cởi mở, nghiêm túc giữa
người chất vấn và người trả lời chất vấn đã
mang lại kết quả thiết thực, được nhân dân
quan tâm theo dõi và hoan nghênh.
Trên thực tế đang có sự lẫn lộn giữa
chất vấn và đặt câu hỏi để nắm thông tin.
Trong nhiều câu hỏi mà ĐBQH chất vấn cho
thấy có không ít câu hỏi được nêu ra không
phải là chất vấn mà chỉ để muốn biết về các
thông tin cụ thể. Điều này vừa làm cho hoạt
động chất vấn kém hiệu quả, vừa làm cho
người bị chất vấn lúng túng. Nếu không trả
lời thì băn khoăn trước yêu cầu của ĐBQH,
nhưng trả lời thì lại không đúng với ý nghĩa,
mục đích của chất vấn, trong khi thời gian
dành cho hoạt động chất vấn là hết sức quý
báu và không thể kéo dài.
Vấn đề rất đáng quan tâm hiện nay đó
là hậu quả pháp lý của hoạt động chất vấn.
Lâu nay, đây là vấn đề chưa được làm rõ
và quan tâm đúng mực. Thời gian gần đây,
các ĐBQH khi chất vấn đã bắt đầu căn cứ
vào nghị quyết của Quốc hội về chất vấn và
trả lời chất vấn, lời hứa của người bị chất
vấn tại kỳ họp trước để xác định rõ trách
nhiệm và việc thực hiện lời hứa của họ. Tuy
nhiên, việc thông qua hoạt động chất vấn để
xem xét lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín
nhiệm, để miễn nhiệm, bãi nhiệm hoặc ra
nghị quyết của Quốc hội về trả lời chất vấn
để thể hiện rõ hậu quả pháp lý của việc chất
vấn vẫn chưa có sự kết nối chặt chẽ giữa các
phương thức giám sát này.
Việc trả lời chất vấn trong thời gian
gần đây về cơ bản được thực hiện nghiêm
túc mang tính xây dựng với tinh thần phê
và tự phê. Thái độ cởi mở khi đối thoại tại
phiên họp chất vấn thể hiện tinh thần hợp
tác, dân chủ vừa để làm rõ trách nhiệm của
người đại diện của nhân dân, vừa đề cao
trách nhiệm của những người đứng đầu các
cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, thực tế cũng
cho thấy, việc trả lời chất vấn của một số
người còn không đi thẳng vào vấn đề, nhất
là phần trách nhiệm của mình mà còn vòng
vo; nhiều khi lại còn liệt kê thành tích của
ngành, né tránh trách nhiệm hoặc thanh
minh, đổ lỗi cho khách quan hoặc cơ quan
khác. Trong trường hợp như vậy, Quốc hội
cũng chưa có cơ chế để làm rõ và xử lý. Đây
là tồn tại cần sớm được khắc phục.
- Để tăng cường vai trò giám sát của
Quốc hội, ĐBQH, Hiến pháp năm 1992 và
Hiến pháp năm 2013 quy định quyền của
ĐBQH trong việc kiến nghị UBTVQH xem
xét, trình Quốc hội lấy phiếu tín nhiệm, bỏ
phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ
do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Khi có ít
nhất hai mươi phần trăm trên tổng số ĐBQH
kiến nghị, UBTVQH xem xét, trình Quốc
hội bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ các
chức vụ này. Đây là quyền được thực hiện
chủ động từ phía các ĐBQH.
Quyền của ĐBQH đề nghị với
UBTVQH xem xét, trình Quốc hội việc bỏ
phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các
chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn
theo quy định của Luật Tổ chức Quốc hội,
Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội do
chưa được quy định cụ thể nên tại một số
nhiệm kỳ Quốc hội trước đây, khi ĐBQH
sử dụng quyền đề nghị bỏ phiếu tín nhiệm
thì gặp lúng túng về cơ chế thực hiện, bởi
vì cách tính hội đủ kiến nghị của 20% tổng
số ĐBQH, nhưng hiện nay Điều 33 Luật Tổ
chức Quốc hội đã quy định rõ về cơ chế này
để góp phần khắc phục hạn chế đã kéo dài
thời gian qua.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
5Số 10(362) T5/2018
2. Kỹ năng cụ thể trong việc đặt câu hỏi
chất vấn và đưa kiến nghị khi chất vấn
1. Như trên đã trình bày, ĐBQH là
chủ thể duy nhất theo luật định thực
hiện quyền giám sát bằng hình thức
chất vấn. Do đó, ĐBQH không thể
ủy quyền cho chủ thể khác (ĐBQH,
Đoàn ĐBQH hoặc HĐDT, các Ủy
ban của Quốc hội) thực hiện quyền
này.
2. Muốn đặt câu hỏi chất vấn về vấn đề
gì cần thiết phải thu thập thông tin
liên quan tới nội dung câu hỏi (đây là
yếu tố quan trọng quyết định thành
công của việc chất vấn). Thông tin
có thể từ báo chí, các cơ quan nhà
nước, tổ chức chính trị- xã hội và
các tổ chức khác, từ cử tri, qua việc
xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo của
tổ chức, công dân, qua kết quả khảo
sát và nhất là qua hoạt động giám
sát chuyên đề, giám sát các vụ việc
cụ thể, phiên giải trình của HĐDT,
các Ủy ban của Quốc hội, các Đoàn
ĐBQH hoặc hoạt động giám sát của
Hội đồng nhân dân các cấp...
3. Bất luận trong câu hỏi chất vấn nhất
thiết phải có nội dung về việc làm rõ
trách nhiệm của người bị chất vấn;
tốt hơn nữa là làm rõ địa chỉ cụ thể,
mức độ chịu trách nhiệm của người
đó theo nhiệm vụ, quyền hạn do luật
định hoặc được giao.
4. Khi đặt câu hỏi cần biết rõ, chính
xác theo quy định của Hiến pháp
và pháp luật, nhất là phân cấp thẩm
quyền quản lý nhà nước thì người
bị chất vấn có chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn gì; phạm vi lĩnh vực mà
người bị chất vấn có trách nhiệm
phụ trách, lãnh đạo, quản lý tới đâu?
Trách nhiệm nào là trách nhiệm độc
lập, trách nhiệm nào là trách nhiệm
liên đới?
5. Câu hỏi chất vấn được đặt ra để làm
rõ trách nhiệm trong việc hoạch định
chính sách hay trong lãnh đạo, chỉ
đạo, điều hành, trong tổ chức thực
hiện chính sách. Trong trường hợp
hoạch định chính sách thì phải xem
xét cơ quan mà người bị chất vấn
phụ trách làm việc theo nguyên tắc
gì, phạm vi thẩm quyền đến đâu;
trường hợp tổ chức thực hiện chính
sách thì nên xem xét kỹ việc phân
cấp, giao thẩm quyền quản lý, lãnh
đạo, chỉ đạo thực hiện.
6. Hiểu và nắm rõ các nội dung quản lý
nhà nước mà người bị chất vấn phụ
trách lãnh đạo, quản lý, điều hành,
nhất là hiện nay trong điều kiện hầu
hết các bộ, cơ quan ngang bộ đều
thực hiện chức năng quản lý nhà
nước đa ngành, đa lĩnh vực thì đây
là vấn đề rất cần lưu ý khi chất vấn.
7. Cần biết được vấn đề mình đặt câu
hỏi chất vấn đã được cơ quan có
thẩm quyền yêu cầu làm rõ và xử
lý chưa; đã có ĐBQH nào chất vấn
trước đó không hoặc đã có HĐDT,
Ủy ban của Quốc hội điều trần, giám
sát về vấn đề mà mình nêu câu hỏi
không?
8. Câu hỏi chất vấn phải ngắn gọn,
trực diện thẳng vào trách nhiệm của
người bị chất vấn trên cơ sở khái quát
tất cả các thông tin mà ĐBQH thu
thập được, tránh diễn giải thông tin
sự kiện dài dòng, làm loãng mục tiêu
của câu hỏi chất vấn; có đưa thông
tin sự kiện thì thật “đắt”, thật ngắn
gọn và thông tin đó phải quan hệ mật
thiết, nhân quả với trách nhiệm của
người bị chất vấn.
9. Cần khai thác thông tin trong chính
các báo cáo do người bị chất vấn
trình bày trước Quốc hội, UBTVQH,
HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội,
Đoàn ĐBQH, trong trường hợp báo
cáo sai thì thường là những thông
tin thiếu cơ sở thực tiễn, mâu thuẫn
nhau, không logic hoặc báo cáo
một cách hình thức cho qua, không
thuyết phục, rất dễ nhận biết.
10. Cần liên kết các thông tin, sự kiện,
kết luận từ các nguồn báo chí, tiếp
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
6 Số 10(362) T5/2018
xúc cử tri, giám sát việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo của công dân, giám
sát chuyên đề, các phiên giải trình
của các cơ quan của Quốc hội, của
Đoàn ĐBQH và HĐND để khái quát
thành vấn đề lớn về mặt vĩ mô quản
lý nhà nước liên quan tới trách nhiệm
của người bị chất vấn.
11. Tổng hợp các lời hứa của người bị
chất vấn trước Quốc hội, UBTVQH,
trước cử tri hoặc trước cơ quan, tổ
chức hữu quan, đối chiếu với nhiệm
vụ, quyền hạn và trách nhiệm của họ
để đặt câu hỏi chất vấn làm rõ trách
nhiệm, kết quả đạt được trong việc
thực hiện các lời hứa đó.
12. Các kiến nghị khi chất vấn cũng cần
đặt trong phạm vi vấn đề đang chất
vấn và trong phạm vi trách nhiệm
của người bị chất vấn; các kiến nghị
phải rõ ràng, cụ thể mang tính khả
thi và xây dựng, không lấn sân sang
lĩnh vực thuộc nghiệp vụ thanh tra,
điều tra, kiểm sát.
13. Khi đối thoại với người bị chất vấn
cần nắm rõ quyền chất vấn của mình;
liên kết giữa quyền chất vấn với
quyền đề nghị Quốc hội lấy phiếu tín
nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với
những người do Quốc hội bầu hoặc
phê chuẩn.
14. Để chất vấn được “đắt”, các ĐBQH
cần chọn các chủ đề thật bức xúc,
thời sự của đời sống kinh tế- xã hội,
những điều mà đa số người dân, cử
tri đang khát khao gửi gắm tới Quốc
hội và ĐBQH phải chuyển tải được
ý nguyện đó của cử tri, nhân dân;
tạo dư luận xã hội gây sức ép về mặt
trách nhiệm và việc thực hiện lời hứa
của người bị chất vấn.
15. Khi đưa kiến nghị sau câu hỏi chất
vấn, người chất vấn cần xem xét một
cách toàn diện những khó khăn chủ
quan, khách quan của người bị chất
vấn khi thực hiện kiến nghị, phải
nắm thật rõ phạm vi trách nhiệm
quản lý nhà nước, lãnh đạo, chỉ đạo
của họ. Kiến nghị phải thật rõ, cụ thể,
hướng tới khắc phục những hạn chế
đã được ĐBQH chất vấn hoặc góp
phần hoàn thiện cơ chế, pháp luật
trong lĩnh vực do người bị chất vấn
quản lý, như vậy thì người bị chất
vấn mới tâm phục khẩu phục.
3. Một số kiến nghị
Chất vấn các thành viên Chính phủ,
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
Tòa án nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán
nhà nước và các chủ thể khác là phương thức
thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc
hội do ĐBQH tiến hành, thể hiện quyền lực
thuộc về nhân dân và dân chủ thực sự trong
hoạt động của Quốc hội. Đồng thời bảo đảm
cho Quốc hội thực hiện đúng chức năng, vai
trò của cơ quan đại biểu cao nhất của nhân
dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Qua các kỳ họp của Quốc hội khóa
X, khóa XI, khóa XII, khóa XIII, hoạt động
chất vấn của ĐBQH không ngừng được đổi
mới cả về phương pháp, nội dung chất vấn,
được dư luận nhân dân đánh giá cao, bước
đầu có hiệu quả nhất định. Tuy nhiên, hoạt
động chất vấn vẫn còn không ít bất cập, hạn
chế. Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt
động chất vấn tại kỳ họp cần hoàn thiện
phương thức chất vấn và trả lời chất vấn
theo hướng sau:
Một là, chất vấn thể hiện bản lĩnh, trách
nhiệm và năng lực tổng hợp của ĐBQH;
năng lực chất vấn của ĐBQH phụ thuộc lớn
vào các thông tin và năng lực xử lý thông tin
mà ĐBQH thu nhận được. Do đó, ĐBQH
phải được cung cấp thông tin một cách đầy
đủ, toàn diện và kịp thời về những vấn đề mà
đại biểu quan tâm chất vấn.Tuy nhiên, cần
có những thông tin đã được xử lý thông qua
chính ĐBQH, bằng chuyên gia phân tích, tư
vấn, bằng thảo luận, tranh luận tại kỳ họp...
Chất vấn của ĐBQH phải thật “đắt”, làm rõ
được trách nhiệm của đối tượng bị chất vấn,
tạo cơ sở để Quốc hội buộc họ nhận thức ra
và sửa chữa, khắc phục những yếu kém. Đây
là khâu còn yếu, cần phải được hoàn thiện
trong thời gian tới.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
7Số 10(362) T5/2018
Hai là, sau khi nghe báo cáo công tác
của Chính phủ, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Tòa án nhân dân tối cao và các báo cáo
khác (nếu có), các ĐBQH gửi chất vấn đến
Chủ tịch Quốc hội. Đoàn thư ký kỳ họp có
trách nhiệm tổng hợp các chất vấn. UBTVQH
dự kiến và trình Quốc hội quyết định những
vấn đề chất vấn phải trả lời tại hội trường,
những chất vấn cần được trả lời bằng văn
bản, những chất vấn cần được chuẩn bị để
trả lời tại kỳ họp khác của Quốc hội hoặc trả
lời tại các phiên họp của UBTVQH.
Ba là, sau khi nghe trả lời chất vấn,
Quốc hội cần có kết luận hoặc ra nghị quyết
làm rõ trách nhiệm của từng đối tượng bị
chất vấn và giao nhiệm vụ cụ thể cho Chính
phủ, từng thành viên của Chính phủ, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa
án nhân dân tối cao... trong việc khắc phục
những yếu kém, hạn chế mà ĐBQH chất
vấn. Đây là cơ sở pháp lý để biến chất vấn
của ĐBQH thành giám sát tối cao của Quốc
hội tại kỳ họp và có giá trị pháp lý buộc chủ
thể bị chất vấn phải thực hiện, đồng thời để
tiếp tục giám sát, đánh giá tại các kỳ họp
tiếp theo. Trên thực tế, việc ra nghị quyết về
chất vấn và trả lời chất vấn chưa thực hiện
theo đúng quy định tại Điều 15 Luật Hoạt
động giám sát của Quốc hội và Hội đồng
nhân dân.
Việc ra nghị quyết của Quốc hội về
việc trả lời chất vấn và trách nhiệm của
người bị chất vấn phải được xem như một
hoạt động bình thường, thể hiện tính cương
quyết, công khai, minh bạch trong hoạt động
giám sát của ĐBQH.
Bốn là, không nên bố trí chất vấn và
trả lời chất vấn vào cuối kỳ họp, vì dễ tâm lý
buông xuôi, cho qua. Nên bố trí vào khoảng
thời gian từ giữa kỳ họp đến khoảng 2/3 kỳ
họp. Căn cứ vào nội dung chất vấn và trả lời
chất vấn, UBTVQH quyết định những vấn
đề cần báo cáo, giải trình hoặc những biện
pháp mà người trả lời chất vấn phải khắc
phục và báo cáo Quốc hội. Đương nhiên, tùy
vấn đề và mức độ trách nhiệm mà xác định
thời hạn báo cáo để đánh giá hoặc có thể tiến
hành lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm
nhưng cần báo cáo về biện pháp khắc phục
đã làm tại kỳ họp tiếp theo của Quốc hội.
Như vậy, để người bị chất vấn thực sự nêu
cao trách nhiệm, có những biện pháp hữu
hiệu giải quyết những vấn đề bức xúc mà
ĐBQH đã chất vấn.
Năm là, nâng cao trách nhiệm, chất
lượng chất vấn của ĐBQH. Chất vấn phải có
địa chỉ cụ thể về trách nhiệm, cần hướng vào
các vấn đề mà cử tri đòi hỏi để làm rõ trách
nhiệm, khuyết điểm của người bị chất vấn
và yêu cầu họ phải thực hiện các biện pháp
khắc phục. Tránh tình trạng nêu chất vấn
không rõ hoặc chỉ để biết thông tin, không
liên quan tới thẩm quyền, trách nhiệm của
người bị chất vấn.
Sáu là, đối với những vấn đề bức xúc
mà cử tri nêu ra, ĐBQH phải nghiên cứu
trước, yêu cầu cơ quan, tổ chức hữu quan
cung cấp thông tin hoặc tự mình thu thập, xử
lý thông tin về những vấn đề liên quan đến
chất vấn. Chất lượng và hiệu quả của hoạt
động chất vấn phụ thuộc vào chất lượng,
đúng bản chất sự việc, buộc đối tượng bị
chất vấn phải “tâm phục, khẩu phục” sẽ làm
cho cử tri cả nước có điều kiện để đánh giá
hoạt động của cơ quan nhà nước và thêm tin
tưởng Quốc hội.
Bảy là, đối với người trả lời chất vấn
phải nghiên cứu kỹ yêu cầu chất vấn, chuẩn
bị đầy đủ dữ liệu, trả lời tập trung, chính xác,
súc tích vấn đề đã nêu. Không báo cáo vòng
vo, liệt kê thành tích ngành, né tránh trách
nhiệm hoặc thanh minh, đổ lỗi cho ngành
khác, cho khách quan; sau trả lời chất vấn
phải đề ra và thực hiện cho được biện pháp
khắc phục các hạn chế, khuyết điểm■
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
8 Số 10(362) T5/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ky_nang_dat_cau_hoi_chat_van_va_dua_kien_nghi_khi_chat_van.pdf