Đối với bị cáo và người bào chữa
thường cho rằng mức bồi thường thiệt hại
đối với bị cáo như vậy là quá cao, không hợp
lý hoặc hình thức xử lý vật chứng như vậy
là không phù hợp, yêu cầu giảm bớt mức
bồi thường thiệt hại hoặc trả lại vật chứng,
tài sản cho bị cáo. Đối với bị hại hoặc người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại
lại cho rằng mức bồi thường thiệt hại hoặc
biện pháp xử lý vật chứng mà VKS đề nghị
là không hợp lý, quá ít, cần phải tăng mức
bồi thường, tịch thu vật chứng
Trường hợp này KSV tranh luận, đối
đáp, phân tích mức độ thiệt hại, phần lỗi
của bị hại trong vụ án (nếu có), khả năng
tài chính của bị cáo, các quy định của pháp
luật hình sự, pháp luật dân sự, các văn bản
dưới luật về bồi thường thiệt hại dân sự
trong vụ án hình sự, về xử lý vật chứng để
khẳng định mức bồi thường thiệt hại hoặc
biện pháp xử lý vật chứng mà VKS đưa ra
là hợp lý, có căn cứ và đúng pháp luật.
KSV cần lưu ý, mặc dù luận tội thể hiện
quan điểm cuối cùng của VKS về việc giải
quyết vụ án về tội mua bán người hoặc tội
mua bán người dưới 16 tuổi, KSV tham gia
tranh luận, đối đáp cần bảo vệ được quan
điểm đó. Tuy nhiên, nếu quá trình tranh
luận phát hiện những tình tiết mới có thể
làm thay đổi nội dung vụ án hoặc thay đổi
quan điểm, đường lối xử lý vụ án mà không
thể làm rõ, kết luận được khi tranh luận thì
KSV phải đề nghị HĐXX quay trở lại phần
xét hỏi và có thể đề nghị hoãn phiên tòa để
tiến hành điều tra, xác minh bổ sung. KSV
tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm các vụ án
mua bán người nhằm bảo đảm việc điều
tra, truy tố, xét xử về các tội trên không
xảy ra oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân theo quy
định của Hiến pháp và pháp luật.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 205 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kỹ năng tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án mua bán người, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
91Số chuyên đề 2 - 2020 Khoa học Kiểm sát
KỸ NĂNG TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ SƠ THẨM...
CÁC VỤ ÁN MUA BÁN NGƯỜI
MAI ĐẮC BIÊN*
Trong giai đoạn tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Kiểm sát viên
là một chủ thể quan trọng, là người đưa ra quan điểm luận tội, tranh luận đối đáp về những
vấn đề mà bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác đưa ra. Chính vì vậy, việc
Kiểm sát viên cần trang bị tốt kỹ năng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án
hình sự nói chung và các vụ án mua bán người nói riêng là hết sức cần thiết, nhằm tìm ra sự
thật khách quan của vụ án, xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan, bỏ
lọt tội phạm, bảo vệ quyền con người và lợi ích của Nhà nước, công dân.
Từ khóa: Tranh tụng, phiên tòa xét xử sơ thẩm, vụ án mua bán người, Kiểm sát viên.
Ngày nhận bài: 10/7/2020; Ngày biên tập xong: 13/7/2020; Ngày duyệt đăng: 13/7/2020.
In the advocacy process at the first-instance trial of criminal cases, the
Prosecutors are important people who offer impeachment and debate about matters
presented by the accused, defense counsels and other proceeding participants.
Therefore, Prosecutors’ advocacy skills at the first-instance trial of criminal cases
generally and human trafficking cases particularly is necessary that supports to
find out the objective truths of the case, not to injustice innocent people or neglect
crimes, protect human rights and the interests of the State and citizens.
Keywords: Advocacy, first-instance trial, human trafficking cases, Prosecutor.
1. Căn cứ pháp lý về tranh tụng
Tranh tụng trong quá trình giải quyết
vụ án hình sự là một nội dung lớn được thể
hiện đầy đủ trong các văn kiện quan trọng
của Đảng, các văn bản quy phạm pháp luật
của Nhà Nước và của ngành Kiểm sát. Các
điểm b, c, d khoản 1 mục B Nghị quyết số
08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính
trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác
tư pháp trong thời gian tới” xác định: “Viện
kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công
tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
hoạt động tư pháp. Nâng cao chất lượng
công tố của Kiểm sát viên tại phiên toà, bảo
đảm tranh tụng dân chủ với luật sư, người
bào chữa và những người tham gia tố tụng
khác...”; Điểm 2.2. Mục 2 Nghị quyết số 49-
NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”
xác định: “Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét
xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách
nhiệm của người tiến hành tố tụng và người
tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính
công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao
chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét
xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động
tư pháp”; Khoản 5 Điều 103 Hiến pháp 2013
quy định: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét
xử được bảo đảm”.1
Điều 26 Bộ luật tố tụng hình sự năm
2015 quy định về nguyên tắc “Tranh tụng
trong xét xử được bảo đảm”; Mục 5 chương
21 BLTTHS năm 2015 quy định “Thủ tục
tranh tụng tại phiên tòa”, trong đó Điều
322 quy định chi tiết cụ thể về tranh luận.
Chỉ thị số 09/CT-VKSTC ngày 06/4/2016 của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao
(VKSNDTC) về “Tăng cường các biện pháp
nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm
sát viên tại phiên tòa”, trong đó đưa ra 10
nội dung yêu cầu cho ngành Kiểm sát thực
* Tiến sĩ, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kiểm
sát Hà Nội.
92 Khoa học Kiểm sát Số chuyên đề 2 - 2020
KỸ NĂNG TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ SƠ THẨM...
hiện nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng
của Kiểm sát viên (KSV) tại phiên tòa, bảo
đảm bình đẳng, dân chủ, xác định sự thật
khách quan của vụ án, kịp thời phát hiện
và khắc phục các vi phạm pháp luật trong
quá trình điều tra, truy tố, xét xử, đáp ứng
yêu cầu cải cách tư pháp trong thời kỳ mới;
Quy chế Công tác thực hành quyền công
tố, kiểm sát xét xử vụ án hình sự (Ban hành
kèm theo Quyết định số 505/QĐ-VKSTC ngày
18/12/2017 của Viện trưởng VKSNDTC), tại
Điều 25, 26 quy định cụ thể việc KSV luận
tội và tranh luận tại phiên tòa hình sự.
2. Kỹ năng tranh tụng của Kiểm sát viên
Khi tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm các
vụ án mua bán người hoặc mua bán người
dưới 16 tuổi, KSV thực hiện các kỹ năng
tranh tụng như đối với các vụ án hình sự
khác, nhưng tập trung làm rõ các nội dung
riêng biệt liên quan đến tội mua bán người,
tội mua bán người dưới 16 tuổi. Khi tranh
tụng tại phiên tòa sơ thẩm các vụ án mua
bán người, mua bán người dưới 16 tuổi,
KSV trình bày luận tội, trong đó phân tích
hành vi phạm tội, tính chất, mức độ nguy
hiểm của hành vi phạm tội, yếu tố lỗi, động
cơ, mục đích của người phạm tội, công cụ,
phương tiện cũng như thủ đoạn phạm tội;
hậu quả của tội phạm cũng như các tình tiết
tăng nặng, giảm nhẹ hình phạt, các tình tiết
khác có liên quan đến vụ án; đề nghị kết
tội bị cáo theo điểm, khoản nào của Điều
150 (tội mua bán người) hoặc Điều 151 (tội
mua bán người dưới 16 tuổi) của BLHS; loại
và mức hình phạt, mức bồi thường thiệt hại
cũng như biện pháp xử lý vật chứng trong
vụ án. Khi bị cáo, người bào chữa hoặc
người tham gia tố tụng khác đưa ra ý kiến,
quan điểm để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình, KSV đối đáp đến cùng với
từng ý kiến để bảo vệ quan điểm truy tố,
buộc tội của Viện kiểm sát (VKS). Chủ tọa
phiên tòa phải tạo điều kiện cho các bên
tranh luận, trình bày hết ý kiến của mình.
Trong quá trình tranh luận, nếu thấy còn có
những vấn đề cần phải xét hỏi thêm để làm
rõ thì KSV đề nghị Chủ tọa phiên tòa cho
quay lại phần xét hỏi để tiếp tục xét hỏi, làm
rõ. Sau khi xét hỏi xong lại tiếp tục tranh
luận, đối đáp. Việc tranh luận, đối đáp chỉ
kết thúc khi Chủ tọa phiên tòa xác định
không ai còn ý kiến cần tranh luận, đối đáp.
Để việc tranh tụng tại phiên tòa sơ
thẩm các vụ án mua bán người, mua bán
người dưới 16 tuổi có chất lượng cao, KSV
thực hiện tốt kỹ năng tranh tụng sau đây:
Thứ nhất, KSV phải chú ý lắng nghe
các bên trình bày quan điểm, ý kiến của họ,
nhất là quan điểm bào chữa của luật sư, bị
cáo, vừa nghe vừa ghi lại tóm tắt để nắm
được nội dung vấn đề, đề nghị, ý kiến phản
đối. Nếu vụ án có nhiều người cùng bào
chữa cho một bị cáo thì KSV có thể nghe
từng người để tham gia đối đáp hoặc tổng
hợp ý kiến chung của tất cả những người
bào chữa để đối đáp.
Thứ hai, trong quá trình nghe, KSV cần
nhanh chóng phân tích nội dung vấn đề mà
bị cáo, người bào chữa đặt ra, đồng thời
xác định nhanh nội dung cần tranh luận,
đối đáp, chứng cứ cần sử dụng để bảo vệ
quan điểm đúng đắn của mình và bác bỏ ý
kiến không đúng đắn của bị cáo, người bào
chữa, người tham gia tố tụng khác.
Thứ ba, khi tranh luận, KSV cần căn cứ
vào lý luận cấu thành tội phạm của tội mua
bán người hoặc tội mua bán người dưới 16
tuổi, lý luận về chứng cứ để lập luận một
cách lôgic từng vấn đề, từ đó phản bác ý kiến
của phía tham gia tranh luận. KSV cần dựa
vào các chứng cứ của vụ án, các văn bản quy
phạm pháp luật, các văn bản dưới luật để
tranh luận, đối đáp, lập luận chặt chẽ để bác
bỏ ý kiến sai trái hoặc không đúng của người
bào chữa, bị cáo, bị hại hoặc những người
khác. Khi tranh luận, KSV phải giữ thái độ
bình tĩnh, tư thế, tác phong nghiêm trang tạo
sự uy nghi của phiên tòa hình sự, nói to, rõ
ràng, mạch lạc, đối đáp đúng trọng tâm.
Thực tế thực hành quyền công tố tại
phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự về tội mua
bán người hoặc tội mua bán người dưới 16
tuổi cho thấy, người bào chữa, bị cáo, bị hại,
93Số chuyên đề 2 - 2020 Khoa học Kiểm sát
MAI ĐẮC BIÊN
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự, bị hại thường tập trung tranh
luận vào những vấn đề sau:
- Không thừa nhận bị cáo phạm tội
theo cáo trạng truy tố của VKS, kết luận
trong luận tội của KSV.
Đây là trường hợp thường xảy ra trong
thực tiễn xét xử vụ án hình sự nói chung và
về tội mua bán người, mua bán người dưới
16 tuổi nói riêng, khi bị cáo hoặc người bào
chữa, người đại diện cho bị cáo không thừa
nhận việc bị cáo phạm tội theo cáo trạng của
VKS, luận tội của KSV. Trong trường hợp
này, KSV cần phân tích lý luận cấu thành
tội phạm về tội mua bán người, tội mua bán
người dưới 16 tuổi, đánh giá hành vi của bị
cáo, động cơ, mục đích, hậu quả thiệt hại đã
gây ra, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi
và hậu quả; những chứng cứ xác đáng thu
thập được trong quá trình điều tra, truy tố,
xét xử đã đủ để khẳng định hành vi của bị
cáo là hành vi phạm tội được quy định trong
các Điều 150 hoặc 151 BLHS mà VKS đã viện
dẫn để truy tố, KSV đã kết luận, đề nghị
trong luận tội. Những lý do mà bị cáo, người
bào chữa đưa ra như chưa đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự, mất năng lực trách nhiệm
hình sự, không có hành vi mua bán người,
hành vi chưa đến mức chịu trách nhiệm hình
sự hoặc những tình tiết loại trừ trách nhiệm
hình sự khác là không có căn cứ, không phù
hợp với quy định của pháp luật hình sự.
- Bị cáo, người bào chữa thừa nhận bị
cáo phạm tội nhưng phạm tội khác nhẹ hơn
so với tội mua bán người, mua bán người
dưới 16 tuổi (ví dụ tội chiếm đoạt người dưới
16 tuổi theo Điều 153 BLHS) mà VKS truy tố,
kết luận nên đề nghị thay đổi tội danh.
Trường hợp này, ngoài việc phân tích
lý luận cấu thành tội phạm của tội mua bán
người hoặc tội mua bán người dưới 16 tuổi
mà VKS đã truy tố, KSV còn phải phân tích
lý luận cấu thành tội phạm của tội mà bị
cáo, người bào chữa đưa ra, đánh giá hành
vi khách quan của bị cáo, hậu quả thiệt hại,
động cơ, mục đích phạm tội, mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi và hậu quả... Những
yếu tố đó khẳng định hành vi phạm tội của
bị cáo đã phạm vào tội mà VKS đã truy tố,
việc thay đổi tội danh theo yêu cầu của bị
cáo, người bào chữa là không có căn cứ,
không đúng quy định của pháp luật hình sự.
- Thừa nhận bị cáo phạm tội theo đúng
điều luật mà VKS đã truy tố nhưng phạm
vào khoản khác nhẹ hơn so với khoản VKS
đã truy tố1.
Trường hợp này, KSV ngoài việc phân
tích các dấu hiệu của tội phạm mua bán
người hoặc tội mua bán người dưới 16 tuổi
còn phân tích cụ thể hành vi của bị cáo đã
gây ra thiệt hại hoặc các tình tiết khác là căn
cứ để định khung hình phạt như: mức độ
thiệt hại, các tình tiết tăng nặng định khung
khác (có tổ chức; vì động cơ đê hèn; gây
thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc
gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn
nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến
60%...) để khẳng định khung truy tố của
VKS là có căn cứ và đúng pháp luật. KSV
có thể vận dụng các văn bản dưới luật như
Nghị quyết hướng dẫn của Hội đồng Thẩm
phán TANDTC để chứng minh khoản truy
tố của VKS là đúng đắn2.
- Thừa nhận bị cáo phạm tội theo đúng
tội danh, điều, khoản của VKS đã truy tố
nhưng quá trình điều tra, truy tố, xét xử có
vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng nên
đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) hoãn phiên
tòa, trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung.
Trong trường hợp này, KSV phải tranh
luận rõ xem những vi phạm mà bị cáo, người
bào chữa đưa ra là những vi phạm gì cụ thể.
KSV phân tích quy định của pháp luật hình
sự, tố tụng hình sự và các văn bản dưới luật
để xác định xem những vấn đề đó có phải là
vi phạm hoặc vi phạm nghiêm trọng thủ tục
1 Ví dụ: VKS truy tố theo khoản 2 Điều 150 BLHS
về tội mua bán người với tình tiết định khung tăng
nặng là “Có tổ chức” nhưng bị cáo, người bào chữa
chỉ thừa nhận phạm tội theo khoản 1, không đồng
ý với tình tiết định khung tăng nặng “Có tổ chức”.
2 Ví dụ như Nghị quyết số 02-HĐTP/NQ ngày
16 tháng 11 năm 1988 của Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn về phạm tội
có tổ chức.
94 Khoa học Kiểm sát Số chuyên đề 2 - 2020
KỸ NĂNG TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ SƠ THẨM...
tố tụng hay không? Nếu có vi phạm thì KSV
đánh giá mức độ, tính chất vi phạm đó để
xác định đây có phải là căn cứ trả hồ sơ yêu
cầu điều tra bổ sung theo khoản 1 Điều 280
BLTTHS hay không hay có thể khắc phục
được tại phiên tòa. Trên cơ sở đánh giá, nhận
xét đó, KSV thể hiện quan điểm của mình về
yêu cầu trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Đối với
trường hợp có vi phạm nghiêm trọng thủ tục
tố tụng nhưng không xâm hại nghiêm trọng
đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham
gia tố tụng thì KSV đề nghị Tòa án không trả
hồ sơ để điều tra bổ sung31.
Trường hợp bị cáo cho rằng quá trình
điều tra, truy tố, Điều tra viên (ĐTV), KSV
đã có những hành vi vi phạm như dụ cung,
mớm cung, bức cung hoặc dùng nhục hình
để ép cung thì KSV có thể đề nghị HĐXX
triệu tập ĐTV, KSV đến phiên tòa để tham gia
đối chất hoặc trình bày những nội dung có
liên quan đến việc trình bày của bị cáo. Trong
trường hợp xác định có vi phạm tố tụng, KSV
phải xem xét, đánh giá kỹ lưỡng từng dạng vi
phạm, nếu vi phạm nhỏ, không ảnh hưởng
đến xác định sự thật khách quan của vụ án
thì KSV phát biểu quan điểm không đồng
ý với yêu cầu trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Trường hợp có vi phạm nghiêm trọng thủ tục
tố tụng mà xét thấy cần phải điều tra, làm rõ,
bảo đảm tính khách quan của vụ án, thuộc
các trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung
thì KSV phải đề nghị HĐXX hoãn phiên tòa,
trả hồ sơ để điều tra bổ sung42.
3 Theo hướng dẫn của khoản 2 Điều 6 Thông tư
liên tịch số 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-
BCA-BQP ngày 22/12/2017 giữ VKSNDTC,
TANDTC, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng hướng
dẫn về trả hồ sơ điều tra bổ sung thì: “2. Viện
kiểm sát, Tòa án không trả hồ sơ để điều tra bổ
sung theo quy định tại khoản 1 Điều này khi
thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Có
vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, nhưng
không xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích
hợp pháp của người tham gia tố tụng”.
4 Xem Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT-
VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP, ngày 22/12/2017
quy định việc phối hợp giữa các cơ quan tiến
hành tố tụng trong thực hiện một số quy định
của BLTTHS về trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
- Bị cáo, người bào chữa không đồng ý
với các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình
sự, đề nghị loại bỏ tình tiết tăng nặng; bị
hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của bị hại không đồng ý với tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị loại bỏ.
Đây là trường hợp bị cáo, người bào
chữa không đồng ý với các tình tiết tăng
nặng đề nghị áp dụng đối với bị cáo, đề nghị
loại bỏ và đề nghị tăng thêm tình tiết giảm
nhẹ. Đối với bị hại hoặc người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của bị hại lại cho rằng
cần tăng thêm tình tiết tăng nặng và cần loại
bỏ tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo. Trong
trường hợp này, KSV cần phải đối đáp, phân
tích đánh giá hành vi phạm tội của bị cáo,
nhân thân của bị cáo, các tình tiết khác có liên
quan, viện dẫn các quy định của BLHS năm
2015, BLTTHS năm 2015, các văn bản dưới
luật để xác định, khẳng định các tình tiết mà
VKS áp dụng là đúng đắn, có căn cứ. Những
lý do, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ
mà các bên đưa ra là không có căn cứ, không
phù hợp với nội dung vụ án.
- Không đồng ý với loại và mức hình
phạt mà KSV đề nghị.
Bị cáo, người bào chữa trong vụ án
buôn bán người thường cho rằng loại và
mức hình phạt mà KSV đề nghị là quá nặng
đối với bị cáo, không tương xứng với hành
vi phạm tội, không phù hợp với chính sách
pháp luật hình sự của Nhà nước, cần giảm
hình phạt; bị hại hoặc người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của bị hại lại cho rằng
loại và mức hình phạt như vậy là quá nhẹ
đối với bị cáo, cần tăng hình phạt. Trong
trường hợp này, KSV phải đối đáp, phân
tích, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm
của hành vi phạm tội căn cứ vào khách thể
bị xâm hại, đối tượng tác động, phương
thức, thủ đoạn thực hiện hành vi, động cơ
và mục đích của bị cáo; hình thức và mức
độ lỗi, mức độ thiệt hại đã gây ra; các biện
pháp và khả năng khắc phục thiệt hại, các
tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự, nhân thân và khả năng cải tạo của
bị cáo, so sánh với mức hình phạt của điều
95Số chuyên đề 2 - 2020 Khoa học Kiểm sát
MAI ĐẮC BIÊN
luật áp dụng để kết luận, khẳng định loại
và mức hình phạt mà KSV đề nghị là có căn
cứ, phù hợp với quy định của pháp luật.
- Không đồng ý với mức bồi thường
thiệt hại hoặc biện pháp xử lý vật chứng do
KSV đề nghị.
Đối với bị cáo và người bào chữa
thường cho rằng mức bồi thường thiệt hại
đối với bị cáo như vậy là quá cao, không hợp
lý hoặc hình thức xử lý vật chứng như vậy
là không phù hợp, yêu cầu giảm bớt mức
bồi thường thiệt hại hoặc trả lại vật chứng,
tài sản cho bị cáo. Đối với bị hại hoặc người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại
lại cho rằng mức bồi thường thiệt hại hoặc
biện pháp xử lý vật chứng mà VKS đề nghị
là không hợp lý, quá ít, cần phải tăng mức
bồi thường, tịch thu vật chứng
Trường hợp này KSV tranh luận, đối
đáp, phân tích mức độ thiệt hại, phần lỗi
của bị hại trong vụ án (nếu có), khả năng
tài chính của bị cáo, các quy định của pháp
luật hình sự, pháp luật dân sự, các văn bản
dưới luật về bồi thường thiệt hại dân sự
trong vụ án hình sự, về xử lý vật chứng để
khẳng định mức bồi thường thiệt hại hoặc
biện pháp xử lý vật chứng mà VKS đưa ra
là hợp lý, có căn cứ và đúng pháp luật.
KSV cần lưu ý, mặc dù luận tội thể hiện
quan điểm cuối cùng của VKS về việc giải
quyết vụ án về tội mua bán người hoặc tội
mua bán người dưới 16 tuổi, KSV tham gia
tranh luận, đối đáp cần bảo vệ được quan
điểm đó. Tuy nhiên, nếu quá trình tranh
luận phát hiện những tình tiết mới có thể
làm thay đổi nội dung vụ án hoặc thay đổi
quan điểm, đường lối xử lý vụ án mà không
thể làm rõ, kết luận được khi tranh luận thì
KSV phải đề nghị HĐXX quay trở lại phần
xét hỏi và có thể đề nghị hoãn phiên tòa để
tiến hành điều tra, xác minh bổ sung. KSV
tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm các vụ án
mua bán người nhằm bảo đảm việc điều
tra, truy tố, xét xử về các tội trên không
xảy ra oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân theo quy
định của Hiến pháp và pháp luật./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002
của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm
công tác tư pháp trong thời gian tới”;
2. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005
của Bộ Chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020”;
3. Giáo trình Luật tố tụng hình sự của
Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, NXB Chính trị
Quốc gia – Sự thật;
4. Giáo trình Kỹ năng của Thẩm phán, Kiểm
sát viên, Luật sư trong giải quyết vụ án hình sự
của Học viện Tư pháp, NXB Tư pháp năm 2017;
5. Giáo trình Thực hành quyền công tố và
Kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Trường Đại
học Kiểm sát Hà Nội, NXB Tư pháp năm 2019;
6. Đề tài khoa học: “Vấn đề bảo vệ quyền con
người của bị can, bị cáo, bị hại và người làm chứng
trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình
sự năm 2015”, Đề tài khoa học cấp cơ sở năm
2016 của Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội do
TS. Mai Đắc Biên chủ nhiệm.
7. Luận văn thạc sỹ luật học: “Kiểm sát hoạt
động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh
Lạng Sơn” của tác giả Nguyễn Bảo Ngọc, (Học
viện Khoa học xã hội, 2017) “Kiểm sát hoạt động
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trên cơ sở nghiên
cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Hoà Bình” của tác giả
Nguyễn Tuấn Anh (Khoa Luật - Đại học Quốc
gia Hà Nội, 2015); “Thực hành quyền công tố và
kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự” của tác giả
Nguyễn Thị Kim Ngân (Trường Đại học Luật Hà
Nội, 2016).
8. Bài viết khoa học:“Công tác thực hành
quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự tại phiên tòa
theo yêu cầu cải cách tư pháp” của tác giả Phạm Văn
An (Tạp chí Kiểm sát, số 7, tháng 4/2011); “Một
số kinh nghiệm trong công tác thực hành quyền công
tố, kiểm sát xét xử hình sự tại phiên tòa theo yêu cầu
cải cách tư pháp” của tác giả Phạm Văn An (Tạp
chí Kiểm sát số 10, tháng 5/2011); “Một số kinh
nghiệm nhằm nâng cao kỹ năng xét hỏi, tranh luận
của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm hình sự đối
với các tội phạm xâm phạm an toàn giao thông đường
bộ” của tác giả Mai Đắc Biên (Tạp chí Kiểm sát,
số 15, tháng 8 /2016; trang 26-30); “Một số vấn đề
Kiểm sát viên cần lưu ý khi tranh luận tại phiên tòa
hình sự” của tác giả Mai Đắc Biên (Tạp chí Kiểm
sát, số 10, tháng 5/2018; trang 15-20); “Một số vấn
đề lý luận về THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp”
của tác giả Nguyễn Đình Trung (Tạp chí Kiểm sát
số 22, tháng 11/2019).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ky_nang_tranh_tung_tai_phien_toa_xet_xu_so_tham_cac_vu_an_mu.pdf