Thứ nhất, cần có môi trường pháp lý an
toàn cho người dân tham gia, để chính
quyền phải lắng nghe, thấu hiểu ý dân, cụ
thể là tổ chức thực hiện tốt Luật Tố cáo,
Luật Báo chí, Luật Tiếp cận thông tin mới
được Quốc hội ban hành trong thời gian gần
đây, đồng thời Quốc hội cần sớm ban hành
Luật về Hội, Luật Bảo vệ nhân chứng. Các
Luật Tố cáo, Luật Báo chí, Luật Tiếp cận
thông tin, Luật về Hội, Luật Bảo vệ nhân
chứng là bộ năm vũ khí sắc bén vừa có khả
năng tấn công hữu hiệu vừa phòng vệ chính
đáng đối với nạn tham nhũng để người dân
thực hiện quyền tố cáo, quyền tự do ngôn
luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội
họp và sẵn sàng đứng ra làm nhân chứng
trước tòa theo quy định của Hiến pháp năm
2013 và các đạo luật về tố tụng. Các đạo luật
này sẽ tạo ra sức mạnh chống tham nhũng
từ phía nhân dân mà chính quyền không thể
bao biện, tắc trách, bỏ qua. Đây cũng là tinh
thần mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn
trước đây “Nếu Chính phủ làm hại thì dân
có quyền đuổi Chính phủ”17.
Thứ hai, cần có sự tôn vinh của Nhà
nước, của xã hội đối với việc tố cáo tham
nhũng. Trong thực tiễn, ít người đặt mục
tiêu tố cáo tham nhũng để được khen, thậm
chí có người biết rõ mà còn lảng tránh để
không bị phiền phức. Cần nhận thức việc tố
cáo phát hiện hành vi tham nhũng cũng vẻ
vang như việc toàn dân thực hiện phòng
gian, bảo mật thời kỳ kháng chiến, sẵn sàng
phát hiện, bắt bọn “Việt gian, mật thám” để
bảo vệ chế độ. Nhưng việc tố cáo tham
nhũng có thể làm cho họ phải đối mặt với
nhiều rủi ro sẽ đến như bị kỷ luật, buộc thôi
việc, luân chuyển công tác, phân biệt đối
xử, bị đe dọa xâm hại đến tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản
v.v. Vì vậy, người tố cáo hành vi tham
nhũng cần được Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ
trưởng các Bộ, ngành kịp thời khen thưởng
hoặc trình cấp có thẩm quyền khen thưởng
(Huân chương Dũng cảm, Bằng khen của
Thủ tướng Chính phủ, Bằng khen của Bộ,
ngành ). Đồng thời, cần sửa đổi Luật
Phòng, chống tham nhũng, trong đó phải
hoàn thiện cơ chế bảo vệ hữu hiệu đối với
người tố cáo tham nhũng.
Thứ ba, tố cáo tham nhũng cũng như tố
cáo các loại tội phạm nghiêm trọng khác
cần có sự tưởng thưởng vật chất. Đây là
kinh nghiệm hay của ông cha ta18 và nhiều
nước đã áp dụng. Chống tham nhũng có hai
mục tiêu lớn là làm trong sạch bộ máy trong
Đảng, chính quyền và thu hồi tài sản bị
tham nhũng. Nếu chúng ta chỉ trừng trị
được cá nhân có hành vi tham nhũng mà
không thu hồi được tài sản tham nhũng thì
thành công chỉ là một nửa, hoặc không
được coi là thành công vì tài sản tham
nhũng sẽ được chuyển giao thông qua các
giao dịch và tiếp tục tiềm ẩn sự bất ổn cho
xã hội. Việc thu hồi tài sản tham nhũng rõ
ràng có công lao của người tố cáo. Vì vậy,
trong điều kiện kinh tế thị trường, thưởng
vật chất theo mức giá trị tài sản thu hồi
được là sự khuyến khích chính đáng đối với
người tố cáo tham nhũng
gian, bảo mật thời kỳ kháng chiến, sẵn sàng
phát hiện, bắt bọn “Việt gian, mật thám” để
bảo vệ chế độ. Nhưng việc tố cáo tham
nhũng có thể làm cho họ phải đối mặt với
nhiều rủi ro sẽ đến như bị kỷ luật, buộc thôi
việc, luân chuyển công tác, phân biệt đối
xử, bị đe dọa xâm hại đến tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản
v.v. Vì vậy, người tố cáo hành vi tham
nhũng cần được Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ
trưởng các Bộ, ngành kịp thời khen thưởng
hoặc trình cấp có thẩm quyền khen thưởng
(Huân chương Dũng cảm, Bằng khen của
Thủ tướng Chính phủ, Bằng khen của Bộ,
ngành ). Đồng thời, cần sửa đổi Luật
Phòng, chống tham nhũng, trong đó phải
hoàn thiện cơ chế bảo vệ hữu hiệu đối với
người tố cáo tham nhũng.
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 216 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kỷ niệm 71 năm cách mạng tháng Tám và quốc khánh 2-9 chống tham nhũng và cuộc chiến bảo vệ chế độ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Xác định rõ: Tệ tham nhũng như “giặc
nội xâm” nằm trong bộ máy chính quyền
Tham nhũng là một hiện tượng lịch sử
gắn liền với sự tha hóa của quyền lực ở mọi
chế độ chính trị. Nhà quý tộc Anh quốc Lord
Acton (1834-1920) cho rằng, “quyền lực
làm con người tha hóa. Quyền lực tuyệt đối
sẽ dẫn đến tha hóa tuyệt đối”1. Vì vậy, để
bảo vệ chế độ, mọi quốc gia luôn xây dựng
cơ chế để những nhà ái quốc chống lại sự
tha hóa quyền lực, cội nguồn của tham
nhũng. Cuộc chiến chống tham nhũng vì vậy
thực chất là cuộc chiến của chính nghĩa
đứng về phía nhân dân chống lại sự tha hóa
của những kẻ nắm giữ quyền lực nên sẽ vô
cùng gian nan, quyết liệt. Cuộc đối đầu giữa
hai nhân vật có thật trong lịch sử Trung
Quốc là Lưu Dung và Hòa Thân đời Nhà
Thanh đã được xây dựng thành bộ phim “Tể
tướng Lưu gù” là minh chứng về sự khó
khăn, nguy hiểm cho những ai dám dấn thân
vào cuộc chiến đấu này. Lối sống phô
trương, ăn chơi, sa đọa của kẻ tham nhũng
còn tương đối dễ nhận diện, nhưng những
kẻ tham nhũng giấu mình còn nguy hiểm
hơn. Mới đây, trên báo chí Trung Quốc còn
vạch mặt một loạt các quan tham nhũng núp
bóng thanh liêm, bao gồm đủ các loại
nguyên là cán bộ cấp cao rất giỏi “diễn kịch”
chống tham nhũng, cho thấy cuộc chiến
3
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 15(319) T8/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
CHÖËNG THAM NHUÄNG VAÂ CUÖÅC CHIÏËN BAÃO VÏå CHÏË ÀÖÅ
Phạm VăN hùNg*
* TS, Tổng Biên tập Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp.
1
KỶ NIỆM 71 NĂM CÁCH MẠNG THÁNG TÁM VÀ QUỐC KHÁNH 2-9
LTS: Chủ tịch Hồ Chí Minh là người chiến sỹ cách mạng đi tiên phong trong việc vạch
trần những thủ đoạn tham ô, nhũng lạm của bọn quan lại trong bộ máy chính quyền
thực dân, phong kiến. Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, để bảo vệ chính
quyền cách mạng non trẻ, cùng với việc phát động phong trào thi đua yêu nước“diệt
giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm”, Người còn không ngừng chăm lo việc làm
trong sạch bộ máy Đảng, chính quyền bằng việc nhắc nhở, kêu gọi và thẳng tay trừng
trị tội phạm tham những. Người cho rằng, quan liêu, tham ô, lãng phí là “bạn đồng
minh của thực dân, phong kiến”, là “kẻ thù của nhân dân, của bộ đội, của Chính phủ”
và “tội lỗi ấy cũng nặng như tội Việt gian, mật thám”. Bài viết giới thiệu một số quan
điểm của Hồ Chí Minh về cuộc chiến chống tham nhũng và sự vận dụng của Đảng, Nhà
nước ta trong quá trình bảo vệ thành quả cách mạng và nêu một số vấn đề đặt ra trong
tình hình mới.
chống tham nhũng ở nước này đang gặp
phải những thủ đoạn mới vô cùng tinh vi,
xảo quyệt, khó phát hiện2. Điển hình là
những kẻ trong con mắt của cấp trên, đồng
sự, cấp dưới và dân chúng là người bình dị,
dễ gần, không hút thuốc, chẳng uống rượu,
thường xuyên mặc quần áo cũ, đi dép nhựa,
dùng thắt lưng đã bong tróc lớp ngoài, ngày
ngày cưỡi xe đạp, nổi tiếng mẫu mực nhưng
đã bị điều tra về tội nhận hội lộ bằng biệt
thự, tiền mặt, thẻ ngân hàng và các tài sản
khác giá trị hàng trăm tỷ đồng.
Ở Việt Nam, trong quá trình tìm đường
cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ
nghiên cứu về những học thuyết chính trị để
chuẩn bị cho cuộc cách mạng tương lai mà
Người còn vạch trần, lên án tính chất tham
nhũng trong bộ máy chính quyền của bọn
thực dân, phong kiến. Trong tác phẩm “Bản
án chế độ thực dân Pháp”, Người đã dành
hẳn một chương viết về nạn tham nhũng
trong bộ máy cai trị, với vô vàn các biểu
hiện tham nhũng của các quan tham tự xưng
là “quan phụ mẫu” như: tham quan, triển
lãm, ăn uống, tiếp khách, giải trí, mua sắm
biệt thự, rút tiền từ nhận thầu các công trình
xây dựng, làm đường tất cả đều lấy từ tiền
thuế, phí của người dân, đổ gánh nặng thuế
khóa lên người dân3. Cách mạng Tháng Tám
năm 1945 thành công nhưng Nhà nước non
trẻ phải đối mặt với vô vàn những khó khăn,
thử thách, thù trong, giặc ngoài đe dọa sự
tồn vong của chế độ. Chủ tịch Hồ Chí Minh
và Đảng ta đã phải có những đối sách vừa
kiên quyết, vừa mềm dẻo để tập hợp lực
lượng, thực hiện toàn dân đoàn kết để bảo
vệ chính quyền cách mạng non trẻ. Cuộc
Tổng tuyển cử đầu tiên (6/1/1946) thành
công đã hình thành nên bộ máy chính quyền
mới với đầy đủ vị thế của một quốc gia độc
lập nhưng cũng là sự bắt đầu cho một cuộc
chiến đấu mới bảo vệ chủ quyền quốc gia.
Đầu năm 1946, thực dân Pháp nổ súng tiến
hành cuộc chiến tranh xâm lược nước ta một
lần nữa. Ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí
Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.
Để động viên đồng bào, chiến sỹ cả nước,
ngày 11/6/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết
Lời kêu gọi thi đua yêu nước, trong đó nêu
rõ mục đích của thi đua ái quốc là:
“Diệt giặc đói,
Diệt giặc dốt,
Diệt giặc ngoại xâm”4.
Do tính cấp bách của tình hình, Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tập trung công
sức, trí tuệ để lãnh đạo công cuộc kháng
chiến kiến quốc nhưng cũng luôn đề cao
cảnh giác với giặc tham nhũng cùng với các
tệ nạn tiêu cực khác nằm trong bộ máy chính
quyền. Ngay trong phiên họp đầu tiên của
Quốc hội Khóa I (ngày 2/3/1946), khi trả lời
chất vấn của đại biểu Quốc hội về vấn đề
“Chính phủ liêm khiết”, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã khẳng định: Chính phủ hiện thời đã
cố gắng liêm khiết lắm, nhưng trong Chính
phủ từ Hồ Chí Minh cho đến những người
làm việc trong các ủy ban là đông lắm, phức
tạp lắm. Dù sao Chính phủ đã hết sức làm
gương, và nếu làm gương không xong, thì
sẽ dùng pháp luật mà trị những kẻ ăn hối lộ,
đã trị, đương trị và sẽ trị cho kỳ hết. Có thể
khẳng định, nội dung trả lời chất vấn của
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là lời tuyên
chiến đầu tiên của Đảng và Nhà nước ta đối
với tệ nạn tham nhũng trong bộ máy chính
quyền cách mạng. Thấm nhuần nguyên lý
mác-xít: giành chính quyền đã khó, giữ
chính quyền còn khó hơn, nên ngay sau khi
Cách mạng Tháng Tám thành công và suốt
chiều dài của công cuộc kháng chiến, kiến
quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên
nhắc nhở, cảnh báo đến tệ tham nhũng như
4
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 15(319) T8/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
2 so 302687/lo-mat-quan-tham-gio-dien-kich-chong-tham-nhung.
3 Hồ Chí Minh Toàn tập, t.1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 367-376; 392-394.
4 Hồ Chí Minh Toàn tập, t.5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 444-446.
“giặc nội xâm” nằm trong bộ máy chính
quyền. Chỉ ít ngày sau khi đọc Tuyên ngôn
độc lập, ngày 17/10/1945, trong Thư gửi Ủy
ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lưu ý một loạt các
lầm lỗi rất nặng nề của cán bộ chính quyền
như cậy thế, trái phép, hủ hóa, tư túng, chia
rẽ, kiêu ngạo. Liên quan đến tham nhũng,
Người viết: “Ăn muốn ngon, mặc muốn đẹp,
càng ngày càng xa xỉ, càng ngày càng lãng
mạn, thử hỏi tiền bạc ở đâu ra? Thậm chí lấy
của công vào việc tư, quên cả thanh liêm,
đạo đức”5. Trong Thư gửi các đồng chí Bắc
Bộ (1/3/1947), Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu
cầu phải kiên quyết tẩy sạch các khuyết
điểm của cán bộ như: địa phương chủ nghĩa,
óc bè phái, óc quân phiệt, quan liêu, ham
chuộng hình thức, làm việc lối bàn giấy, vô
kỷ luật, kỷ luật không nghiêm và Người
nhấn mạnh đến tệ tham nhũng đã bắt đầu
xâm nhập vào lối sống của cán bộ chính
quyền non trẻ: “có những đồng chí còn giữ
óc địa vị, cố tranh cho được ủy viên này chủ
tịch kia. Có những đồng chí lo ăn ngon mặc
đẹp, lo chiếm của công làm của tư, lợi dụng
địa vị và công tác của mình mà buôn bán
phát tài, lo việc riêng hơn việc công”6.
Chiếm của công làm của tư là bản chất của
hành vi tham nhũng trong bộ máy chính
quyền đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận
diện và cảnh báo ngay sau khi Cách mạng
Tháng Tám thành công và những năm đầu
toàn quốc kháng chiến. Phân tích nguy hại
của tham nhũng, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết
“Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu, dù cố
ý hay không, cũng là bạn đồng minh của
thực dân, phong kiến Nó làm hỏng tinh
thần trong sạch và ý chí khắc khổ của cán
bộ ta. Nó phá hoại đạo đức cách mạng của
ta là cần, kiệm, liêm, chính Tội lỗi ấy
cũng nặng như tội Việt gian, mật thám”7.
Coi tham nhũng như Việt gian, mật thám,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt cuộc chiến này
ngang tầm với cuộc chiến diệt giặc đói, diệt
giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm. Nhờ đó, Đảng
ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng được
đội ngũ cán bộ liêm khiết, trong sạch, lãnh
đạo đưa cuộc kháng chiến kiến quốc đến
thắng lợi.
Cần có quyền uy của “thần linh pháp
quyền”
Trong chế độ phong kiến chuyên chế,
quyền lực tối cao tập trung vào trong tay
một người là ông vua nên sinh ra tùy tiện và
tệ tham nhũng có cơ hội nảy nở. Mác đã cho
rằng, “vua là tùy tiện” hay “tùy tiện là bản
chất của nhà vua”. Đối với ông vua và hệ
thống quan lại thì pháp luật chống tham
nhũng không có ý nghĩa nhiều bởi tính chất
bất bình đẳng trong áp dụng pháp luật đến
mức trong ngạn ngữ Trung Quốc cổ đại đã
có câu “Lễ không xuống với thứ dân, hình
không lên tới bậc đại phu”. Tuy nhiên, việc
đề cao “lễ” trong Nho giáo đến mức dùng
“lễ” làm chuẩn cho xây dựng pháp luật, giải
thích pháp luật đã dần dần không thích ứng
được với yêu cầu quản trị quốc gia, dẫn đến
xu hướng phải cải cách pháp chế, đề cao
pháp luật. Cách đây hơn hai ngàn năm,
người đặt nền móng cho học thuyết Pháp trị
ở Trung Quốc là Hàn Phi đã rất coi trọng giá
trị của việc sử dụng pháp luật để quản trị đất
nước. Hàn Phi đã viết trong tác phẩm Hàn
Phi Tử của mình như sau: “Pháp luật không
hùa theo người sang. Sợi dây dọi không uốn
mình theo cây gỗ cong. Khi đã thi hành pháp
luật thì kẻ khôn cũng không thể từ, kẻ dũng
cũng không dám tranh. Trừng trị cái sai
không tránh kẻ đại thần, thưởng cái đúng
không sót kẻ thất phu. Cho nên điều sửa
chữa được sự sai lầm của người trên, trị
được cái gian của kẻ dưới, trừ được loạn,
5
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 15(319) T8/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
5 Hồ Chí Minh Toàn tập, t.4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 58.
6 Hồ Chí Minh Toàn tập, t.5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 74.
7 Hồ Chí Minh Toàn tập, t.6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 490.
sửa được điều sai, thống nhất đường lối của
dân không gì bằng pháp luật”8. Tuy nhiên,
lý thuyết pháp trị của Hàn Phi khi được thi
hành cũng không mang lại sự công bằng cho
xã hội bởi chế độ “bát nghị”9 trong pháp luật
phong kiến luôn có xu hướng bảo vệ tầng
lớp quyền quý, quan lại, thân tộc của nhà
vua. Còn đối với riêng ông vua thì không có
cơ chế nào hiệu quả để kiểm soát được thứ
quyền lực tuyệt đối ấy và sự tha hóa của
quyền lực, cội nguồn của tệ nạn tham nhũng
vẫn hiện hữu.
Chủ tịch Hồ Chí Minh vốn là người am
hiểu Nho học nhưng do sớm được tiếp cận
với tri thức lý luận về nhà nước và pháp luật
Phương Tây nên đã có tầm nhìn vượt thời
đại, đạt đến đỉnh cao của tư duy xây dựng
bộ máy nhà nước. Ngay từ năm 1919, Chủ
tịch Hồ Chí Minh khi đó với tên Nguyễn Ái
Quốc cùng với nhóm người Việt Nam yêu
nước ở Pháp đã viết Thư tám điểm gửi Hội
nghị Véc-xây và sau đó được diễn ca ra
tiếng Việt, trong đó điểm thứ bảy nói lên
điều cốt lõi của việc xây dựng nhà nước:
“Bảy xin Hiến pháp ban hành,
Trăm điều phải có thần linh pháp
quyền”10.
Như vậy, vượt lên trên tư tưởng Nho
giáo vốn ăn sâu vào gốc rễ văn hóa Việt, ý
tưởng xây dựng nhà nước pháp quyền với
tinh thần thượng tôn pháp luật đã được Chủ
tịch Hồ Chí Minh đặt ra cách đây gần một
thế kỷ. Cách mạng Tháng Tám thành công,
Người đã rốt ráo bắt tay vào công cuộc xây
dựng hệ thống pháp luật để “thần linh pháp
quyền” được thẩm thấu vào tất cả các hoạt
động của bộ máy chính quyền và chống
tham nhũng là một lĩnh vực cũng không thể
đứng ngoài hệ thống pháp luật của chính
quyền non trẻ. Chỉ ít ngày sau khi đọc Tuyên
ngôn độc lập và những tháng đầu của cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã ký ban hành nhiều văn
kiện, sắc lệnh thể hiện tư tưởng chống tham
nhũng, làm trong sạch bộ máy chính quyền:
- Ngày 13/9/1945, ký Sắc lệnh số 33C
thành lập Tòa án Quân sự có thẩm quyền xét
xử tất cả người nào phạm vào việc gì có hại
đến nền độc lập của Nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa.
- Ngày 20/9/1945, ký Sắc lệnh số 34/SL
thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp.
- Ngày 10/10/1945, ký Sắc lệnh quy định
các đoàn luật sư trong nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa vẫn tạm giữ như cũ. Các luật
sư có quyền bào chữa ở trước tất cả các tòa
án tỉnh trở lên và trước các tòa án quân sự.
- Ngày 27/11/1945, ký Sắc lệnh ấn định
hình phạt tội đưa và nhận hối lộ sẽ bị phạt
từ 5 đến 20 năm khổ sai và phải nộp phạt
gấp đôi số tiền nhận hối lộ.
- Ngày 26/1/1946, ký “Quốc lệnh”,
khép tội trộm cắp của công vào tội tử hình
và ghi rõ: phải thẳng tay trừng trị những kẻ
bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề
nghiệp gì.
- Ngày 23/11/1946, ký Sắc lệnh số
64/SL thành lập Ban Thanh tra đặc biệt, có
quyền “đình chỉ, bắt giam bất cứ nhân viên
nào trong Uỷ ban nhân dân hay của Chính
phủ đã phạm lỗi trước khi mang ra Hội đồng
Chính phủ hay tòa án đặc biệt”.
Chỉ chừng đó văn kiện đã cho thấy,
trong hoàn cảnh đặc biệt khó khăn của năm
6
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 15(319) T8/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
8 Hàn Phi Tử, t.1, Phan Ngọc dịch. Nxb. Văn học nghệ thuật Hà Nam Ninh, 1990, tr. 49.
9 “Bát nghị” là chế độ pháp lý cho một số người được hưởng đặc quyền đặc lợi của pháp luật trong đó có tám quy định để
miễn giảm hình phạt đối với hoàng thân quốc thích, giai cấp quan quyền sau khi được thông qua xét xử đặc biệt. Chế độ
“bát nghị” có từ thời Tây Chu. Nước Ngụy thời Tam quốc đầu tiên đem “bát nghị“ vào luật. Đến đời nhà Đường, chế độ
“bát nghị” được quy định tỉ mỉ hơn. Chế độ “bát nghị” được kế tiếp áp dụng đến thời Minh, Thanh (Xem Từ điển Lịch sử
chế độ chính trị Trung Quốc, Nxb. Trẻ, TP. Hồ Chí Minh, 2001, tr. 226-228). Chế độ “bát nghị” cũng ảnh hưởng tới pháp
luật phong kiến Việt Nam. Điều 3 Bộ “Quốc triều hình luật” thời Lê quy định đầy đủ tám điều được nghị xét giảm tội
(Xem: Viện Sử học Việt Nam, Quốc triều hình luật, Nxb. Pháp lý, Hà Nội, 1991, tr. 37-38).
10 Hồ Chí Minh Toàn tập, t.1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 438.
đầu tiên sau khi giành chính quyền, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã giành sự quan tâm đặc biệt
đến công cuộc xây dựng nhà nước. Trước
hết là việc ban hành Hiến pháp mà các nhà
khoa học cho rằng đó là viên kim cương
đính trên vương miện của nhà nước pháp
quyền. Sau này, ngày 9/11/1946, Quốc hội
thông qua Hiến pháp năm 1946 và bản hiến
văn này đã mang đầy đủ ý nghĩa của “thần
linh pháp quyền” như khát vọng của Chủ
tịch Hồ Chí Minh. Tiếp theo, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã tập trung xây dựng hệ thống
pháp luật làm công cụ đấu tranh trực tiếp
cho công cuộc trừng trị tệ nạn tham nhũng
mà đối tượng được xác định rất rõ ràng là
cán bộ trong Chính phủ và Ủy ban nhân dân
các cấp. Tuy nhiên, xây dựng pháp luật mới
là công cụ ban đầu, điều khó khăn hơn là tổ
chức thi hành pháp luật, bởi lẽ pháp luật có
“thần linh pháp quyền” hay không còn phải
thông qua hoạt động của những người có
quyền hạn. Điều đó lý giải vì sao Chủ tịch
Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở, giáo dục
cán bộ khi trao quyền hạn cho họ. Cuối năm
1945, khi giao cho đồng chí Lê Giản phụ
trách Công an (Ty Liêm phóng), Người đã
căn dặn rằng: “Chú phụ trách ngành này
phải “thiết diện vô tư” tức là mặt sắt không
thiên vị. Nếu chú không “thiết diện vô tư”
thì Bác sẽ “thiết diện vô tư” đối với chú”.
Trong Thư gửi Hội nghị Tư pháp toàn quốc
(tháng 2/1948), Người viết: “Các bạn là bậc
trí thức. Các bạn có trách nhiệm nặng nề và
vẻ vang là làm gương cho dân trong mọi
việc Các bạn là những người phụ trách
pháp luật. Lẽ dĩ nhiên các bạn phải nêu cao
cái gương “phụng công, thủ pháp”, chí công
vô tư cho nhân dân noi theo”. Không chỉ
nhắc nhở, giáo dục cán bộ mà chính Người
cũng là tấm gương nêu cao tinh thần “thiết
diện vô tư”, “phụng công thủ pháp”. Vụ án
hình sự Trần Dụ Châu, nguyên đại tá, Cục
trưởng Cục Quân nhu năm 1950 là thí dụ
điển hình. Trong hoàn cảnh kháng chiến rất
khó khăn, gian khổ, quân đội là lực lượng
xung kích trên chiến trường, nhưng khi phát
hiện Trần Dụ Châu là cán bộ cấp cao trong
quân đội tham nhũng thì Người đã thẳng tay
bác đơn xin ân giảm để y phải chịu hình phạt
tử hình. Vụ án Trần Dụ Châu xét xử tại thời
điểm đó đã thể hiện tinh thần chống tham
nhũng cũng phải kiên quyết như chống ngoại
xâm, không bị ảnh hưởng của tinh thần “bát
nghị”, phát huy giá trị thực tiễn của ‘thần
linh pháp quyền” là đề cao tính thượng tôn
của pháp luật, có tác động lan tỏa, động viên
toàn quân, toàn dân (xem hộp 1).
Dân chủ - vũ khí vạn năng chống tham
nhũng
Vận dụng cơ chế dân chủ trong lĩnh vực
chống tham nhũng có ba việc phải làm. Một
là, để cho dân được quyền nói. Hai là, để
cho dân dám nói mà không sợ trù dập. Ba
là, phải lắng nghe, thấu hiểu và tiếp nhận xử
lý kịp thời ý nguyện của dân. Ý nguyện của
dân có thể trực tiếp chuyển đến cơ quan
chuyên trách hoặc gián tiếp qua cơ quan đại
diện là Quốc hội và Hội đồng nhân dân.
Trong cuộc chiến chống tham nhũng,
Đảng và Nhà nước ta đã thành lập rất nhiều
cơ quan chuyên trách như Công an, Tòa án,
Viện Kiểm sát, Thanh tra, Kiểm toán và
đào tạo, bổ nhiệm những cán bộ chuyên
nghiệp làm nòng cốt. Tuy nhiên, nếu chỉ dựa
vào cơ quan chuyên trách thì chưa đủ. Chủ
tịch Hồ Chí Minh luôn nắm vững nguyên lý
của Chủ nghĩa Mác - Lênin: Cách mạng là
sự nghiệp của quần chúng. Người đã viết:
“Kinh nghiệm trong nước và các nước
chứng tỏ cho chúng ta biết: có lực lượng dân
chúng, việc to tát mấy, khó khăn mấy cũng
làm được. Không có thì việc gì làm cũng
không xong. Dân chúng biết giải quyết
nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng,
đầy đủ mà những người tài giỏi, những đoàn
thể to lớn, nghĩ mãi không ra”11. Vấn đề
7
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 15(319) T8/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
11 Hồ Chí Minh Toàn tập, t.6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 292.
8
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 15(319) T8/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
chống tham nhũng và chống các tệ nạn khác
cũng là công việc của sự nghiệp cách mạng
và không nằm ngoài nguyên lý đó. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng “phong trào
chống tham ô, lãng phí, quan liêu ắt phải
dựa vào lực lượng quần chúng thì mới thành
công”12. Trong cuộc chiến này, Người còn
khẳng định “Quần chúng tham gia càng
đông, thành công càng đầy đủ, nhanh
chóng”13. Có thể nói, toàn bộ các phương
hướng, hành động mà Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nêu ra, có thể tóm gọn trong hai
chữ “dân chủ”. Dân chủ là phương pháp
mạnh mẽ nhất, hiệu quả nhất vì nó huy động
được sức mạnh trí tuệ của toàn dân, khắc
phục được sự quan liêu, tắc trách của cơ
quan chuyên trách. Chủ tịch Hồ Chí Minh
cũng giải thích ngắn gọn mà súc tích “dân
chủ là để cho dân mở miệng ra”. Vụ án hình
sự Trần Dụ Châu năm 1950 cũng là ví dụ
12 Hồ Chí Minh Toàn tập, t.6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 436.
13 Hồ Chí Minh Toàn tập, t.6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 495.
Hộp 1
Nhân vụ án Trần Dụ Châu
(Xã luận báo Cứu quốc ngày 27/9/1950)
Trần Dụ Châu, nguyên Giám đốc Nha Quân nhu can tội ăn cắp công quỹ làm nhiều
điều bỉ ổi đã bị đưa ra Tòa án binh tối cao. Ngay ngày hôm sau, tên phản bội quyền lợi
của nhân dân ấy đã bị bắn để y đền tội của y. Trong tình thế kháng chiến và trong giai
đoạn quyết liệt hiện nay, vụ án Trần Dụ Châu có một ý nghĩa lớn lao. Nó làm toàn thể
nhân dân bằng lòng và thêm tin tưởng ở chính quyền và đoàn thể nhân dân. Nhân dân đã
thấy rõ: chính quyền và đoàn thể không bao giờ dung túng một cán bộ nào làm bậy, dù
cán bộ cao cấp đến đâu đi nữa. Vụ án này còn làm vui lòng tất cả những cán bộ Quân nhu
ngay thẳng, chí công vô tư, đã không để Trần Dụ Châu lôi cuốn.
Nó đã cho chính quyền và đoàn thể ta nhiều kinh nghiệm trong việc dùng cán bộ,
giáo dục và kiểm soát cán bộ.
Có người e ngại: Chúng ta mở toang vụ án này, công khai vạch rõ những tội lỗi nhơ
bẩn của Trần Dụ Châu và bè lũ có thể làm một số dân chúng chê trách, hay kẻ địch bám
vào đấy để nói xấu chính quyền, đoàn thể ta.
Không! Chúng ta khác bọn phản động và hơn hẳn chúng ở chỗ đó. Đấy là một sự
khuyến khích nhân dân thẳng thắn, phê bình những sai lầm của cán bộ, của chính quyền,
đoàn thể vì họ đã hiểu chính quyền, đoàn thể ta là chính quyền, đoàn thể của họ và họ
nhất định không tha thứ cho những kẻ nào đi ngược quyền lợi của họ.
Cái chết nhục nhã của Trần Dụ Châu còn là một lời cảnh cáo những kẻ lén lút đang
tính chuyện đục khoét công quỹ của Chính phủ, trục lợi của nhân dân. Tất cả những bọn
ấy hãy coi chừng dư luận sắc bén của quần chúng và luật pháp nghiêm khắc của Nhà
nước nhân dân!
Chúng ta phải thẳng tay vạch mặt và trừng trị những bọn ấy, những kẻ tham ô, hoang
phí, những kẻ mưu sống phè phỡn trên mồ hôi nước mắt người khác, để tiến tới xây dựng
một nền tảng chính quyền nhân dân thật vững vàng.
Đây không phải là việc riêng của Chính phủ, của đoàn thể mà đấy là bổn phận của
tầng lớp đông đảo quần chúng nhân dân chúng ta”.
C.Q
Nguồn:
9
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 15(319) T8/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
điển hình về việc Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
mẫu mực nêu gương trong tiếp nhận, lắng
nghe và xử lý kịp thời ý kiến của nhân dân
thông qua đại biểu Quốc hội. Tài liệu vụ án
này cho biết, Trần Dụ Châu là Cục trưởng
Cục Quân nhu có nhiều dư luận về tham
nhũng, bớt xén vải may màn, áo trấn thủ cho
bộ đội nhưng không ai dám tố cáo. Nhà thơ
Đoàn Phú Tứ, đại biểu Quốc hội Khóa I, sau
một chuyến đi thăm và úy lạo các đơn vị bộ
đội, được tận mắt chứng kiến sự thiếu thốn
của chiến sĩ, ông được mời dự tiệc cưới của
một cán bộ dưới quyền của Trần Dụ Châu
tại chiến khu Việt Bắc. Trong hoàn cảnh
kháng chiến rất gian khổ như vậy mà đám
cưới có đầy đủ các món sơn hào, hải vị,
thuốc lá thơm hảo hạng, rượu tây, hoa tươi
Ngọc Hà của Hà Nội, có cả ban nhạc “Cảnh
Thân” được mời từ Khu Ba lên phục vụ.
Trần Dụ Châu mặc quân phục đại tá, cưỡi
ngựa hồng, làm chủ hôn, theo sau là một “vệ
sĩ” đeo súng “côn bát”. Trần Dụ Châu ngạo
mạn mời đại biểu Quốc hội Đoàn Phú Tứ
làm thơ mừng hôn lễ. Nhà thơ đứng dậy,
thẳng thắn, dũng cảm xuất khẩu thành thơ:
...Bữa tiệc cưới của chúng ta sắp chén
đẫy hôm nay,
Được dọn bằng máu xương của chiến
sỹ
Quá tức giận, Trần Dụ Châu quát lên,
cho rằng nhà thơ láo xược nên sai tên cận vệ
xông tới tát vào mặt nhà thơ Đoàn Phú Tứ.
Nhà thơ bỏ tiệc cưới ra về và viết một bức
thư gửi lên Chủ tịch Hồ Chí Minh với chức
danh đại biểu Quốc hội, cùng với những lời
tố cáo về hành vi tham nhũng của Trần Dụ
Châu và đồng bọn. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã đọc kỹ lá thư và giao cho thiếu tướng
Trần Tử Bình, khi đó là Phó Bí thư Quân ủy
Trung ương, Phó Tổng Thanh tra Quân đội
và vụ án nhanh chóng được điều tra, xét xử.
Chống tham nhũng - Công cuộc cứu nước
cấp bách hiện nay
Tình hình suy thoái hiện nay trong Đảng
và chính quyền là rất nghiêm trọng. Tại Hội
nghị toàn quốc triển khai hành động thực
hiện Nghị quyết Đại hội XII ngày 27/5/2016
của Ban Dân vận Trung ương, Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng đã nói “những hiện
tượng cán bộ, đảng viên sa sút phẩm chất,
thoái hóa có chiều hướng gia tăng và ngày
càng nghiêm trọng... Nhiều người có quan
hệ trực tiếp với vật chất, tiền tài, đã lợi dụng
chức quyền và điều kiện công tác để tham
ô, trục lợi, ăn cắp của công, ăn hối lộ, thông
đồng với kẻ xấu để làm giàu bất chính. Điều
nghiêm trọng là có không ít cán bộ, đảng
viên, kể cả một số cán bộ cao cấp, bị những
ham muốn vật chất cám dỗ, chạy theo tiền
tài, địa vị, sống ích kỷ, buông thả, tự do chủ
nghĩa, không còn tư cách đảng viên”14. Tình
hình hiện nay cần thiết phải có những giải
pháp mang tính đột phá để công cuộc chống
tham nhũng và chống các tệ nạn tiêu cực
khác có hiệu quả, lấy lại lòng tin của nhân
dân, các giải pháp có thể là:
1. Nâng cao nhận thức về mối nguy
hiểm của tệ tham nhũng
Việt Nam đang trên con đường hội nhập
kinh tế quốc tế, đã tham gia Tổ chức Thương
mại thế giới (WTO), ký kết Hiệp định đối
tác thương mại xuyên Thái Binh Dương
(TPP), tham gia cộng đồng kinh tế ASEAN
và ngày càng thâm nhập sâu vào thị trường
EU, mở ra cơ hội phát triển kinh tế, góp
phần nâng cao khả năng phòng thủ đất nước.
Song, những cơ hội này có thể bị thất bại bởi
tệ nạn tham nhũng vì không ai muốn đầu tư,
hợp tác với đối tác mà đồng vốn không an
toàn. Năm 2015, Việt Nam vẫn chỉ được xếp
thứ hạng 112/168 về chỉ số nhận thức tham
nhũng của Tổ chức Minh bạch quốc tế (TI)15
đang đặt ra nhiều vấn đề cần khắc phục,
14
15
trước hết là nhận thức về mối nguy hiểm của
tệ nạn này. Trong nhận thức, phải trở lại với
quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, xác
định tham nhũng là kẻ thù giấu mặt, là
những “con ngựa của thành Troy” hay “đội
quân thứ năm”, đồng minh với những kẻ
muốn lật đổ chế độ. Đó là những kẻ ngấm
ngầm phá hoại quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế và trực tiếp làm suy yếu khả năng
phòng thủ của đất nước. Trong bốn nguy cơ:
tụt hậu xa hơn về kinh tế, chệch hướng xã
hội chủ nghĩa, nạn tham nhũng và các tệ nạn
xã hội, và âm mưu và hành động diễn biến
hòa bình mà Hội nghị Đảng đại biểu toàn
quốc giữa nhiệm kỳ (Khóa VII) xác định,
cần coi nạn tham nhũng là nguy hiểm nhất
bởi lẽ nguy cơ này có động lực kinh tế và
chủ yếu nằm trong số cán bộ có chức quyền
nên rất khó khăn để nhận biết, quyết liệt để
chống. Vụ án Trần Dụ Châu cho thấy, ngày
5/9/1950, Tòa án binh xét xử, tuyên án tử
hình đối với Trần Dụ Châu và ngay ngày
hôm sau, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký công
điện bác đơn xin ân giảm và Trần Dụ Châu
bị thi hành án tử hình. Chỉ 11 ngày sau, ngày
16/9/1950, quân ta đã nổ súng mở màn
chiến dịch Đông Khê dài ngày và đã giành
thắng lợi giải phóng biên giới. Như vậy, thời
kỳ này Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
phải thực hiện tiêu diệt “đội quân thứ năm”
để động viên toàn quân, toàn dân trước khi
mở màn một chiến dịch quân sự với quy mô
lớn. Chỉ có nhận thức tham nhũng là kẻ phản
bội, kẻ lật đổ giấu mình như vậy mới có
được những giải pháp kiên quyết, hữu hiệu
để diệt loại “giặc nội xâm” nguy hiểm này.
2. Thượng tôn pháp luật, công khai
minh bạch trong hoạt động của Nhà nước
Mặc dù Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cao
“thần linh pháp quyền” từ rất sớm, nhưng do
hoàn cảnh lịch sử, vấn đề xây dựng nhà
nước pháp quyền mới được Đảng ta bàn đến
lần đầu tiên tại Hội nghị Đại biểu toàn quốc
giữa nhiệm kỳ khóa VII (1994) và đến năm
2001 mới được thể chế vào Nghị quyết sửa
đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm
1992. Kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh, Hiến
pháp năm 2013 khẳng định: “Nhà nước
Cộng hòa XHCN Việt Nam là Nhà nước
pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân
dân, vì Nhân dân” (khoản 1 Điều 2) và “Các
cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên
chức kiên quyết đấu tranh chống tham
nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu,
hách dịch, của quyền” (khoản 2 Điều 8), Tòa
án nhân dân là cơ quan xét xử của nước
Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện
quyền tư pháp (khoản 1 Điều 102).
Thi hành Hiến pháp năm 1992, Hiến
pháp năm 2013, hệ thống pháp luật chống
tham nhũng đã ngày càng hoàn thiện cả
trong lĩnh vực hành chính, tư pháp, kinh tế,
tài chính và tổ chức bộ máy nhà nước. Các
tội phạm tham nhũng được quy định trong
Bộ luật Hình sự, Luật Phòng, chống tham
nhũng đã mở rộng hơn cả về chủ thể chịu
trách nhiệm hình sự (cá nhân và pháp nhân),
hình sự hóa nhiều hơn các hành vi tham
nhũng như tham ô, nhận hối lộ, lạm dụng
chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản, lợi
dụng chức vụ, quyền hạn trong thi hành
công vụ, lạm quyền trong thi hành công vụ,
lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng
đối với người khác để trục lợi v.v.. và tăng
mức độ trừng phạt so với các Sắc lệnh mà
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sau Cách mạng
Tháng Tám. Tuy nhiên, trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế, Nhà nước cần tiếp tục
nội luật hóa các công ước quốc tế mà Việt
Nam là thành viên để tạo ra một “lưới trời”
rộng hơn, bao phủ mọi lĩnh vực, xóa bỏ mọi
cơ cơ hội cho sự nảy nở của hành vi tham
nhũng; tăng cường hợp tác quốc tế trong
chống tham nhũng. Để tăng thêm quyền uy
của “thần linh pháp quyền”, pháp luật đã
quy định phải thực hiện lời tuyên thệ trung
thành với Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp
khi nhậm chức của Chủ tịch nước, Chủ tịch
Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao16. Đây là một bước
10
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 15(319) T8/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
16 Điều 8 Luật Tổ chức Quốc hội số 57/2014/QH13.
tiến lớn. Tuy nhiên, lời tuyên thệ đó cần thiết
phải được cụ thể thêm bằng việc bổ sung
quy định người nắm giữ các chức vụ nêu
trên hàng năm phải công khai, minh bạch
cho toàn dân biết về thu nhập của mình.
Làm được điều này sẽ là hình thức nêu
gương về sự minh bạch trong thu nhập của
các vị thực thi “thần linh pháp quyền”, có
sức lan tỏa mạnh mẽ trong xã hội. Để khắc
phục hiện tượng lạm dụng việc “bảo vệ bí
mật nhà nước” để không công khai những
hoạt động của cơ quan nhà nước, nhất là
những vấn đề liên quan đến các dự án đầu
tư, chính sách kinh tế, tài chính, tạo môi
trường cho kẻ tham nhũng dễ bề hoạt động
thì cần sớm ban hành Luật Bảo vệ bí mật
nhà nước, xác định rõ danh mục và thẩm
quyền ban hành những nội dung thuộc “bí
mật nhà nước” (thay cho Pháp lệnh Bảo vệ
bí mật nhà nước).
3. Phát động toàn dân tham gia cuộc
chiến chống tham nhũng
Chống tham nhũng là công cuộc rất khó
khăn, các cơ quan chuyên trách chống tham
nhũng dù có bao nhiêu lực lượng cũng
không thể kiểm soát hết được nếu không có
sự giúp đỡ của nhân dân. Pháp luật cũng đã
quy định trách nhiệm của người đứng đầu
các cơ quan, tổ chức, nhưng vì nhiều lý do
khó xác định nên trên thực tế, rất ít khi
người đứng đầu cơ quan phát hiện được tội
phạm tham nhũng. Trong trường hợp người
đứng đầu cơ quan, tổ chức là chủ mưu hoặc
đồng lõa với tội phạm tham nhũng thì sự che
giấu càng tinh vi, càng khó phát hiện. Vụ án
Trần Dụ Châu cho thấy vai trò phát hiện của
nhân dân, của đại biểu Quốc hội là yếu tố
quyết định. Nhờ có báo chí cảnh báo sớm
trong dư luận của nhân dân (xem hộp 2) và
thư tố cáo của đại biểu Quốc hội Đoàn Phú
Tứ vụ án mới được điều tra, xét xử kịp thời.
Để xây dựng một “lưới trời” nhằm phát
hiện hành vi tham nhũng, cần phải phát
động cuộc thi đua yêu nước “toàn dân chống
11
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 15(319) T8/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
Hộp 2
ăn cắp hay buôn lậu
(Đăng trên báo Cứu quốc số 1548 ngày 15/5/1950. Tác giả là Nguyễn Đình Tốn,
bút danh Hữu Danh, khách được mời dự đám cưới do Trần Dụ Châu làm chủ hôn)
Đám cưới ông ấy sang quá!
Đó là lời thiên hạ bàn tán ở miền Úc Sơn ít lâu nay. Chim gà mổ ở máng nước làm
xao cả một khúc sông. Bữa tiệc lại khéo tổ chức có ý nghĩa chính trị là đúng vào ngày lễ
lớn. Đủ quan khách dự tiệc.
Tiệc ăn kéo dài theo lối “tàu” từ chập tối đến gần sáng. Ngoài các món ăn Tây, Tàu,
tiệc còn có những thứ phụ mà quan khách lâu ngày thèm muốn: nào sâm banh, rom -
xanh, đuy bon - nê, thuốc lá thì hộp sắt Ănglê 50 điếu, kẹo bánh thì bích quy Hoa Thịnh
Đốn, hoa quả thì táo tây và cam Bố Hạ trái mùa v.v..
Đặc biệt và quý phái nhất là bàn tiệc lại được soi sáng bằng ngót trăm cây nến “nhà
thờ” thắp liên tiếp hơn thủ đô thời bình. Người ta đồn là tiệc cưới tốn mươi vạn bạc và
lợi dụng địa vị cấp cao của chú rể, chúng đã có phép com-măng được toàn đồ xa xỉ ở tận
thủ đô ra trong lúc đang bao vây ngặt nghèo này.
Người ta tự hỏi chúng ăn cắp hay buôn lậu mà lắm tiền thế. Chúng tôi đề nghị chính
quyền điều tra vụ này.
hữu Danh
Nguồn:
cuoi-nam-1950/147909.
tham nhũng” tương tự như Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã phát động thi đua “diệt giặc đói,
diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm” trong thời
kỳ xây dựng chính quyền non trẻ sau Cách
mạng Tháng Tám. Để cuộc thi đua này
thành công, có ba điều phải làm:
Thứ nhất, cần có môi trường pháp lý an
toàn cho người dân tham gia, để chính
quyền phải lắng nghe, thấu hiểu ý dân, cụ
thể là tổ chức thực hiện tốt Luật Tố cáo,
Luật Báo chí, Luật Tiếp cận thông tin mới
được Quốc hội ban hành trong thời gian gần
đây, đồng thời Quốc hội cần sớm ban hành
Luật về Hội, Luật Bảo vệ nhân chứng. Các
Luật Tố cáo, Luật Báo chí, Luật Tiếp cận
thông tin, Luật về Hội, Luật Bảo vệ nhân
chứng là bộ năm vũ khí sắc bén vừa có khả
năng tấn công hữu hiệu vừa phòng vệ chính
đáng đối với nạn tham nhũng để người dân
thực hiện quyền tố cáo, quyền tự do ngôn
luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội
họp và sẵn sàng đứng ra làm nhân chứng
trước tòa theo quy định của Hiến pháp năm
2013 và các đạo luật về tố tụng. Các đạo luật
này sẽ tạo ra sức mạnh chống tham nhũng
từ phía nhân dân mà chính quyền không thể
bao biện, tắc trách, bỏ qua. Đây cũng là tinh
thần mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn
trước đây “Nếu Chính phủ làm hại thì dân
có quyền đuổi Chính phủ”17.
Thứ hai, cần có sự tôn vinh của Nhà
nước, của xã hội đối với việc tố cáo tham
nhũng. Trong thực tiễn, ít người đặt mục
tiêu tố cáo tham nhũng để được khen, thậm
chí có người biết rõ mà còn lảng tránh để
không bị phiền phức. Cần nhận thức việc tố
cáo phát hiện hành vi tham nhũng cũng vẻ
vang như việc toàn dân thực hiện phòng
gian, bảo mật thời kỳ kháng chiến, sẵn sàng
phát hiện, bắt bọn “Việt gian, mật thám” để
bảo vệ chế độ. Nhưng việc tố cáo tham
nhũng có thể làm cho họ phải đối mặt với
nhiều rủi ro sẽ đến như bị kỷ luật, buộc thôi
việc, luân chuyển công tác, phân biệt đối
xử, bị đe dọa xâm hại đến tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản
v.v.. Vì vậy, người tố cáo hành vi tham
nhũng cần được Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ
trưởng các Bộ, ngành kịp thời khen thưởng
hoặc trình cấp có thẩm quyền khen thưởng
(Huân chương Dũng cảm, Bằng khen của
Thủ tướng Chính phủ, Bằng khen của Bộ,
ngành). Đồng thời, cần sửa đổi Luật
Phòng, chống tham nhũng, trong đó phải
hoàn thiện cơ chế bảo vệ hữu hiệu đối với
người tố cáo tham nhũng.
Thứ ba, tố cáo tham nhũng cũng như tố
cáo các loại tội phạm nghiêm trọng khác
cần có sự tưởng thưởng vật chất. Đây là
kinh nghiệm hay của ông cha ta18 và nhiều
nước đã áp dụng. Chống tham nhũng có hai
mục tiêu lớn là làm trong sạch bộ máy trong
Đảng, chính quyền và thu hồi tài sản bị
tham nhũng. Nếu chúng ta chỉ trừng trị
được cá nhân có hành vi tham nhũng mà
không thu hồi được tài sản tham nhũng thì
thành công chỉ là một nửa, hoặc không
được coi là thành công vì tài sản tham
nhũng sẽ được chuyển giao thông qua các
giao dịch và tiếp tục tiềm ẩn sự bất ổn cho
xã hội. Việc thu hồi tài sản tham nhũng rõ
ràng có công lao của người tố cáo. Vì vậy,
trong điều kiện kinh tế thị trường, thưởng
vật chất theo mức giá trị tài sản thu hồi
được là sự khuyến khích chính đáng đối với
người tố cáo tham nhũng n
12
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 15(319) T8/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
17 Hồ Chí Minh Toàn tập, t. 7, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 282.
18 Điều 25 Quốc triều hình luật quy định: “Những người tố cáo việc mưu phản, mưu đại nghịch cùng tiết lộ những việc lớn
của nhà nước, thì được thưởng tước 3 tư trở lên (người bắt được những kẻ phạm tội trên cũng như vậy). Tố cáo việc
phạm cấm lớn (như việc đúc lậu tiền đồng) thưởng tước 2 tư (hoặc có bàn cho tiền của ruộng đất) thì theo chiếu chỉ lúc
bấy giờ, người bắt được kẻ phạm tội cũng vâỵ. Tố cáo việc phạm cấm hoặc mưu giết người, trộm cắp, thì được thưởng
tiền từ 100 quan trở xuống; tiền lấy ở kẻ phạm tội (tiền thưởng khác cũng vậy). Tố cáo việc giấu giếm ruộng, đất, bãi
bồi thì được thưởng một phần mười những ruộng đất bãi bồi ấy, được cày cấy mà ăn một đời (nếu không có con thì cho
vợ, cải giá thì không cho). Bắt được kẻ cướp, trộm cắp thì được thưởng một tư và tiền chừng 1 phần 10 tang vật, lấy ở
số tiền tang vật ra. Nếu có chiếu chỉ định thưởng thế nào thì theo chiếu chỉ” (Xem: Viện Sử học Việt Nam, Quốc triều
hình luật, Nxb. Pháp lý, Hà Nội, 1991, tr. 43-44).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ky_niem_71_nam_cach_mang_thang_tam_va_quoc_khanh_2_9_chong_t.pdf