Kết luận
Hợp đồng liên kết trong nông nghiệp
hiện nay đã được thực hiện phổ biến ở các
quốc gia đang phát triển như cách thức để
giảm thiểu rủi ro, đảm bảo ổn định khối
lượng, chất lượng và giá cả. Không chỉ
vậy, hợp đồng nông nghiệp còn giúp phối
hợp thị trường sản phẩm tốt hơn khi quy
ước các thuộc tính sản phẩm theo nhu cầu
và mong muốn. Đó cũng là một cách thức
để giảm chi phí giao dịch trong chuỗi sản
phẩm. Đây là một thực tiễn mà hầu hết các
quốc gia có nền nông nghiệp phát triển đều
trải qua, và Việt Nam cũng không phải là
ngoại lệ nếu muốn thị trường hóa các quan
hệ kinh tế trong nông nghiệp.
Với phần lớn các nông hộ đều có quy
mô sản xuất nhỏ, liên kết giữa nông dân và
doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay có vai
trò rất quan trọng. Chính vì vậy, Chính phủ
đang có những cơ chế nhằm tạo điều kiện
cho việc phát triển liên kết (dọc) này thông
qua việc xem xét vai trò của các hợp tác xã,
các tổ liên kết - tức củng cố liên kết ngang
nhằm tăng cường liên kết dọc. Vấn đề mấu
chốt là thiết lập được các thể chế phù hợp,
giúp đảm bảo những nông hộ nhỏ, hay nói
rộng hơn là những đơn vị kinh tế có quy mô
sản xuất nhỏ, có thể được hưởng lợi từ toàn
cầu hóa, hiện đại hóa và công nghiệp hóa
nông nghiệp
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 320 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Liên kết dọc giữa doanh nghiệp và nông dân: Lý thuyết và một số điển hình tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thông tin Khoa học xã hội, số 5.201814
Liên kết dọc giữa doanh nghiệp và nông dân:
Lý thuyết và một số điển hình tại Việt Nam
Vũ Ngọc Quyên(*)
Tóm tắt: Bài viết tập trung tổng quan một số vấn đề lý thuyết về liên kết dọc giữa doanh
nghiệp và nông dân, đồng thời tìm hiểu và phân tích một số điển hình tại Việt Nam nhằm
làm rõ các ưu điểm và tồn tại của liên kết này. Từ đó, dựa trên thực tiễn và kinh nghiệm
quốc tế, bài viết gợi ý một số giải pháp nhằm khắc phục những tồn tại để củng cố và tăng
cường liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân(**).
Từ khóa: Nông dân, Doanh nghiệp, Liên kết dọc, Việt Nam
Abstract: This paper focuses on the fundamental theories of vertical linkages between
enterprises and farmers, analyzing some examples of these linkages in Vietnam in order
to identify the strengths and weaknesses for policy intervention. In consequence, some
suggestions are provided for strengthening these linkages based on domestic current
situation and international practices.
Key words: Farmers, Enterprises, Vertical Linkage, Vietnam
1. Dẫn luận1
Hội nhập và mở cửa nền kinh tế mang
đến nhiều cơ hội cũng như thách thức cho
nông dân và doanh nghiệp. Nhiều thị trường
mới được mở ra ở cả trong và ngoài nước.
Tuy nhiên, điều này cũng đồng nghĩa với
việc nông dân và doanh nghiệp sẽ phải tuân
thủ chặt chẽ các tiêu chuẩn khắt khe hơn
(*) Viện Kinh tế Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học
xã hội Việt Nam; Email: vnquyen84@gmail.com;
qnvu@umail.iu.edu
(**) Bài viết là một phần sản phẩm của Đề tài
“Thực trạng liên kết giữa doanh nghiệp với nông
dân tại Khánh Hòa trong thời gian qua” (Mã số ĐT-
2017-50201-CT) do PGS.TS. Trần Đình Thiên làm
Chủ nhiệm.
và đối mặt với mức độ cạnh tranh cao hơn.
Những vấn đề như vậy đưa đến nhu cầu
liên kết trong sản xuất và kinh doanh nhằm
mở rộng thị trường và nâng cao hiệu quả
kinh tế. Điều này càng đúng với nền kinh
tế nông nghiệp còn manh mún và phương
thức sản xuất còn mang nặng tính thủ công
truyền thống như của Việt Nam hiện nay.
Về lý thuyết, liên kết giúp tăng hiệu
quả kinh tế thông qua việc phân bổ các lợi
ích và rủi ro một cách hợp lý giữa các bên
tham gia liên kết. Liên kết thường được
phân chia thành liên kết dọc và liên kết
ngang. Nếu liên kết dọc là liên kết giữa các
bên theo đường đi của sản phẩm (từ sản
xuất đến tiêu dùng) thì liên kết ngang là
Liên kết dọc... 15
liên kết giữa các bên trong cùng một hoạt
động (sản xuất hoặc tiêu dùng). Trong
phạm vi bài viết này, việc tìm hiểu các mô
hình liên kết trong nông nghiệp tại Việt
Nam sẽ được tập trung vào các liên kết
dọc, cụ thể là quan hệ liên kết giữa hai bên
là nông dân và doanh nghiệp.
2. Một số vấn đề lý thuyết về liên kết dọc
giữa doanh nghiệp và nông dân
Phần lớn liên kết dọc giữa nông dân và
doanh nghiệp đều xuất phát từ nhu cầu của
doanh nghiệp về nguyên liệu chế biến, cũng
như nhu cầu của nông dân về các yếu tố đầu
vào cho sản xuất và thị trường đầu ra cho
sản phẩm. Điều này cũng được chứng minh
trong nghiên cứu của I. Delforge (2007)
hay S. Sriboonchitta và A. Wiboonpoongse
(2008). Liên kết dọc giữa nông dân và
doanh nghiệp, dù ở mức độ nào trong chuỗi
giá trị, đều giúp nâng cao tính hiệu quả của
chuỗi sản phẩm.
Đối với các hoạt động thị trường
(marketing) chẳng hạn, quan hệ liên kết
này giúp tạo ra lợi nhuận lớn hơn cho các
bên tham gia (G. Meulenberg, M. Kool,
1994). Trước các tiêu chuẩn khắt khe của
thị trường tiêu thụ hay những hạn chế của
thị trường tín dụng, nông dân tại các quốc
gia đang phát triển thường nhận được sự hỗ
trợ từ người thu mua sản phẩm của mình
thông qua các hình thức như cung cấp đầu
vào, tư vấn kỹ thuật, hỗ trợ đào tạo hay tín
dụng thương mại (N. Trifkovi’c, 2016).
Chính vì vậy, quan hệ liên kết này thường
được nhìn nhận như một phương thức để
đảm bảo sự trung thành của người cung cấp
sản phẩm, đồng thời giúp duy trì các tiêu
chuẩn về chất lượng và số lượng sản phẩm
cần thiết mà người thu mua đặt ra đối với
người cung cấp sản phẩm cho mình.
Nghiên cứu của P. T. Anh và cộng
sự (2011) cho thấy, mối quan hệ liên kết
giữa nông dân và doanh nghiệp có liên
quan tới việc nâng cao các tiêu chuẩn về
hàng hóa, theo hướng gần hơn với các tiêu
chuẩn quốc tế. Bên cạnh đó, trong một
đánh giá về tác động của các liên kết dọc
trong ngành cá da trơn tại Việt Nam, N.
Trifkovi’c (2016) đã chỉ ra rằng, những
hộ nông dân có liên kết dọc thường có sản
lượng và doanh thu bình quân theo hecta
cao hơn so với những hộ không có liên kết
này. Mặt khác, N. Trifkovi’c cũng nhận
định rằng, cách thức mà người nông dân
tham gia vào thị trường có thể tác động rất
lớn đối với hoạt động của doanh nghiệp
trong quan hệ liên kết này.
Bên cạnh đó, quan hệ liên kết dọc giữa
nông dân và doanh nghiệp trong một số
trường hợp không thể thành hiện thực nếu
thiếu các quan hệ liên kết ngang, đặc biệt
đối với những nông dân sản xuất với quy
mô nhỏ và rất nhỏ. Liên kết trong chuỗi giá
trị giúp tăng tính quy mô kinh tế, giảm các
chi phí giao dịch, đồng thời giúp nâng cao
hiệu quả sản xuất và khả năng cạnh tranh
của các bên tham gia liên kết. Không chỉ
vậy, việc các hộ sản xuất nhỏ liên kết với
nhau sẽ tạo thành sức mạnh đối trọng tốt
hơn đối với các bên ở cuối chuỗi liên kết
dọc, như doanh nghiệp thu mua hay doanh
nghiệp chế biến. Bản thân những doanh
nghiệp này cũng liên kết với nhau để nâng
cao vị thế của mình trong lĩnh vực mà họ
hoạt động.
3. Một số điển hình về liên kết dọc giữa
doanh nghiệp và nông dân tại Việt Nam
Trong những năm gần đây, điển hình
cho liên kết dọc giữa doanh nghiệp và
nông dân tại Việt Nam thường là mô hình
chuỗi khép kín: từ sản xuất, chế biến đến
phân phối và tiêu thụ sản phẩm. Trong mô
hình này, doanh nghiệp đóng vai trò là nhà
đầu tư và tổ chức sản xuất, đưa các ứng
Thông tin Khoa học xã hội, số 5.201816
dụng tiến bộ kỹ thuật tới người nông dân,
đồng thời đảm bảo đầu ra cho sản phẩm.
Mô hình này phù hợp với những doanh
nghiệp có năng lực tài chính lớn và thị
trường tiêu thụ ổn định, được áp dụng khá
thành công với một số mặt hàng như lúa
gạo hay mía đường.
Một hình thức liên kết khá phổ biến
khác là hợp đồng tiêu thụ (bao tiêu) sản
phẩm giữa nông dân và doanh nghiệp,
tức doanh nghiệp đóng vai trò người thu
mua và tiêu thụ sản phẩm cho nông dân
nhưng không đầu tư vốn hay tổ chức sản
xuất. Hình thức này khác với việc doanh
nghiệp thu mua nông sản của các hộ sản
xuất nhưng không ký kết hợp đồng với
các hộ từ trước - một hiện tượng cũng khá
phổ biến trong nền kinh tế nông nghiệp
Việt Nam, có thể được coi là một dạng
thức sơ khai của quan hệ liên kết nông
dân và doanh nghiệp nhưng quan hệ mua
bán này không có tính cam kết và sự ràng
buộc về mặt pháp lý. Do đó, trong phạm
vi bài viết này, hoạt động thu mua không
có hợp đồng ký kết không được coi là một
hình thức liên kết dọc giữa nông dân và
doanh nghiệp.
a. Liên kết theo chuỗi giá trị sản phẩm
khép kín
Một trong những điển hình của mô
hình liên kết theo chuỗi khép kín là mô hình
đầu tư thu mua và chế biến gạo, hay còn
gọi là mô hình “cánh đồng mẫu lớn” của
Tập đoàn Lộc Trời (tiền thân là Công ty cổ
phần Bảo vệ thực vật An Giang) tại huyện
Châu Thành, tỉnh An Giang. Mô hình này
được thực hiện từ năm 2010 theo chuỗi
giá trị sản xuất lúa gạo khép kín, từ việc
xây dựng vùng nguyên liệu thông qua ký
hợp đồng bao tiêu với nông dân, cung ứng
giống, thuốc bảo vệ thực vật và phân bón
(không tính lãi suất), hỗ trợ kỹ thuật thông
qua đội ngũ cán bộ của doanh nghiệp, đến
việc thu mua theo giá thị trường tại thời
điểm nông dân bán lúa. Bên cạnh đó, nông
dân còn được hỗ trợ miễn phí bao bì để
đóng gói, chi phí vận chuyển đến nhà máy
chế biến gạo của Tập đoàn cũng như chi
phí sấy lúa.
Cũng là một trong những doanh nghiệp
tiên phong với mô hình này, mô hình liên
kết với nông dân trồng lúa của Công ty cổ
phần GENTRACO (Cần Thơ) được phát
triển từ quan hệ liên kết ban đầu với các
hợp tác xã và tổ nông dân sản xuất. Nông
dân ký kết hợp đồng liên kết với Công ty
được cung cấp lúa giống, được hướng dẫn
kỹ thuật và tuân thủ quy trình sản xuất có
kiểm soát chặt chẽ. Gạo thành phẩm phải
đảm bảo không có dư lượng thuốc bảo
vệ thực vật quá ngưỡng cho phép. Những
nông hộ thực hiện tốt quy trình sản xuất và
có lúa đảm bảo chất lượng theo hợp đồng
ký kết sẽ được thưởng thêm 300 đồng/kg
thóc. Chính sách này của GENTRACO đã
khuyến khích được nông dân bám sát và
thực hiện tốt các quy trình kỹ thuật (Hữu
Đức, 2014).
Đối với mô hình liên kết với các hộ
trồng dứa của Công ty cổ phần Thực phẩm
xuất khẩu Đồng Giao (Doveco), nông dân
cũng được hỗ trợ về giống và kỹ thuật.
Quy trình trồng được đội ngũ cán bộ nông
nghiệp của Công ty kiểm tra và giám sát.
Tới thời điểm thu hoạch, xe chuyên dụng
của Công ty sẽ vận chuyển dứa về nhà máy.
Như vậy, thế mạnh của hình thức liên
kết này là đầu vào sản xuất và đầu ra cho
sản phẩm của nông dân được doanh nghiệp
đảm bảo. Doanh nghiệp cũng được hưởng
lợi từ việc xây dựng được vùng nguyên liệu
bền vững và, trong một số trường hợp (như
của GENTRACO), còn thu lợi nhuận cao
hơn nhờ nâng cao chất lượng sản phẩm.
Liên kết dọc... 17
Phần lớn các nông sản tại Việt Nam có thể
được tiêu thụ nội địa mà không cần đến
quan hệ liên kết với doanh nghiệp (thông
qua hệ thống thương lái hay nậu vựa và
không chịu ràng buộc về pháp lý cũng như
các tiêu chuẩn an toàn của sản phẩm). Tuy
vậy, chính quan hệ liên kết bằng hợp đồng
với doanh nghiệp, tức tính hợp pháp về giá
thỏa thuận, cũng là một điểm mạnh khác
của quan hệ liên kết này trong việc đảm
bảo quyền lợi cho nông dân, tránh tình
trạng bị thương lái ép giá hay ép phẩm cấp
sản phẩm.
Tuy nhiên, như đã đề cập ở trên, để đầu
tư xây dựng hạ tầng phục vụ cho việc liên
kết theo chuỗi sản phẩm khép kín như vậy,
doanh nghiệp phải có năng lực tài chính
lớn và hiểu biết sâu sắc về thị trường cho
sản phẩm của mình - điều mà hầu hết các
doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam còn
hạn chế. Mô hình này do đó không có tính
khả thi cho việc áp dụng đại trà mà chỉ tập
trung ở một số doanh nghiệp lớn. Chính vì
vậy, sẽ có xu hướng các doanh nghiệp này
giữ vai trò độc quyền mua, trở thành người
tạo dựng và áp đặt luật chơi. Nông dân khi
đó chỉ đóng vai trò như những “công nhân
nông nghiệp” được hưởng lương lao động
trên chính thửa ruộng của mình. Hơn nữa,
nông dân trong trường hợp này thường
không có tiếng nói đối trọng với những
quyết định của doanh nghiệp.
Vấn đề này được thể hiện rất rõ qua
quan hệ liên kết doanh nghiệp và nông
dân trong lĩnh vực sản xuất mía đường hay
chăn nuôi bò sữa. Do đặc thù của sản phẩm
mía đường không thể được tiêu thụ nhỏ
lẻ mà phải ở quy mô lớn mới có thể sinh
lời, tương tự với sản phẩm sữa bò tươi,
nên việc nông dân liên kết với các doanh
nghiệp chế biến là một tất yếu. Chính
vì vậy, vai trò độc quyền của các doanh
nghiệp về thị trường tiêu thụ thường dẫn
đến những bất lợi cho nông dân, cũng như
bất bình đẳng trong chia sẻ lợi ích và rủi
ro giữa hai bên. Đây chính là điểm cần có
can thiệp chính sách của Nhà nước nhằm
củng cố và tăng tính bền vững của quan hệ
liên kết này.
b. Liên kết trong tiêu thụ sản phẩm
Liên kết giữa nông dân và doanh
nghiệp trong tiêu thụ sản phẩm được thấy
ở hầu hết các ngành hàng nông nghiệp Việt
Nam, đặc biệt trong ngành thủy sản và chăn
nuôi. Cùng là quan hệ liên kết thu mua sản
phẩm nhưng hình thức liên kết này cũng có
rất nhiều cách thức tổ chức khác nhau.
Trong liên kết tiêu thụ sản phẩm, tuy
không đóng vai trò trực tiếp đầu tư, tổ chức
sản xuất và giám sát sản xuất như trong
liên kết chuỗi khép kín, nhưng một số
doanh nghiệp vẫn có những chính sách hỗ
trợ nhất định, về giống hoặc một phần vốn,
đối với các hộ nông dân sản xuất. Đây là
cách thức để doanh nghiệp nâng cao mức
độ cam kết và tin cậy giữa hai bên tham gia
liên kết ngoài những ràng buộc chính thức
theo hợp đồng.
Thí dụ điển hình cho mô hình liên
kết này là liên kết bao tiêu sản phẩm
giữa doanh nghiệp và các hộ nuôi cá tra
tại An Giang. Đối với các hộ nuôi cá tra,
cách thức phổ biến là doanh nghiệp đầu tư
100% thức ăn nuôi cá theo hệ số chuyển
đổi thức ăn (Feed Conversion Ratio/Rate
- FCR) (thông thường ở mức 1,57 kg thức
ăn cho 1 kg cá tra nguyên liệu). Các hộ
nuôi cá sẽ đăng ký sản lượng từ ban đầu
và nhận lượng thức ăn tương đương theo
hệ số quy đổi. Đến khi thu hoạch, doanh
nghiệp sẽ đưa một mức đơn giá cộng thêm
(không bao gồm chi phí thức ăn và theo
thỏa thuận hợp đồng trước đó) trên mỗi
kg cá tra nguyên liệu. Phần giá cộng thêm
Thông tin Khoa học xã hội, số 5.201818
này thực chất chính là doanh thu của nông
dân nuôi cá (không kể chi phí thức ăn đã
được doanh nghiệp đầu tư). Nếu hộ nuôi
cá không đáp ứng đủ về khối lượng cá theo
hợp đồng thì phải đền bù sản lượng thiếu
hụt tính theo một mức giá khác (có bao
gồm chi phí thức ăn) được thỏa thuận trong
hợp đồng, hoặc theo giá thị trường. Ngược
lại, nếu dư thừa so với số lượng cam kết
ban đầu thì doanh nghiệp cũng sẽ mua lại
theo mức giá tương tự.
Ngoài liên kết tiêu thụ sản phẩm có
hỗ trợ sản xuất như vậy, còn có những liên
kết chỉ mang tính thu mua và tiêu thụ sản
phẩm thuần túy. Quan hệ liên kết này thực
chất mang tính “thương mại” nhiều hơn là
“liên kết”, tức quan hệ mua bán đơn thuần
theo hợp đồng thay vì có thêm các hỗ trợ
khác. Doanh nghiệp trong trường hợp này
thường không có nhu cầu (hoặc năng lực)
giám sát chặt chẽ quá trình sản xuất các sản
phẩm mà họ thu mua, mà sẽ dựa vào một
bên thứ ba (hợp tác xã chẳng hạn) hoặc các
chứng nhận hợp pháp của sản phẩm. Điển
hình cho hình thức liên kết này là việc thu
mua rau của các hệ thống siêu thị từ các
nhóm hộ nông dân hoặc hợp tác xã trồng
rau. Như vậy, trong trường hợp này, quan
hệ liên kết dọc được hình thành dựa trên
mối liên kết ngang của nhiều hộ trồng
rau, hợp tác xã rau, hoặc tổ liên kết trồng
rau. Với liên kết ngang này, doanh nghiệp
không chỉ đảm bảo được nguồn cung sản
phẩm mà còn giảm được chi phí giao dịch
và chi phí quản lý, thông qua việc nắm một
đầu mối liên kết thay vì nhiều liên kết khác
nhau với từng hộ.
3. Một số nhận xét
Nhìn chung, trong các quan hệ liên kết
có hợp đồng, nông dân thường bị hạn chế
quyền ra quyết định cũng như quyền tự do
chuyển đổi hợp tác (với các nhà phân phối
hay các doanh nghiệp tiêu thụ ở cuối chuỗi
sản phẩm). Do đó, với các hợp đồng nông
nghiệp này, nông dân trở thành các “công
nhân nông nghiệp”. Điều này xảy ra khi
nhà thầu cung cấp tất cả các đầu vào và bao
tiêu đầu ra như đã nêu ở trên.
Một vấn đề khác nữa là chi phí giao
dịch cao hơn trong quan hệ liên kết. Ở Việt
Nam, các nông hộ sản xuất chủ yếu ở quy
mô nhỏ. Do vậy, để đáp ứng sản lượng cho
chế biến và tiêu thụ, doanh nghiệp phải ký
kết hợp đồng với nhiều nông hộ, dẫn đến
tăng chi phí giao dịch cũng như chi phí
cung cấp dịch vụ và giám sát.
Bên cạnh đó, khó khăn trong thực thi
hợp đồng cũng xảy ra đối với hầu hết các
quốc gia nông nghiệp - một thực tế cũng
được ghi nhận trong nghiên cứu của B.
Grosh (1994). Mặc dù hợp đồng nông
nghiệp giữa nông dân và doanh nghiệp
được cụ thể hóa bằng văn bản và có tính
pháp lý, song trên thực tế các hợp đồng này
hiếm khi có hiệu lực thực thi. Hiện tượng
khá phổ biến là nông dân thường phá vỡ
hợp đồng liên kết với doanh nghiệp do sản
xuất thất bại, hoặc khi giá thị trường cao
hơn giá hợp đồng. Trong trường hợp giá
thị trường cao hơn, nông dân có động cơ
“bán lén”, thậm chí ngang nhiên phá hợp
đồng để bán ra ngoài thị trường tự do. Đây
là trường hợp của nông dân trồng xoài Úc
tại Khánh Hòa, hay một số hộ trồng lúa tại
An Giang. Trong khi đó, thể chế pháp lý
còn hạn chế của các nước đang phát triển
nói chung và Việt Nam nói riêng đã góp
phần khiến cho việc khiếu kiện, giải quyết
tranh chấp do vi phạm hợp đồng ở quy mô
nhỏ thường có chi phí rất cao. Chính vì
vậy, trong trường hợp quyền lợi của doanh
nghiệp hoặc nông dân bị xâm phạm, một
trong hai bên đều không thực sự có động
lực kinh tế để theo đuổi khiếu kiện. Hơn
Liên kết dọc... 19
nữa, nông dân luôn là bên yếu thế về kinh
tế, nên dù doanh nghiệp có thắng kiện thì
cũng không có chế tài đảm bảo rằng nông
dân có thể bồi thường.
Nghiên cứu của J. Coulter và cộng sự
(1999) cũng cho thấy việc thiếu vắng một
hệ thống pháp lý hiệu quả, thiếu tài sản
thế chấp của các hộ sản xuất nhỏ cũng như
những yếu kém của thị trường bảo hiểm đã
tạo ra những rủi ro đáng kể cho các doanh
nghiệp ký kết hợp đồng với nông hộ nhỏ.
Những vấn đề này tồn tại trong hầu hết các
ngành hàng nông sản của Việt Nam bởi quy
mô sản xuất của phần lớn nông dân là nhỏ lẻ.
Do đó, các doanh nghiệp thường cẩn trọng
trong việc sàng lọc và lựa chọn các nông hộ
để giảm thiểu rủi ro: những nông hộ có quy
mô sản xuất tương đối thường là đối tượng
họ nhắm tới. Điều này cũng sẽ giúp khuyến
khích các nông hộ liên kết hoặc tự mở rộng
quy mô sản xuất nếu muốn tham gia liên
kết với doanh nghiệp (N. Key, D. Runsten,
1999). Đây cũng là trường hợp liên kết trồng
lúa tại An Giang (như đã đề cập ở trên), khi
nông dân thực hiện “dồn điền, đổi thửa” để
tạo nên các cánh đồng lớn nhằm liên kết với
doanh nghiệp hiệu quả hơn.
4. Gợi ý giải pháp
Trước những tồn tại trong liên kết giữa
doanh nghiệp và nông dân, một số cơ chế
nhằm khắc phục và đối phó với những vấn
đề này đã được các doanh nghiệp nông
nghiệp phát triển và áp dụng. Các giải pháp
này có thể được phân nhóm như sau:
(i) Giải pháp nâng cao khả năng thực
thi hợp đồng
Thứ nhất, cho vay/hỗ trợ tín dụng thông
qua nhóm giúp giảm chi phí giao dịch và
nguy cơ gian lận.
Thứ hai, duy trì tốt quan hệ đối tác
và tổ chức giám sát chặt chẽ nhằm tăng
cường sự tin cậy và thúc đẩy liên kết giữa
hai bên, đồng thời giảm thiểu việc gian lận
có chủ đích.
Thứ ba, nâng cao số lượng và chất
lượng đầu vào cung cấp cho nông hộ. Điều
này giúp tăng cường sự ràng buộc và mối
quan hệ cộng sinh giữa các bên.
Thứ tư, xây dựng cơ chế thưởng, phạt
rõ ràng và nghiêm túc thực thi, đặc biệt đối
với các hành vi cố tình vi phạm hợp đồng.
(ii) Giải pháp giảm chi phí giao dịch
Một trong những cách thức giúp giảm
chi phí giao dịch (chi phí quản lý liên kết)
là lựa chọn các nông hộ tập trung ở một khu
vực nhất định. Đây chính là cách mà một
công ty rau quả địa phương ở Mexico đã
thực hiện khi ký kết hợp tác với các nông
hộ có quy mô sản xuất nhỏ (N. Key, D.
Runste, 1994).
Ngoài ra, có thể khuyến khích nông
dân tập hợp thành các tổ/nhóm sản xuất,
hoặc dưới hình thức hợp tác xã. Nói cách
khác, đó là tăng cường liên kết ngang để
mở rộng quy mô sản xuất. Hình thức tổ
chức sản xuất này sẽ giúp doanh nghiệp
giảm bớt chi phí do cắt giảm được số lượng
giao dịch với từng hộ riêng lẻ.
(iii) Giải pháp đối với một số vấn
đề khác
Để hạn chế tình trạng độc quyền mua
của doanh nghiệp, A. Doward và cộng sự
(1998) đã gợi ý tăng sự cạnh tranh giữa
các doanh nghiệp/công ty mua sản phẩm
của nông dân. Đây chính là điểm cần có
tác động chính sách để tạo môi trường cạnh
tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, các kênh/nguồn/đầu mối
cung cấp thông tin thị trường cho nông hộ
sẽ giúp nâng cao sự hiểu biết của nông dân,
từ đó tăng cường vị thế và khả năng thương
thảo hợp đồng, ngăn chặn việc lợi dụng
và áp đặt các điều kiện hợp đồng từ phía
doanh nghiệp.
Thông tin Khoa học xã hội, số 5.201820
Việc tạo dựng các mạng lưới quan hệ
và thông tin chính thức cũng như phi chính
thức giữa các doanh nghiệp trong ngành sẽ
giúp kiểm soát và hạn chế các hành vi lừa
đảo của thương lái hoặc doanh nghiệp.
5. Kết luận
Hợp đồng liên kết trong nông nghiệp
hiện nay đã được thực hiện phổ biến ở các
quốc gia đang phát triển như cách thức để
giảm thiểu rủi ro, đảm bảo ổn định khối
lượng, chất lượng và giá cả. Không chỉ
vậy, hợp đồng nông nghiệp còn giúp phối
hợp thị trường sản phẩm tốt hơn khi quy
ước các thuộc tính sản phẩm theo nhu cầu
và mong muốn. Đó cũng là một cách thức
để giảm chi phí giao dịch trong chuỗi sản
phẩm. Đây là một thực tiễn mà hầu hết các
quốc gia có nền nông nghiệp phát triển đều
trải qua, và Việt Nam cũng không phải là
ngoại lệ nếu muốn thị trường hóa các quan
hệ kinh tế trong nông nghiệp.
Với phần lớn các nông hộ đều có quy
mô sản xuất nhỏ, liên kết giữa nông dân và
doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay có vai
trò rất quan trọng. Chính vì vậy, Chính phủ
đang có những cơ chế nhằm tạo điều kiện
cho việc phát triển liên kết (dọc) này thông
qua việc xem xét vai trò của các hợp tác xã,
các tổ liên kết - tức củng cố liên kết ngang
nhằm tăng cường liên kết dọc. Vấn đề mấu
chốt là thiết lập được các thể chế phù hợp,
giúp đảm bảo những nông hộ nhỏ, hay nói
rộng hơn là những đơn vị kinh tế có quy mô
sản xuất nhỏ, có thể được hưởng lợi từ toàn
cầu hóa, hiện đại hóa và công nghiệp hóa
nông nghiệp
Tài liệu tham khảo
1. P.T. Anh, T.T. My Dieu, A.P.J. Mol, C.
Kroeze and S. R. Bush (2011), “Towards
eco-agro industrial clusters in aquatic
production: the case of shrimp processing
industry in Vietnam”, Journal of Cleaner
Production, 19 (17-18): 2107-2118.
2. J. Coulter, A. Goodland, and A.
Tallontire (1999), Marrying farmer
cooperation and contract farming:
provision in a liberalising sub-Saharan
Africa, Overseas Development Institute,
ISSN 1356-9338.
3. I. Delforge (2007), Contract Farming
in Thailand: A view from the farm,
Occasional Papers 2, 552 Global South
CUSRI, Chulalongkorn University,
Thailand.
4. Hữu Đức (2014), “GENTRACO xây
dựng thương hiệu gạo Việt”, Nông
nghiệp Việt Nam,
gentraco-xay-dung-thuong-hieu-gao-
viet-post136806.html
5. B. Grosh (1994), “Contract farming
in Africa: an application of the new
institutional economics”, Journal of
African Economies, 3 (2): 231-61.
6. N. Key and D. Runsten (1999),
“Contract farming, smallholders, and
rural development in Latin America: the
organization of agroprocessing fi rms
and the scale of outgrower production”,
World Development, 27 (2): 381-401.
7. G. Meulenberg and M. Kool (1994),
Chain marketing of agricultural
products, Wageningen Agricultural
University, Netherlands.
8. S. Sriboonchitta and A. Wiboonpoongse
(2008), Overview of contract farming
in Thailand: lessons learned, ADB
Institute Dicussion Paper No. 112,
Tokyo, Japan.
9. N. Trifkovi´c (2016), “Vertical
coordination and farm performance:
evidence from the catfi sh 600 sector in
Vietnam”, Agricultural Economics, 47
(2016): 1-11.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- lien_ket_doc_giua_doanh_nghiep_va_nong_dan_ly_thuyet_va_mot.pdf