Luận bàn về một số nội dung và câu chữ trong bộ luật hàng hải Việt Nam 2015
7. Liên quan đến quyền chấm dứt hợp
đồng
Theo Điều 190 (BLHHVN 2015) - Quyền
chấm dứt hợp đồng của người thuê vận
chuyển, có sử dụng cụm từ “ đang thực hiện
chuyến đi ”; “ trước khi bắt đầu chuyến
đi ”. Để biết được tàu đang thực hiện chuyến
đi, cần phải biết chuyến đi bắt đầu khi nào và
kết thúc khi nào. Khái niệm thế nào là đang
thực hiện chuyến đi, và khi nào chuyến đi bắt
đầu không được đề cập trong Bộ luật, cụ thể
là trong Điều 4 - Giải thích các thuật ngữ. [3]
8. Liên quan đến thuật ngữ điều kiện có
tổn thất và không có tổn thất
Tại Chương XVIII - Hợp đồng bảo hiểm
hàng hải (BLHHVN 2015); Mục 1 - Qui định
chung; Điều 305 - Xác định quyền lợi có thể
được bảo hiểm, Khoản 3 có nêu: “ Khi đối
tượng bảo hiểm được bảo hiểm theo điều kiện
có tổn thất hoặc không có tổn thất thì người
được bảo hiểm vẫn có thể đòi bồi thường mặc
dù sau khi tổn thất xảy ra mới có quyền lợi
được bảo hiểm, .”. Vấn đề ở đây là liên quan
đến cụm từ điều kiện có tổn thất hoặc không
có tổn thất. Mục đích của người mua bảo hiểm
là khi có tổn thất xảy ra, gây thiệt hại cho đối
tượng bảo hiểm, sẽ được người bảo hiểm bồi
thường một phần hoặc toàn bộ tổn thất, thiệt
hại xảy ra (tùy theo số tiền bảo hiểm). Vì vậy,
tổn thất là điều khó báo trước cho nên gọi điều
kiện bảo hiểm không tổn thất là không phù
hợp, khó hiểu. Phải chăng cụm từ này được sử
dụng xuất phát từ điều kiện bảo hiểm hàng hóa
bằng đường biển mà trước đây các nước trong
đó có Việt Nam đã sử dụng, đó là điều kiện
bảo hiểm có tổn thất (WPA-With Particular
Average) và điều kiện bảo hiểm không có tổn
thất hay miễn tổn thất (FPA-Free Particular
Average), nhưng hiện nay, các điều kiện này
đã bị thay thế bằng điều kiện bảo hiểm B
(WPA) và điều kiện bảo hiểm C (FPA) vì vậy
cách đặt điều kiện bảo hiểm miễn tổn thất
(FPA) trở nên khá khó hiểu [3].
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 220 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Luận bàn về một số nội dung và câu chữ trong bộ luật hàng hải Việt Nam 2015, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
98
Journal of Transportation Science and Technology, Vol 36, May 2020
LUẬN BÀN VỀ MỘT SỐ NỘI DUNG
VÀ CÂU CHỮ TRONG BỘ LUẬT HÀNG HẢI VIỆT NAM 2015
DISCUSSION ON A FEW CONTENTS
AND SENTENCES IN THE VIỆT NAM MARTIME LAW CODE 2015
Lê Phúc Hòa
Khoa Kinh tế vận tải
Đại học Giao thông vận tải Thành phố Hồ Chí Minh
Tóm tắt: Bộ luật Hàng hải Việt Nam (BLHHVN) phiên bản lần thứ 3 đã được Quốc hội Việt Nam
thông qua năm 2015. Qua ba lần chỉnh sửa, Bộ luật đã khá hoàn chỉnh song vẫn không tránh khỏi những
thiếu sót nhất định về mặt nội dung và câu chữ diễn đạt. Bài báo này luận bàn về một số nội dung và
câu chữ được dùng trong Bộ luật còn thiếu, hoặc chưa chính xác như: Nội dung liên quan đến nguyên
tắc áp dụng Luật; giá dịch vụ vận chuyển; sử dụng thuật ngữ tàu chuyên tuyến; giá dịch vụ của quãng
đường thực tế; thời gian dỡ hàng; quyền chấm dứt hợp đồng; thuật ngữ điều kiện có tổn thất và không
có tổn thất, và với mong muốn góp phần làm cho Bộ luật hàng hải Việt Nam hoàn thiện hơn, phù hợp
với xu thế phát triển của thời đại trong quản lý, khai thác,vận chuyển hàng hóa bằng đường biển.
Từ khóa: Bộ luật Hàng hải Việt Nam 2015; điều khoản; nội dung; liên quan; vận chuyển; giá dịch
vụ vận chuyển.
Chỉ số phân loại:
Abstract: Maritime law code 3rd edition has approved by the National Assembly of Vietnam in 2015.
Maritime law Code 3rd edition has been rather perfect so still has shortcomings of content and sentence.
This article discusses some contents and sentences used in The Maritime law Code 2015 such as content
concern relate rules for using the law; transport service price; vocabulary of a fixed-route ship; fact
transport service price; discharging time; right canceling voyage charter party; vocabulary of with
average and no average, with wanting to contribute to do the Maritime Law Code has been rather
perfect conformity with the development trend of the era in management, ship operation, and shipping.
Keywords: The Vietnam Maritime Law Code 2015 (provision; content, concern, transport,
transport service price.
Classification number:
Bộ luật Hàng hải Việt Nam 2015 được
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua
ngày 25 tháng 11 năm 2015. Bộ luật đã có
những thay đổi, bổ sung nội dung đầy đủ hơn
và được sắp xếp lại một cách khoa học hơn.
Tuy vậy, trong quá trình sử dụng và nghiên
cứu tác giả nhận thấy Bộ luật vẫn còn có một
số nội dung còn thiếu và câu chữ sử dụng
không đúng hoặc chưa chính xác. Cụ thể các
nội dung được đề cập sau đây:
1.Về nội dung qui định liên quan đến
nguyên tắc áp dụng Luật
Theo Bộ luật hàng hải Việt Nam 2015
(BLHHVN 2015), Điều 3 - Nguyên tắc áp
dụng luật khi có xung đột pháp luật, khoản 3
qui định: “Trường hợp quan hệ pháp luật liên
quan đến tai nạn đâm va, tiền công cứu hộ,
trục vớt tài sản chìm đắm xảy ra tại nội thủy
hoặc lãnh hải của quốc gia nào thì áp dụng
luật của quốc gia đó. Trường hợp quan hệ
pháp luật liên quan đến đâm va, cứu hộ xảy ra
ở vùng biển quốc tế thì áp dụng luật quốc gia
mà Trọng tài hoặc Tòa án của quốc gia đầu
tiên đã thụ lý giải quyết tranh chấp”. Như vậy,
trường hợp đâm va, cứu hộ, trục vớt tài sản
chìm đắm tại vùng đặc quyền kinh tế của quốc
gia nào đó thì sao? Theo Luật biển Việt Nam
đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 3 thông
qua ngày 21 tháng 6 năm 2012, Điều 3, Khoản
1 có ghi: “Vùng biển quốc tế là tất cả các vùng
biển nằm ngoài vùng đặc quyền về kinh tế của
Việt Nam và các quốc gia khác,”. Vì vậy,
TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ GIAO THÔNG VẬN TẢI, SỐ 36-05/2020
99
cần phải bổ sung thêm vào nội dung Điều 3,
Khoản 3 về trường hợp đâm va, cứu hộ, trục
vớt tài sản chìm đắm tại vùng đặc quyền kinh
tế của quốc gia có biển [2],[3].
2.Về nội dung qui định tại Điều 137 và
Điều 142
Hai điều này cùng thuộc Chương 6 - Bắt
giữ tàu biển của Bộ luật hàng hải Việt Nam
2015, nhưng ở các mục khác nhau lại gần hoàn
toàn giống nhau về mặt nội dung. Cụ thể có
thể xem bảng 1 Qua đó thấy rằng nội dung cơ
bản cuả hai điều giống nhau, thế thì tại sao
không đưa vào một điều mà là tách ra ở hai
điều thuộc hai mục khác nhau trong cùng một
chương [3].
Bảng 1. Nội dung giống nhau của hai Điều 137 và Điều 142.
Điều 137.Thả tàu biển sau khi bị bắt giữ Điều 142.Căn cứ thả tàu biển đang bị bắt giữ để đảm bảo giải quyết các khiếu nại hàng hải
Khoản 1. a
“Sau khi chủ tàu, người thuê tàu, hoặc
người khai thác tàu đã thực hiện các
biện pháp đảm bảo thay thế hoặc đã
thanh toán các khoản nợ và các chi phí
liên quan trong quá trình tàu biển bị bắt
giữ”
Khoản1.a
“Sau khi chủ tàu, người thuê tàu, hoặc
người khai thác tàu đã thực hiện các
biện pháp đảm bảo thay thế hoặc đã
thanh toán các khoản nợ”
Khoản1. b “Quyết định bắt giữ tàu biển đã bị hủy” Khoản 1. d “Quyết định bắt giữ tàu biển đã bị hủy”
Khoản 1. c “Thời hạn bắt giữ tàu biển theo quyết
định bắt giữ tàu biển đã hết” Khoản 1. đ
“Thời hạn bắt giữ tàu biển theo quyết
định bắt giữ tàu biển đã hết”
Khoản 2
“ Trường hợp không có sự thỏa thuận
giữa các bên về mức độ và hình thức
đảm bảo thay thế, tòa án sẽ quyết định
mức độ và hình thức đảm bảo thay thế
nhưng không vượt quá giá trị tàu biển
bị bắt giữ”
Khoản 2
“Trong trường hợp không có sự thỏa
thuận giữa các bên về mức độ và hình
thức đảm bảo thay thế thì Tòa án sẽ
quyết định mức độ và hình thức đảm bảo
thay thế nhưng không vượt quá giá trị
tàu biển bị bắt giữ hoặc nghĩa vụ tài sản
là căn cứ cho việc bắt giữ tàu biển trong
trường hợp nghĩa vụ tài sản đó nhỏ hơn
giá trị tàu biển”
Khoản 3
“Tàu biển có thể được thả theo yêu cầu
của chính người đã yêu cầu bắt giữ;
trong trường hợp này, mọi phí tổn liên
quan do người yêu cầu bắt giữ tàu biển
thanh toán”
Khoản 1.c
“Tàu biển có thể được thả theo yêu cầu
của chính người đã yêu cầu bắt giữ tàu
biển”
3. Về nội dung qui định liên quan đến
khái niệm về giá dịch vụ vận chuyển
Dịch vụ vận tải cung cấp sản phẩm vận
chuyển hàng hóa, hàng khách cho khách hàng.
Ứng với mỗi đơn vị sản phẩm cung cấp cho
khách hàng, doanh nghiệp vận tải thu về một
khoản tiền tương ứng gọi là giá cước vận
chuyển (giá dịch vụ vận chuyển). Giá cước
100
Journal of Transportation Science and Technology, Vol 36, May 2020
vận chuyển thường được tính bằng số đơn vị
tiền tệ cho một đơn vị hàng hóa, hành khách
vận chuyển (khi tuyến đường đã được xác
định). Đơn vị hàng hóa vận chuyển có thể là
tấn, chiếc cái, con, bao, kiện, thùng, teu,...
Tuy vậy, theo Điều 149, Bộ luật hàng hải
Việt Nam 2015, có khái niệm về giá dịch vụ
vận chuyển như sau:“Giá dịch vụ vận chuyển
bằng đường biển là khoản tiền trả cho người
vận chuyển theo hợp đồng vận chuyển bằng
đường biển”. Khái niệm giá dịch vụ vận
chuyển như vậy là không chính xác. Vì giá
(price) là giá trị bằng tiền của một đơn vị hàng
hóa, dịch vụ, hay tài sản nào đó. Giá và số tiền
phải trả là khác nhau, số tiền phải trả còn tùy
thuộc vào số lượng hàng hóa, dịch vụ trao đổi,
mua bán. Chẳng hạn, trên một tuyến đường,
cùng một cự ly vận chuyển, của một chuyến
đi, người thuê vận chuyển gạo cùng một kiểu
loại bao bì đóng gói thì giá dịch vụ vận chuyển
cho một tấn gạo là giống nhau đối với nhiều
người thuê, nhưng số tiền dịch vụ vận chuyển
mà người vận chuyển được trả của người thuê
này và người thuê kia có thể khác nhau vì số
lượng hàng của mỗi người thuê khác nhau [1],
[4], [5].
Tại Khoản 4, Điều 152 - Giới hạn trách
nhiệm của người vận chuyển có nêu: “Trách
nhiệm của người vận chuyển đối với việc
chậm trả hàng được giới hạn số tiền bằng hai
phẩy năm lần giá dịch vụ vận chuyển của số
hàng trả chậm, nhưng không vượt quá tổng số
giá dịch vụ vận chuyển phải trả theo hợp đồng
vận chuyển hàng bằng đường biển”. Tổng số
giá dịch vụ vận chuyển phải trả theo hợp đồng
được sử dụng ở đây có nghĩa là toàn số tiền
dịch vụ vận chuyển mà một người thuê phải
trả. Theo tác giả, cụm từ tổng số giá dịch vụ
vận chuyển được hiểu theo nghĩa thông
thường là trong một hợp đồng có nhiều giá
khác nhau cộng lại, nếu như vậy cụm từ ấy trở
nên vô nghĩa vì không ai cộng các loại giá
khác nhau lại. Người ta chỉ cộng số tiền phải
trả theo từng loại giá khác nhau gọi là tổng số
tiền [3].
Chính vì khái niệm giá dịch vụ vận
chuyển được nêu Điều 149 của Bộ luật hàng
hải Việt Nam nêu trên không chính xác dẫn
đến việc sử dụng cụm từ giá dịch vụ vận
chuyển không chính xác tại các điều khác như
Điều 157 -Thanh toán giá dịch vụ vận chuyển,
Khoản 1: “ người nhận hàng phải thanh
toán cho người vận chuyển giá dịch vụ vận
chuyển”, Khoản 2: “Các khoản nợ này
bao gồm giá dịch vụ vận chuyển, ”. Điều
158 - Giá dịch vụ vận chuyển trong trường
hợp hàng hóa bị mất, Khoản 1: “miễn giá
dịch vụ vận chuyển; ”, “thu giá dịch vụ
theo quãng đường thực tế, ”. Cụm từ “thanh
toán giá”, “thu giá” là cụm từ vô nghĩa như
các chuyên gia đã bàn luận trong thời gian
qua, khi trên tuyến đường cao tốc, tại các trạm
thu tiền dịch vụ đường cao tốc được gắn bảng
hiệu là “trạm thu giá dịch vụ” [3].
4. Liên quan đến thuật ngữ tàu chuyên
tuyến
Theo BLHHVN 2015, Điều 171 - Nghĩa
vụ của người vận chuyển hàng hóa theo chứng
từ vận chuyển có nêu: “Ngoài nghĩa vụ qui
định tại Điều 150 của Bộ luật này, người vận
chuyển hàng hóa theo chứng từ vận chuyển
còn phải có nghĩa vụ sau đây”; Khoản 2 -
“Phải thông báo trong thời gian hợp lý cho
người giao hàng biết trước về nơi bốc hàng
lên tàu biển, thời điểm mà tàu sẵn sàng để
nhận hàng và thời gian tập kết hàng hóa. Việc
thông báo này không áp dụng đối với tàu
chuyên tuyến, trừ trường hợp lịch tàu có sự
thay đổi”. Sử dụng từ chuyên tuyến ở đây là
chưa chính xác, vì khai thác theo hình thức tàu
chợ (liner) là tàu chuyên tuyến, còn tàu
chuyên tuyến chưa chắc là tàu chợ. Khi khai
thác tàu chuyến, người ta có thế bố trí tàu
chuyên tuyến nhưng không có lịch trình định
sẵn, không có biểu cước định sẵn, và các điều
kiện vận chuyển cũng không cố định mà tùy
theo từng chuyến đi [3].
5. Liên quan đến cách xác định giá
cước vận chuyển quãng đường thực tế
Theo BLHHVN 2015, Điều 155 - Vận
chuyển hàng hóa nguy hiểm, Khoản 2 có nêu
TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ GIAO THÔNG VẬN TẢI, SỐ 36-05/2020
101
“ Giá dịch vụ vận chuyển theo quãng đường
thực tế là giá dịch vụ vận chuyển được tính
trên cơ sở tỷ lệ giữa quãng đường mà hàng
hóa được vận chuyển trong thực tế so với toàn
bộ quãng đường vận chuyển đã thỏa thuận
trong hợp đồng, cũng như trên cơ sở tỷ lệ giữa
sự đầu tư chi phí, thời gian, sự rủi ro hoặc khó
khăn thông thường liên quan đến quãng
đường vận chuyển đã thực hiện so với quãng
đường vận chuyển còn lại”. Nội dung này
được hiểu là số tiền dịch vụ vận chuyển mà
người thuê trả cho người vận chuyển theo
quãng đường thực tế vận chuyển sẽ nhỏ hơn
tổng số tiền dịch vụ vận chuyển trả theo hợp
đồng. Tuy nhiên, vấn đề cần bàn ở đây là theo
nội dung Điều 155, Khoản 2 nêu trên thì số
tiền dịch vụ vận chuyển theo quãng đường
thực tế được tính “trên cơ sở tỷ lệ giữa sự đầu
tư chi phí, theo thời gian, theo sự rủi ro hoặc
khó khăn thông thường so với quảng đường
vận chuyển còn lại”. Điều đó có nghĩa là tỷ lệ
này có thể sẽ lớn hơn một, và số tiền dich vụ
vận chuyển cho quãng đường thực tế mà
người vận chuyển được trả lớn hơn số tiền
dịch vụ vận chuyển theo hợp đồng. Đó là điều
không hợp lý. [3]
6. Liên quan đến thời gian dỡ hàng
Theo Mục 3 - Hợp đồng vận chuyển theo
chuyến (BLHHVN2015), Điều 179 - Thời hạn
bốc hàng, và Điều 180 - Thời hạn dôi nhật.
Nội dung của hai điều này chỉ đề cập đến thời
hạn bốc hàng và thời hạn dôi nhật tại cảng xếp.
Như vậy cảng dỡ hàng như thế nào vốn đã
không được đề cập tại Mục 3. Vì vậy cần thay
đổi cụm từ bốc hàng thành cụm từ bốc dỡ
hàng thì nội dung đề cập bao gồm cả cảng xếp
và cảng dỡ hàng tại hai điều này [3].
7. Liên quan đến quyền chấm dứt hợp
đồng
Theo Điều 190 (BLHHVN 2015) - Quyền
chấm dứt hợp đồng của người thuê vận
chuyển, có sử dụng cụm từ “đang thực hiện
chuyến đi”; “ trước khi bắt đầu chuyến
đi”. Để biết được tàu đang thực hiện chuyến
đi, cần phải biết chuyến đi bắt đầu khi nào và
kết thúc khi nào. Khái niệm thế nào là đang
thực hiện chuyến đi, và khi nào chuyến đi bắt
đầu không được đề cập trong Bộ luật, cụ thể
là trong Điều 4 - Giải thích các thuật ngữ. [3]
8. Liên quan đến thuật ngữ điều kiện có
tổn thất và không có tổn thất
Tại Chương XVIII - Hợp đồng bảo hiểm
hàng hải (BLHHVN 2015); Mục 1 - Qui định
chung; Điều 305 - Xác định quyền lợi có thể
được bảo hiểm, Khoản 3 có nêu: “ Khi đối
tượng bảo hiểm được bảo hiểm theo điều kiện
có tổn thất hoặc không có tổn thất thì người
được bảo hiểm vẫn có thể đòi bồi thường mặc
dù sau khi tổn thất xảy ra mới có quyền lợi
được bảo hiểm, ...”. Vấn đề ở đây là liên quan
đến cụm từ điều kiện có tổn thất hoặc không
có tổn thất. Mục đích của người mua bảo hiểm
là khi có tổn thất xảy ra, gây thiệt hại cho đối
tượng bảo hiểm, sẽ được người bảo hiểm bồi
thường một phần hoặc toàn bộ tổn thất, thiệt
hại xảy ra (tùy theo số tiền bảo hiểm). Vì vậy,
tổn thất là điều khó báo trước cho nên gọi điều
kiện bảo hiểm không tổn thất là không phù
hợp, khó hiểu. Phải chăng cụm từ này được sử
dụng xuất phát từ điều kiện bảo hiểm hàng hóa
bằng đường biển mà trước đây các nước trong
đó có Việt Nam đã sử dụng, đó là điều kiện
bảo hiểm có tổn thất (WPA-With Particular
Average) và điều kiện bảo hiểm không có tổn
thất hay miễn tổn thất (FPA-Free Particular
Average), nhưng hiện nay, các điều kiện này
đã bị thay thế bằng điều kiện bảo hiểm B
(WPA) và điều kiện bảo hiểm C (FPA) vì vậy
cách đặt điều kiện bảo hiểm miễn tổn thất
(FPA) trở nên khá khó hiểu [3].
Trên đây là một số vấn đề mà tác giả
luận bàn về nội dung và câu chữ trong Bộ
luật hàng hải Việt Nam 2015, với mong
muốn đóng góp một phần ý kiến của mình
cho việc hoàn thiện Bộ luật tốt hơn về mặt
nội dung và câu chữ, từ đó trở thành nền
tảng cơ bản về mặt pháp lý một cách vững
chắc, điều chỉnh các mối quan hệ liên quan
đến hoạt động hàng hải ngày một rõ ràng,
chính xác và công bằng, phù hợp với luật
pháp quốc tế, trong đó có Công ước
102
Journal of Transportation Science and Technology, Vol 36, May 2020
Rotterdam Rules 2008 sẽ có hiệu lực trong
thời gian tới
Tài liệu tham khảo
[1] Phạm Thị Nga (2016), Kinh tế vận tải và Logistics,
Nhà xuất bản Giao thông vận tải;
[2] Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam (2012), Luật biển Việt Nam-2012;
[3] Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam (2015), Bộ luật Hàng hải Việt Nam-2015;
[4]https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1_c%E1%
BA%A3-19/1/2020
[5] https://vietnamfinance.vn/gia-ca-la-gi-chien-luoc-
marketing-xoay-quanh-gia-ca-
20180504224209136.htm-7/11/2019
Ngày nhận bài: 17/4/2020
Ngày chuyển phản biện: 21/4/2020
Ngày hoàn thành sửa bài: 12/5/2020
Ngày chấp nhận đăng: 19/5/2020
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_ban_ve_mot_so_noi_dung_va_cau_chu_trong_bo_luat_hang_ha.pdf