Mục Lục
PHẦN MỞ ĐẦU1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Mục đích nghiên cứu 1
3. Phạm vi nghiên cứu 2
4. Phương pháp nghiên cứu .2
5. Bố cục của đề tài .3
CHƯƠNG 1: 4
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI
THẨM TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH .4
1.1. Khái quát về giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng hành chính .4
1.1.1. Khái niệm, mục đích, ý nghĩa của thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm
trong tố tụng hành chính 4
1.1.1.1. Khái niệm thủ tục giám đốc thẩm .4
1.1.1.2. Mục đích, ý nghĩa của thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng
hành chính .4
1.1.2. Khái niệm, mục đích, ý nghĩa của thủ tục tái thẩm trong tố tụng
hành chính 5
1.1.2.1 Khái niệm thủ tục tái thẩm .5
1.1.2.2. Mục đích và ý nghĩa của thủ tục tái thẩm .6
1.2. Lịch sử hình thành thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng
hành chính 7
1.1.1.Quy định của pháp luật về thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố
tụng hành chính từ 01/7/1996 đến 30/6/2011 .7
1.2.1.1 Thủ tục giám đốc thẩm 7
1.2.1.2 Thủ tục tái thẩm .8
1.2.2 Quy định của pháp luật về thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố
tụng hành chính từ 01/7/2011 đến nay .8
1.2.2.1 Thủ tục giám đốc thẩm 8
1.2.2.2 Thủ tục tái thẩm .9
1.3 Tính chất của thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng hành
chính .10
1.3.1 Tính chất của thủ tục giám đốc thẩm .10
1.3.2 Tính chất của thủ tục tái thẩm .10
1.4 Thẩm quyển và đối tượng của thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong
tố tụng hành chính .11
1.4.1 Thẩm quyền và đối tượng của thủ tục giám đốc thẩm .11
1.4.1.1. Thẩm quyền giám đốc thẩm 11
1.4.1.2. Đối tượng của thủ tục giám đốc thẩm 12
1.4.2. Thẩm quyền và đối tượng của thủ tục tái thẩm .13
1.4.2.1. Thẩm quyền tái thẩm 13
1.4.2.2 Đối tượng của thủ tục tái thẩm .13
1.5. So sánh giám đốc thẩm và tái thẩm 14
CHƯƠNG 2: 18
THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM TRONG .18
TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH 18
2.1. Thủ tục giám đốc thẩm .18
2.1.1. Căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm .18
2.1.2. Phạm vi giám đốc thẩm .20
2.1.3 Thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm .22
2.1.4. Thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm .24
2.1.5. Chủ thể tham gia giám đốc thẩm .26
2.1.6. Phiên tòa giám đốc thẩm .27
2.1.6.1. Thời hạn mở phiên tòa 27
2.1.6.2. Chuẩn bị phiên tòa 28
2.1.6.3. Thủ tục phiên tòa giám đốc thẩm 29
2.1.7. Quyết định giám đốc thẩm .31
2.2. Thủ tục tái thẩm 32
2.2.1. Căn cứ tái thẩm .32
2.2.2 Phạm vi tái thẩm .33
2.2.3. Thời hạn kháng nghị tái thẩm .33
2.2.4. Thẩm quyền kháng nghị tái thẩm 34
2.2.5. Chủ thể tham gia tái thẩm .35
2.2.6 . Thông báo và xác minh những tình tiết mới được phát hiện .36
2.2.7. Phiên tòa tái thẩm .36
2.2.8. Quyết định tái thẩm 37
CHƯƠNG 3 :
THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH
3.1 Thực tiễn áp dụng thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng hành
chính ở Việt Nam. 38
3.2 Giải pháp hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng
hành chính 46
KẾT LUẬN 51
59 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2807 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng hành chính, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nêu ra những căn cứ để kháng nghị (tức là
những sai sót của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật), phạm vi kháng
nghị (kháng nghị toàn bộ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, hay kháng
nghị một phần bản án hay quyết định đó). Thẩm phán cần nghiên cứu toàn diện
hồ sơ vụ án bị kháng nghị, sau đó đối chiếu với những vấn đề kháng nghị nêu ra
để đưa ra phương án xử lý:
+ Kết luận của bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách
quan của vụ án. Nếu điều này xảy ra thì có nghĩa là bản án, quyết định của Tòa
án không có căn cứ.
25 Điều 221 Luật tố tụng hành chính năm 2010
Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng hành chính
GVHD: Th.s Diệp Thành Nguyên Trang 29 SVTH: Trần Mộng Nghi
+ Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Việc xét xử bị coi là có vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng nếu việc xét xử không tuân thủ đầy đủ các thủ tục tố
tụng theo quy định của pháp luật.
+ Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật. Tòa án phải vận
dụng đúng pháp luật điều chỉnh quan hệ pháp luật đó để giải quyết vụ án. Thẩm
phán cần nghiên cứu kỹ, đối chiếu giữa căn cứ kháng nghị, phần của bản án,
quyết định bị kháng nghị và văn bản pháp luật liên quan.
Chuẩn bị phiên toà giám đốc thẩm:
Chánh án Tòa án, Chánh tòa Toà hành chính Tòa án nhân dân tối cao phân
công một Thẩm phán làm bản thuyết trình về vụ án tại phiên tòa. Bản thuyết trình
tóm tắt nội dung vụ án và các bản án, quyết định của các cấp Tòa án, nội dung
của kháng nghị. Bản thuyết trình phải được gửi cho các thành viên Hội đồng
giám đốc thẩm chậm nhất là 07 ngày làm việc, trước ngày mở phiên tòa giám đốc
thẩm.26
2.1.6.3. Thủ tục phiên tòa giám đốc thẩm
Cũng là một thủ tục tố tụng nhưng phiên tòa giám đốc thẩm không giống
như phiên tòa sơ thẩm hay phúc thẩm. Trong phiên tòa một thành viên được chủ
tọa phiên tòa phân công sẽ trình bày tóm tắt nội dung vụ án. Nếu người tham gia
tố tụng có tham gia phiên tòa thì được quyền phát biểu ý kiến của mình về quyết
định kháng nghị. Sau đó đại diện Viện kiểm sát sẽ trình bày ý kiến của mình về
quyết định kháng nghị, Hội đồng giám đốc thẩm biểu quyết về việc giải quyết vụ
án. Quyết định giám đốc thẩm của Ủy ban Thẩm phán Tòa án cấp tỉnh, Hội đồng
giám đốc thẩm Toà hành chính Toà án nhân dân tối cao hoặc Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao phải được quá nửa tổng số thành viên tán thành.
Nếu hội đồng giám đốc thẩm biểu quyết không tán thành về quyết định kháng
nghị thì phiên tòa sẽ bị hoãn. Trong vòng ba mươi ngày (30) phiên tòa giám đốc
thẩm phải được xét xử lại với sự tham gia đầy đủ các thành viên. Có thể hiểu
26 Điều 222 Luật tố tụng hành chính năm 2010
Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng hành chính
GVHD: Th.s Diệp Thành Nguyên Trang 30 SVTH: Trần Mộng Nghi
rằng trong phiên Tòa giám đốc thẩm thì người điều khiển phiên tòa vẫn là chủ
tọa phiên tòa, đồng thời cũng không diễn ra quá trình tranh tụng mà đại diện các
bên phát biểu ý kiến về quyết định kháng nghị, sau đó biểu quyết tán thành hoặc
không tán thành.
Thủ tục phiên tòa giám đốc thẩm:
Sau khi Chủ toạ phiên tòa khai mạc phiên tòa, một thành viên Hội đồng xét
xử trình bày nội dung vụ án, quá trình xét xử vụ án, phần quyết định của bản án,
quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị, các căn cứ, nhận
định của kháng nghị và đề nghị của người kháng nghị. Trường hợp Tòa án có
triệu tập những người tham gia tố tụng thì người được triệu tập trình bày ý kiến
của mình về quyết định kháng nghị. Đại diện Viện kiểm sát trình bày ý kiến của
Viện kiểm sát về quyết định kháng nghị. Các thành viên của Hội đồng giám đốc
thẩm thảo luận và phát biểu ý kiến của mình về việc giải quyết vụ án. Đại diện
Viện kiểm sát phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án. Hội
đồng giám đốc thẩm biểu quyết về việc giải quyết vụ án.
Quyết định giám đốc thẩm của Ủy ban Thẩm phán Tòa án cấp tỉnh, Hội
đồng giám đốc thẩm Tòa hành chính Tòa án nhân dân tối cao hoặc Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao phải được quá nửa tổng số thành viên tán
thành. Ủy ban Thẩm phán Tòa án cấp tỉnh, Hội đồng giám đốc thẩm Tòa hành
chính Tòa án nhân dân tối cao hoặc Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao biểu quyết theo trình tự tán thành, không tán thành với kháng nghị và ý kiến
khác; nếu không có trường hợp nào được quá nửa tổng số thành viên của Ủy ban
Thẩm phán Tòa án cấp tỉnh, Hội đồng giám đốc thẩm Tòa hành chính Tòa án
nhân dân tối cao hoặc Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao biểu quyết
tán thành thì phải hoãn phiên toà. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày ra quyết
định hoãn phiên tòa, Ủy ban Thẩm phán Tòa án cấp tỉnh, Hội đồng giám đốc
thẩm Tòa hành chính Tòa án nhân dân tối cao, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân
Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng hành chính
GVHD: Th.s Diệp Thành Nguyên Trang 31 SVTH: Trần Mộng Nghi
dân tối cao phải tiến hành xét xử lại với sự tham gia của toàn thể các thành
viên.27
2.1.7. Quyết định giám đốc thẩm
Quyết định kháng nghị là một văn bản có giá trị pháp lý, là kết quả của thủ
tục giám đốc thẩm được thi hành và được cá nhân, cơ quan, tổ chức tôn trọng.
Quyết định này được gửi đến các chủ thể có liên quan (Viện kiểm sát, Tòa án ra
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị, bị hủy, các đương sự
có liên trong vụ án…). Đồng thời trong quyết định cũng ghi rõ ngày tháng xét lại
vụ án, sự tham gia của các bên, quyết định của hội đồng giám đốc thẩm về vụ án
và hiệu lực pháp luật của quyết định.
Hội đồng giám đốc thẩm ra quyết định giám đốc thẩm nhân danh nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Quyết định giám đốc thẩm phải có các nội
dung sau đây: Ngày, tháng, năm và địa điểm mở phiên tòa; Họ, tên các thành
viên Hội đồng giám đốc thẩm. Trường hợp Hội đồng giám đốc thẩm là Ủy ban
Thẩm phán Tòa án cấp tỉnh hoặc Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
thì ghi họ, tên, chức vụ của Chủ toạ phiên tòa và số lượng thành viên tham gia
xét xử; Họ, tên Thư ký Tòa án, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa; Tên vụ án mà
Hội đồng đưa ra xét xử giám đốc thẩm; Tên, địa chỉ của các đương sự trong vụ
án; Tóm tắt nội dung vụ án, phần quyết định của bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật bị kháng nghị; Quyết định kháng nghị, lý do kháng nghị; Nhận định
của Hội đồng giám đốc thẩm trong đó phải phân tích những căn cứ để chấp nhận
hoặc không chấp nhận kháng nghị; Điểm, khoản, điều của Luật tố tụng hành
chính mà Hội đồng giám đốc thẩm căn cứ để ra quyết định; Quyết định của Hội
đồng giám đốc thẩm.28
27 Điều 223 Luật tố tụng hành chính năm 2010
28 Điều 229 Luật tố tụng hành chính năm 2010
Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng hành chính
GVHD: Th.s Diệp Thành Nguyên Trang 32 SVTH: Trần Mộng Nghi
2.2. Thủ tục tái thẩm
2.2.1. Căn cứ tái thẩm
Cũng như thủ tục giám đốc thẩm, căn cứ tái thẩm là những cơ sở để một bản
án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án được xét lại theo thủ tục tái thẩm
đồng thời kèm theo một số điều kiện cơ bản (chủ thể có thẩm quyền kháng nghị,
còn thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái thẩm…)
Theo Luật tố tụng hành chính một bản án có hiệu lực pháp luật được kháng
nghị theo thủ tục tái thẩm khi có một trong những căn cứ sau:
Căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm
Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo
thủ tục tái thẩm khi có một trong những căn cứ sau đây:
Mới phát hiện được tình tiết quan trọng của vụ án mà Tòa án, đương sự đã
không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ án; Có cơ sở chứng minh kết
luận của người giám định, lời dịch của người phiên dịch không đúng sự thật hoặc
có giả mạo chứng cứ; Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên cố ý làm sai
lệch hồ sơ vụ án hoặc cố ý kết luận trái pháp luật; Bản án, quyết định của Tòa án
hoặc quyết định của cơ quan nhà nước mà Tòa án căn cứ vào đó để giải quyết vụ
án đã bị hủy bỏ.29
Khi cá nhân, cơ quan, tổ chức phát hiện được những tình tiết mới trong vụ
án thì báo cho cơ quan có thẩm quyền tái thẩm biết. Những tình tiết mới này phải
làm thay đổi cơ bản nội dung vụ án mà trong quá trình ra những bản án, quyết đó
các cơ quan có thẩm quyền không biết được những tình tiết đó khi giải quyết vụ
án (một cách khách quan). Những tình tiết này có thể là thu thập được chứng cứ
mới có liên quan đến vụ án, mức độ nghiêm trọng hơn so với sự giám định ban
đầu mà hội đồng giám định đã đưa ra…Bên cạnh đó, có kết luận cho rằng kết
luận của người giám định, lời dịch của người phiên dịch không đúng sự thật hoặc
có giả mạo chứng cứ nếu những tình tiết đó được chứng minh có cơ sở như
29 Điều 233 Luật tố tụng hành chính năm 2010
Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng hành chính
GVHD: Th.s Diệp Thành Nguyên Trang 33 SVTH: Trần Mộng Nghi
những tài liệu có liên quan, những bằng chứng cho rằng những người tham gia tố
tụng đó đã kết luận một cách gian dối, bằng chứng cho thấy sự giả mạo trong vụ
án dẫn đến việc Tòa án đã đưa ra bản án, quyết định không đúng.
Theo Khoản 3 Điều 223 thì bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của
Tòa án cũng được xét lại theo thủ tục tái thẩm khi có căn cứ chứng minh rằng
Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án hoặc
cố ý kết luận trái pháp luật. Đây là những yếu tố chủ quan phụ thuộc vào ý chí
của cơ quan tiến hành tố tụng do những nguyên nhân nhất định đã cố ý làm cho
bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án sai trái ảnh hưởng nghiêm
trọng đến quá trình tố tụng.
Và khi bản án, quyết định của Tòa án hoặc quyết định của cơ quan nhà
nước mà Tòa án căn cứ vào đó để giải quyết vụ án đã bị hủy bỏ thì bản án, quyết
định của Tòa án có hiệu lực cũng sẽ được xét lại theo thủ tục tái thẩm.
2.2.2 Phạm vi tái thẩm
Tùy vào nội dung kháng nghị thì bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật
của Tòa án có thể bị kháng nghị một phần vụ án hoặc toàn bộ vụ án. Tuy nhiên,
tùy vào từng trường hợp cụ thể thì hội đồng giám đốc thẩm cũng phải xem xét
trên cơ sở toàn bộ nội dung vụ án để có thể đưa ra những quyết định đúng đắn,
đúng pháp luật phù hợp với những tình huống khách quan khác nhau.
2.2.3. Thời hạn kháng nghị tái thẩm
So với thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm thì thời hạn tái thẩm ngắn hơn
(giám đốc thẩm 02 năm) trong khi thời hạn tái thẩm chỉ một năm (01 năm), kể từ
ngày người có quyền kháng nghị biết được căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái
thẩm quy định tại Điều 233 của Luật tố tụng hành chính. Điều kiện kháng nghị
và thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái thẩm bị hạn chế hơn so với thủ tục giám
đốc thẩm. Theo khoản 2 Điều 215 thì thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm sẽ
không phụ thuộc vào thời hạn kháng nghị trong cùng điều luật đó nếu trước đó đã
có đơn kháng nghị của đương sự nhưng không biết được thẩm quyền kháng nghị
Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng hành chính
GVHD: Th.s Diệp Thành Nguyên Trang 34 SVTH: Trần Mộng Nghi
của mình đồng thời đương sự phải chứng minh khi có yêu cầu. Nhưng thời hạn
kháng nghị của thủ tục tái thẩm thì hạn chế hơn không quy định trường hợp
đương sự vẫn có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm nếu trước đó đã có đơn
kháng nghị. Lúc này quyền kháng nghị của các chủ thể theo thủ tục tái thẩm đã
bị hạn chế.
Luật tố tụng hành chính quy định thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái thẩm
như sau:
Thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái thẩm là 01 năm, kể từ ngày người có
quyền kháng nghị biết được căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm quy định
tại Điều 233 của Luật này.30
2.2.4. Thẩm quyền kháng nghị tái thẩm
Những người sau đây có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm theo Luật
tố tụng hành chính gồm:
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật của Tòa án các cấp, trừ quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao. Chánh án Tòa án cấp tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát cấp tỉnh
có quyền kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp
huyện. Người đã kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có
quyền quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định đó cho đến khi có
quyết định tái thẩm.31
Theo quy định của điều luật thì Chánh án Tòa án cấp tỉnh, Viện trưởng Viện
kiểm sát cấp tỉnh có quyền kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật của Tòa án cấp huyện, và Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án các cấp gồm quyết định kháng
30 Điều 236 Luật tố tụng hành chính năm 2010
31 Điều 235 Luật tố tụng hành chính năm 2010
Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng hành chính
GVHD: Th.s Diệp Thành Nguyên Trang 35 SVTH: Trần Mộng Nghi
nghị của Tòa án nhân dân huyện và kháng nghị Tòa án nhân dân tỉnh, trừ quyết
định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Trong dự thảo Luật tố tụng hành chính đã có nhiều ý kiến trái ngược nhau
về vấn đề có nên hay không bỏ quy định không được kháng nghị giám đốc thẩm,
tái thẩm về quyết định của Hội đồng thẩm phán của Tòa án nhân dân tối cao. Tất
nhiên, các thành viên trong hội đồng giám đốc thẩm là những người có chuyên
môn cao, có kinh nghiệm xét xử nhiều năm nhưng không thể chắc chắn rằng
quyết định của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao lúc nào cũng đúng
mà không tồn tại những sai sót nhất định. Tuy nhiên nếu các quyết định của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cũng bị kháng nghị theo thủ tục giám
đốc thẩm, tái thẩm thì cơ quan tiếp theo có thẩm quyền xét xử là cơ quan nào đó
là chưa kể đến việc những vụ án bị kháng nghị quá nhiều dẫn đến tình trạng quá
tải. Vậy thì việc xét xử sẽ kéo dài đến bao giờ mới kết thúc một vụ án? Vì thế
luật đã quy định không được kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối
với quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao mặc dù không
phải lúc nào những quyết định đó cũng luôn đúng. Có thể pháp luật trong trường
hợp này chỉ mang tính tương đối.
2.2.5. Chủ thể tham gia tái thẩm
Thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm có một số nét tương đồng về thủ tục tố
tụng nên Luật tố tụng hành chính đã quy định nếu các quy định về thủ tục tái
thẩm mà luật không quy định thì có thể dựa vào quy định của thủ tục giám đốc
thẩm theo Điều 238. Áp dụng các quy định của thủ tục giám đốc thẩm như sau:
Các quy định khác về thủ tục tái thẩm được thực hiện như các quy định về
thủ tục giám đốc thẩm trong Luật này.32
Trong trường hợp những chủ thể tham gia tái thẩm trong tố tụng hành chính
mà luật không đề cập thì có thể áp dụng giống như thủ tục giám đốc thẩm. Quy
32 Điều 238 Luật tố tụng hành chính năm 2010
Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng hành chính
GVHD: Th.s Diệp Thành Nguyên Trang 36 SVTH: Trần Mộng Nghi
định này vừa rút gọn được các quy định của điều luật theo cách tham chiếu mà
còn tránh được trường hợp điều luật bị lặp lại.
Phiên toà giám đốc thẩm phải có sự tham gia của Viện kiểm sát cùng cấp.
Khi xét thấy cần thiết, Tòa án triệu tập những người tham gia tố tụng và những
người khác có liên quan đến việc kháng nghị tham gia phiên tòa giám đốc thẩm.
2.2.6 . Thông báo và xác minh những tình tiết mới được phát hiện
Thông báo và xác minh những tình tiết mới được phát hiện theo thủ tục tái
thẩm được quy định như sau:
Đương sự hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức khác khi phát hiện tình tiết mới
của vụ án thì có quyền đề nghị bằng văn bản với người có quyền kháng nghị quy
định tại Điều 235 của Luật này để xem xét kháng nghị theo thủ tục tái thẩm;
Trường hợp phát hiện tình tiết mới của vụ án, Viện kiểm sát, Tòa án phải thông
báo bằng văn bản cho những người có quyền kháng nghị quy định tại Điều 235
của Luật này.33
Đương sự hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức hoặc Viện kiểm sát, Tòa án phát
hiện tình tiết mới thì phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan có thẩm quyền
kháng nghị tái thẩm biết được những tình tiết mới đó dựa vào những căn cứ tại
Điều 235 của Luật tố tụng hành chính để được các chủ thể có thẩm quyền kháng
nghị đảm bảo thời hạn và đúng quy định của pháp luật. Những tình tiết này phải
làm thay đổi một cách cơ bản nội dung của vụ án đồng thời những chứng cứ, tình
tiết mới đó được các cơ quan chức năng đánh giá, xem xét lại về tính khách quan,
bằng chứng có phù hợp với những tình tiết vụ án đó… Nếu không có căn cứ theo
Điều 235 của Luật tố tụng hành chính thì Viện trưởng Viện kiểm sát trả lời cho
cơ quan tổ chức hoặc người đã phát hiện biết rõ lý do của việc không kháng nghị.
2.2.7. Phiên tòa tái thẩm
Phiên tòa tái thẩm cũng diễn ra giống như phiên tòa giám đốc thẩm theo quy
định của pháp luật về tố tụng hành chính về thủ tục xét lại bản án, quyết định đã
33 Điều 234 Luật tố tụng hành chính năm 2010
Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng hành chính
GVHD: Th.s Diệp Thành Nguyên Trang 37 SVTH: Trần Mộng Nghi
có hiệu lực pháp luật theo thủ tục tái thẩm chiếu theo Điều 248 Luật tố tụng hành
chính. Trong phiên Tòa những tình tiết mới được phát hiện trong vụ án sẽ được
đánh giá một cách khách quan đồng thời các chủ thể sẽ tham gia phát biểu ý kiến
về quyết định kháng nghị theo thủ tục tái thẩm.
2.2.8. Quyết định tái thẩm
Theo Điều 229 Luật tố tụng hành chính thì quyết định tái thẩm có giá trị
pháp luật được các chủ thể có liên quan nghiêm túc chấp hành và được xã hội tôn
trọng, được đảm bảo thực hiện. Đồng thời gửi cho các chủ thể có liên quan biết
được kết quả xét lại bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án trong
vòng 30 ngày kể từ ngày ra quyết định tái thẩm.
Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng hành chính
GVHD: Th.s Diệp Thành Nguyên Trang 38 SVTH: Trần Mộng Nghi
CHƯƠNG 3:
THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM TRONG
TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH
3.1 Thực tiễn áp dụng thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng hành
chính ở Việt Nam.
Một bản án, quyết định được xem là có hiệu lực pháp luật khi hết thời hạn
kháng cáo, kháng nghị mà các chủ thể có quyền không thực hiện quyền kháng
cáo hoặc kháng nghị.
Tuy nhiên, nhận định này có vẻ không phù hợp đối với trường hợp bản án,
quyết định của Tòa án đã có hiệu lực bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
hoặc tái thẩm. Bản chất của thủ tục đặc biệt này là xét lại những bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nếu có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố
tụng (giám đốc thẩm) hoặc vụ án xuất hiện tình tiết mới làm thay đổi nội dung cơ
bản của vụ án (tái thẩm). Một vụ án được xét xử công bằng, nghiêm minh đúng
pháp luật là trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng đồng thời cũng là mong
muốn của các đương sự trong vụ án.
Giám đốc thẩm và tái thẩm là một giai đoạn đặc biệt trong tố tụng hành
chính. Quy định giai đoạn này là nhằm bảo đảm quyền khiếu nại của đương sự và
đặt trách nhiệm cho công tác giám đốc của Tòa hành chính cấp trên đối với Tòa
hành chính cấp dưới, công tác kiểm sát việc xét xử của Viện kiểm sát nhân dân
với Tòa hành chính.
Việc xem xét bản án, quyết định của Tòa hành chính đã có hiệu lực pháp
luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm phải được thực hiện một cách chặt chẽ,
đúng thời hạn luật định.
Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng hành chính
GVHD: Th.s Diệp Thành Nguyên Trang 39 SVTH: Trần Mộng Nghi
Tuy nhiên sự công bằng của pháp luật là tương đối. Có những vụ án đã tìm
ra đúng người, đúng tội nhưng cũng không ít trường hợp có nhiều sai sót trong
quá trình giải quyết vụ án gây ra oan sai.
Hằng năm, Tòa án nhận hàng trăm thậm chí hàng ngàn quyết định kháng
nghị giám đốc thẩm, tái thẩm. Ngoài những bản án, quyết định có hiệu lực pháp
luật của Tòa án cần được xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm được cho là
có sai sót, có vấn đề thì cũng không thể phủ nhận rằng tình trạng giám đốc thẩm,
tái thẩm đang bị lạm dụng. Pháp luật đã trao quyền cho các chủ thể thực hiện
quyền kháng nghị các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án để
quyền lợi của họ được bảo vệ. Tuy nhiên tình trạng lạm dụng kháng nghị vô hình
chung đã tạo nên tình trạng quá tải đối với Tòa án. Kháng nghị giám đốc thẩm,
tái thẩm không những tốn tiền bạc, thời gian của đương sự và cơ quan tiến hành
tố tụng mà còn tạo gánh nặng cho Tòa án trong việc xem xét án bị kháng nghị.
Các vụ án sẽ bị chất chồng, gánh nặng của Tòa án là rất lớn.
Giám đốc thẩm là một chế định quan trọng trong đó vai trò của cơ quan tiến
hành tố tụng là rất quan trọng. Một bản án được xét xử đúng người, đúng tội sẽ
làm cho người dân tin hơn vào pháp luật, tin vào công bằng xã hội. Thế nhưng,
xét về mặt thực tiễn trường hợp lỗi thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng cũng
không ít. Có trường hợp cơ quan có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm như
Viện kiểm sát ra quyết định kháng nghị giám đốc thẩm nhưng sau đó lại hủy
kháng nghị. Với hành động trước sau bất nhất như vậy đã làm cho các đương sự
“lao đao”, “khó đứng khôn ngồi”. Điển hình là trường hợp của Ông NTR, ngụ
huyện Thanh Trì (TP Hà Nội), từng mừng hụt khi vụ việc của mình được Viện
kiểm sát nhân dân để mắt tới. 34
Năm 2007, ông R. khởi kiện hành chính Uỷ ban nhân dân TP Hà Nội vì cho
rằng cơ quan này cấp giấy đỏ mảnh đất của ông cho người khác. Tháng 2-2008,
34 Xem them tại:
tham-bai-2-128/
Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng hành chính
GVHD: Th.s Diệp Thành Nguyên Trang 40 SVTH: Trần Mộng Nghi
Tòa án nhân dân TP Hà Nội xử sơ thẩm bác đơn kiện của ông. Không lâu sau đó
Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân Tối cao tại Hà Nội cũng y án.
Tháng 12-2009, Viện kiểm sát nhân dân tối cao ra quyết định kháng nghị
giám đốc thẩm, đề nghị Tòa án nhân dân tối cao hủy cả hai bản án sơ, phúc thẩm.
Ông R. chưa kịp mừng, gần sáu tháng sau, Viện kiểm sát nhân dân tối cao lại bất
ngờ rút quyết định kháng nghị giám đốc thẩm đã ban hành với lý do: “Không cần
thiết phải kháng nghị”.
Trong trường hợp này, cùng một cơ quan Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã
ra quyết định kháng nghị ra rồi cũng chính Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết
định hủy kháng nghị. Viện kiểm sát nhân dân tối cao cần xác định rõ ràng trường
hợp của ông R đã đủ các điều kiện để kháng nghị bản án, quyết định có hiệu lực
pháp luật của Tòa án như căn cứ kháng nghị, thời hạn kháng nghị bản án... để
giải quyết một cách nhanh chóng, rõ ràng đồng thời tuân theo các quy định của
pháp luật. Sự răn đe của pháp luật, sự công bằng xã hội là một tấm gương để cho
mọi người tuân theo nhưng trường hợp này lòng tin của người dân vào pháp luật
liệu có còn.
Cũng như trường hợp của ông R, trường hợp của bà Rào cũng khiến dư luận
quan tâm và có nhiều bức xúc. Thời gian qua, Pháp luật Việt Nam đã phản ánh
về vụ kiện hành chính của cụ Ngô Thị Rào (74 tuổi- tiểu khu Quốc Bảo, Thị trấn
Văn Điển, Thanh Trì, Hà Nội) đối với Uỷ ban nhân dân TP Hà Nội trong việc
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở cho người khác tại thửa đất mà gia
đình cụ sử dụng từ năm 1957. Án sơ thẩm và phúc thẩm đều bác đơn khởi kiện
của cụ Rào, giữ nguyên quyết định bị kiện. Tuy nhiên, ngày 24/12/2009, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao có quyết định kháng nghị giám đốc thẩm, đề nghị Tòa
án nhân dân tối cao huỷ bản án hành chính phúc thẩm của Tòa án nhân dân tối
cao tại Hà Nội và bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân TP Hà Nội.
Thế nhưng, gần 6 tháng sau, ở thời điểm gần hết thời hạn kháng nghị giám
đốc thẩm, Viện kiểm sát nhân dân tối cao lại ra một quyết định khác để “rút
quyết định kháng nghị” với lý do “thấy không cần thiết phải kháng nghị đối với
Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng hành chính
GVHD: Th.s Diệp Thành Nguyên Trang 41 SVTH: Trần Mộng Nghi
bản án phúc thẩm hành chính nêu trên”. Quyết định này có nội dung trái ngược
với quyết định kháng nghị nhưng lại không hề đưa ra các chứng cứ, nhận định để
phủ nhận quan điểm trước đó khiến dư luận nghi ngờ việc rút kháng nghị này có
vấn đề.35
Trường hợp này lý do “không cần thiết” của Viện kiểm sát nhân dân tối cao
không rõ ràng vì vậy đã khiến dư luận nghi ngờ nên chăng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao nên giải thích như thế nào là rõ ràng ? Với nguyên tắc một yêu cầu
của công dân không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền từ chối giải quyết thì
cơ quan đó phải giải thích một cách rõ ràng lý do không giải quyết đồng thời
cũng phải đưa ra nguyên nhân và những căn cứ thuyết phục tại sao cơ quan đó từ
chối giải quyết.
Trước khi Luật tố tụng hành chính năm 2010 ra đời, để giải quyết một vụ án
hành chính hoặc các quan hệ phát sinh trong quá trình giải quyết một vụ án hành
chính thì được thực hiện theo Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính
năm 1996. Pháp lệnh này ra đời đã đáp ứng được những đòi hỏi cần thiết mà
nhiều người còn cho rằng nó nên có từ rất lâu để giải quyết các quan hệ hành
chính phát sinh. Tuy nhiên, sau một thời gian áp dụng thực tiễn cùng nhiều quan
hệ mới phát sinh thì pháp lệnh tỏ ra kém hiệu quả. Nhiều quan hệ hành chính
phát sinh mà pháp lệnh không quy định rõ trong đó cũng phải kể đến thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm. Trong pháp lệnh quy định về thủ tục giám đốc thẩm tái
thẩm rất ít, nhiều điểm chưa quy định cụ thể, rõ ràng nên việc áp dụng gặp nhiều
khó khăn là điều không thể tránh khỏi. Chính vì thế pháp lệnh đã qua hai lần sửa
đổi vào năm 1998 và 2006 để phù hợp hơn với tình hình thực tiễn. Tuy nhiên cột
mốc đáng chú ý trong quan hệ tố tụng hành chính là sự ra đời của Luật tố tụng
hành chính được Quốc hội thông qua ngày 24/11/2010 và chính thức có hiệu lực
vào ngày 01/7/2011. Sự ra đời của Luật tố tụng hành chính đã kịp thời giải quyết
những khó khăn vướng mắc phát sinh, bên cạnh đó Luật cũng lược bỏ bớt những
35 Xem them tại :
chinh-co-hieu-luc-Ngam-ngui-quy-dinh-moi-ve-thoi-han-giam-doc-tham-an-hanh-chinh
Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng hành chính
GVHD: Th.s Diệp Thành Nguyên Trang 42 SVTH: Trần Mộng Nghi
thủ tục không cần thiết để việc giải quyết vụ án được nhanh gọn hơn, kịp thời
hơn đồng thời giúp người dân tin hơn vào pháp luật. Các thủ tục về giám đốc
thẩm, tái thẩm cũng được quy định một cách cụ thể, rõ ràng hơn về thủ tục giám
đốc thẩm, tái thẩm nói riêng cũng như các thủ tục khác trong tố tụng hành chính
nói chung. Luật tố tụng hành chính ra đời giúp người dân yên tâm và tin tưởng
hơn vào pháp luật.
Thời gian qua, Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án nhân dân cấp tỉnh đã
tiếp nhận hơn 10.000 đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm. Đã xem xét, giải
quyết được gần 50% số đơn trên, trong đó đã kháng nghị 1.096 vụ do có vi phạm
pháp luật về thủ tục tố tụng, thiếu chứng cứ hoặc đánh giá sai chứng cứ dẫn tới
việc giải quyết vụ án không đúng pháp luật.
Chất lượng giải quyết đơn, kháng nghị và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm
được nâng lên rõ rệt, hạn chế thấp nhất những trường hợp trả lời không có căn cứ
kháng nghị nhưng sau đó Tòa án nhân dân tối cao hoặc Viện kiểm sát nhân dân
tối cao lại kháng nghị để giải quyết vụ án theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm
(so với cùng kỳ năm trước giảm 23 vụ). Hầu hết các kháng nghị của Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao và Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh đều được Hội
đồng xét xử giám đốc thẩm chấp nhận.36
Thực tiễn trên đã cho thấy tình trạng kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm
diễn ra càng nhiều áp lực của Tòa án nhân dân tối cao là rất lớn tuy nhiên cơ
quan này cũng hoạt động chưa thực sự tích cực khi các án chưa giải quyết còn
tồn đọng rất nhiều. Tất nhiên, con số này sẽ bị đẩy về phần việc của các năm tiếp
theo. Trong khi thời hiệu kháng nghị của một vụ án là có hạn và việc không thể
giải quyết kịp thời sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của các bên đương sự.
Thực tế đã có nhiều vụ án bị để quá thời hiệu, sau đó Tòa án nhân dân tối
cao mới ra kháng nghị, theo cách giải thích của người đứng đầu ngành Tòa án thì
36 Xem têm tại :
giam-doc-tham-tai-tham
Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng hành chính
GVHD: Th.s Diệp Thành Nguyên Trang 43 SVTH: Trần Mộng Nghi
việc này là bảo đảm cho quyền lợi hợp pháp của người dân sau khi đã hết thời
hiệu mà cơ quan pháp luật phát hiện các tình tiết mới.
Luật tố tụng hành chính ra đời đã tạo một cơ chế pháp lý thông thoáng,
vững chắc tuy nhiên để đào tạo nguồn nhân lực có chuyên môn cao thì vẫn còn là
vấn đề khó khăn. Để hoàn thiện vấn đề này là một quá trình lâu dài để những
người đại diện cho pháp luật có thể cầm cân nảy mực một cách công bằng và
khách quan hơn.
Liên quan tới vấn đề này người viết xin đưa ra vụ án về đất đai của ông
Đoàn Văn Vươn ở Tiên Lãng, Hải Phòng. Vụ án mà thời gian qua được cả nước
quan tâm trong đó có hơn 50 cán bộ và 25 tổ chức bị kiểm điểm, kỷ luật do
những sai phạm (trong đó có các cá nhân thuộc Tòa án những người am hiểu về
pháp luật) còn riêng về phần đương sự thì phải sống trong cảnh “màn trời chiếu
đất” do nhà cửa bị cưỡng chế.
Năm 1993, gia đình ông Đoàn Văn Vươn được Uỷ ban nhân dân huyện
Tiên Lãng giao sử dụng 21 ha đất bãi bồi để nuôi trồng thủy sản, thời hạn 14
năm. Năm 1997, ông Vươn được giao bổ sung 19, 3 ha (do lấn chiếm) cũng với
thời hạn này nhưng tính từ 1993. Từ năm 2005, huyện Tiên Lãng đã tiến hành
thủ tục thu hồi toàn bộ 40,3 ha đất đã giao cho ông Vươn.
Sau đó khi gần hết thời hạn giao đất (14 năm), ngày 5/6/2007, ông Vươn có
đơn gửi cơ quan chức năng xin tiếp tục được giao lại đất nuôi trồng thủy sản. Tuy
nhiên, Uỷ ban nhân dân huyện Tiên Lãng đã ra thông báo gửi hộ ông Vươn về
việc dừng đầu tư sản xuất, nuôi trồng trên diện tích 21 ha được giao để Nhà nước
quản lý. Tiếp đó, cơ quan này tiếp tục "đòi" 19,3 ha đất ông Vươn lấn chiếm.
Ông Vươn đã khởi kiện vụ án hành chính với lý do 19,3 ha trên là thuộc đất
nông nghiệp đã Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng phê duyệt quy hoạch; đất
bị thu hồi chưa hết hạn sử dụng và nếu hết thời hạn thì được tiếp tục được giao
hoặc cho thuê...
Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng hành chính
GVHD: Th.s Diệp Thành Nguyên Trang 44 SVTH: Trần Mộng Nghi
Sau khi bị Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Tiên Lãng bác bỏ khiếu nại,
ông Vươn đã khởi kiện ra Tòa án nhân dân huyện nhưng bản án sơ thẩm vẫn giữ
nguyên quyết định thu hồi đất. Không đồng tình, ông Vươn làm đơn kháng cáo
lên Tòa án nhân dân TP Hải Phòng. Sau khi có cuộc làm việc, thỏa thuận giữa
đại diện Uỷ ban nhân dân huyện và ông Vươn (có sự chứng kiến của thẩm phán
Tòa án nhân dân Hải Phòng), ông Vươn đã rút đơn kháng cáo và Tòa án nhân
dân Hải Phòng đã ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính này.
Tuy nhiên, sau đó, Uỷ ban nhân dân huyện đã tiếp tục tiến hành thu hồi,
cưỡng chế đất của gia đình ông Vươn dẫn đến vụ nổ súng ngày 5/1.
Ngày 10/2, Thủ tướng đã có kết luận về vụ việc. Theo đó, quyết định thứ
nhất giao 21 ha đất là đúng, nhưng quyết định thứ hai giao thêm 19,3 ha (thời hạn
14 năm) là chưa đúng với quy định Luật đất đai. Quyết định thu hồi đất của ông
Vươn với lý do hết thời hạn sử dụng cũng trái luật, dẫn tới quyết định cưỡng chế
thu hồi đất cũng không đúng pháp luật. Mặt khác, việc tổ chức cưỡng chế thu hồi
đất của Uỷ ban nhân dân huyện Tiên Lãng cũng có nhiều sai phạm như không
xác định ranh giới, kiểm kê tài sản...
Với những sai trái này vào ngày 13/2, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã
ra quyết định kháng nghị theo thủ tục tái thẩm, đề nghị hủy quyết định đình chỉ
xét xử phúc thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng và bản án hành
chính sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Tiên Lãng về vụ án trên để giải quyết
lại từ đầu theo trình tự của pháp luật.37
Căn cứ để ban hành quyết định kháng nghị tái thẩm của chánh án Tòa án
nhân dân tối cao là do bản án sơ thẩm "chưa có đủ căn cứ, không đúng thẩm
quyền, không đúng quy định" và quyết định đình chỉ xét xử của tòa cấp phúc
thẩm "vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng".
Trong trường hợp vụ cưỡng chế đầm tôm của gia đình ông Đoàn Văn Vươn
ở huyện Tiên Lãng (thành phố Hải Phòng), cơ quan tố tụng đã vi phạm nghiêm
37 Xem them tại :
lang/
Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng hành chính
GVHD: Th.s Diệp Thành Nguyên Trang 45 SVTH: Trần Mộng Nghi
trọng hai trường hợp: quá trình xét xử của Tòa án vi phạm nghiêm trọng thủ tục
về xét xử bản án và vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng , kết luận của bản án
không phù hợp và có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luận nên việc
Tòa án nhân dân tối cao ra kháng nghị hủy đình chỉ phúc thẩm là hoàn toàn chính
xác.
Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm chưa xem xét đầy đủ
các quy định của pháp luật và tham khảo ý kiến của các cơ quan chuyên môn về
lĩnh vực quản lý đất đai để kết luận về tính hợp pháp của quyết định hành chính
bị khiếu kiện; chưa xem xét đến việc bồi thường thiệt hại khi nhà nước thu hồi
đất, kể cả trong trường hợp thu hồi đất đúng pháp luật là thiếu toàn diện trong
việc nhận định vụ án.
Ủy ban nhân dân huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng đã có những sai
phạm trong giao đất, thu hồi đất, cưỡng chế thu hồi đất đã giao cho ông Đoàn
Văn Vươn trong việc giao đất, thu hồi đất, cưỡng chế thu hồi đất và phá dỡ nhà
của ông Đoàn Văn Vươn. Ngoài ra, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng chưa
tạo điều kiện cho ông Vươn và Uỷ ban nhân dân huyện Tiên Lãng thỏa thuận
theo đúng quy định của pháp luật tố tụng.
Trình độ, năng lực cán bộ quản lý đất đai, nhất là ở cơ sở còn nhiều hạn chế
trong khi đất đai đang biến động rất nhanh, văn bản pháp luật về đất đai lại rất
nhiều và phức tạp, nên công tác quản lý đất đai trong cả nước còn nhiều bất cập.
Trên thực tế chúng ta có thể thấy rằng những tình tiết pháp lý oái ăm đã xảy
ra từ hai năm nay nhưng chỉ sau khi Thủ tướng lên tiếng thì quy trình kháng nghị
mới vào cuộc lanh lẹ một cách lạ thường. Ngoài hệ thống xét xử hai cấp, cơ chế
kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm nhằm giúp xét lại bản án để tránh oan, sai.
Quy trình này làm hết phận sự và hoạt động một cách chưa thực sự tích cực.
Theo quy định, bất kỳ cá nhân, tổ chức nào cũng có quyền kiến nghị để Tòa
án xem xét việc kháng nghị khi nhận thấy bản án có sai sót, vi phạm. Tuy nhiên,
dù kiến nghị của ai đi nữa thì Tòa án cũng phải tuân thủ nguyên tắc xét xử độc
Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng hành chính
GVHD: Th.s Diệp Thành Nguyên Trang 46 SVTH: Trần Mộng Nghi
lập và chỉ tuân theo pháp luật. Nghĩa là khi xét xử Tòa án phải căn cứ trên cơ sở
pháp luật, không bị ràng buộc bởi tác động của bất kỳ cá nhân hay cơ quan nào
khác.
Và điều quan trọng hơn, người dân chờ đợi một hệ thống tư pháp hành
động, đủ khả năng bảo vệ công lý, chứ không phải một hệ thống tư pháp chỉ ra
tay khi có kiến nghị từ cấp lãnh đạo nào đó.
3.2 Giải pháp hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng
hành chính
Trong quá trình nghiên cứu đề tài đồng thời tìm hiểu thêm qua sách báo
người viết nhận thấy trong quá trình áp dụng thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đã
tồn tại một số vướng mắc sau đây:
- Quyết định của Hội đồng thẩm phán sai không ai có quyền kháng nghị.
Thực tế thời gian qua có trường hợp quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có sai lầm nghiêm trọng nhưng không có cơ
chế để giải quyết lại, đương sự và dư luận xã hội rất bức xúc, khiếu nại gay gắt,
kéo dài bởi theo quy định của pháp luật hiện hành, Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao là cơ quan có thẩm quyền cao nhất trong việc xét lại một bản án,
quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án theo thủ tục giám đốc thẩm nên
không ai có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm quyết định của Hội đồng
Thẩm phán. Mặc dù luật đã đưa vào các điều 228, 229, 237, 238, 239 về việc
xem xét lại quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao nhưng vấn đề này vẫn chưa thực sự thuyết phục trên thực tế.
Theo đó điều luật cho phép Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao được
xem xét lại quyết định của mình khi có kiến nghị của Chánh án Tòa án nhân dân
tối cao hoặc của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, theo yêu cầu của
Ủy ban thường vụ Quốc hội, theo kiến nghị của Ủy ban tư pháp của Quốc hội.
Ngoài ra, khoản 3 Điều 228 quy định kiến nghị của Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải được ít nhất
Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng hành chính
GVHD: Th.s Diệp Thành Nguyên Trang 47 SVTH: Trần Mộng Nghi
2/3 tổng số thành viên Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đồng ý thì
quyết định giám đốc thẩm mới được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao xem xét lại. Điều 229 quy định khi kiến nghị của Chánh án Tòa án nhân dân
tối cao hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao được Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao quyết định xem xét lại thì Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao có trách nhiệm tổ chức việc nghiên cứu hồ sơ vụ án, xác minh thu
thập tài liệu, chứng cứ, hoàn thiện tờ trình báo cáo Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày có quyết định của Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Phiên họp của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có sự tham dự
của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
Trong trường hợp xét thấy cần thiết, Tòa án Nhân dân tối cao có thể mời cá nhân,
cơ quan, tổ chức có liên quan đến tham dự phiên họp. Quyết định của Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao phải được ít nhất 3/4 tổng số thành viên của
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao biểu quyết tán thành.
- Những người ra quyết định kháng nghị giám đốc thẩm hay xử giám đốc
thẩm sai lại không bị bất cứ hình thức chế tài nào là không công bằng. Pháp luật
tố tụng nên có quy định về việc này để đảm bảo người làm sai phải chịu trách
nhiệm về cái sai của mình. Chế tài càng cụ thể thì người có thẩm quyền càng
phải nâng cao trách nhiệm, cẩn trọng xem xét kỹ, tránh được những trường hợp
kháng nghị thiếu căn cứ thuyết phục. Chế tài này không chỉ mang tính kỷ luật nội
bộ của ngành, thậm chí người kháng nghị thiếu căn cứ cũng phải bị xem xét về
nghĩa vụ bồi thường cho đương sự bị thiệt hại.
Để khắc phục những vướng mắc và khó khăn trong quá trình áp dụng thủ
tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng hành chính là cả một quá trình lâu dài
và là một sự nghiệp lớn trong hệ thống tư pháp. Đây không phải là công việc môt
sớm một chiều bởi nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố cả khách quan và chủ quan.
Bằng sự hiểu biết và học hỏi của mình người viết xin đưa ra một số giải pháp
nhằm hoàn thiện vấn đề này.
Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng hành chính
GVHD: Th.s Diệp Thành Nguyên Trang 48 SVTH: Trần Mộng Nghi
Về pháp luật:
Một là, mở rộng phạm vi giám đốc thẩm: Căn cứ theo Điều 224 Luật tố
tụng hành chính năm 2010 thì Hội đồng giám đốc thẩm chỉ xem xét phần bản án,
quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án bị kháng nghị hoặc chỉ xem xét khi
có liên quan đến lợi ích của người thứ ba. Theo người viết thì khi có kháng nghị
giám đốc thẩm hoặc tái thẩm một vụ án hành chính thì hội đồng giám đốc thẩm,
tái thẩm nên xem xét trên cơ sở toàn bộ vụ án.
Theo suy nghĩ của người viết trong cùng một vụ án có những giai đoạn tố
tụng gắn liền và có liên hệ mật thiết với nhau. Khi nhìn nhận vấn đề cần gắn kết
các giai đoạn trong một mối dây liên hệ để có thể nhận xét, đánh giá vấn đề một
cách chính xác và đầy đủ hơn. Nếu chỉ nhìn nhận, xem xét vấn đề ở một giai
đoạn tố tụng nhất định mà bỏ qua những tình tiết hoặc sự kiện có liên quan thì
thật là thiếu sót. Ngoài ra, nếu trong cùng một vụ án mà chỉ xem xét những phần
bị kháng nghị thì một vụ án có thể bị kháng nghị nhiều lần ở những phần khác
nhau kéo dài thời gian giải quyết một vụ án tốn thời gian của đương sự và những
người tiến hành tố tụng. Điều đó không chỉ làm cho cơ quan có thẩm quyền giải
quyết vụ án chưa đúng với những tình tiết khách quan đã tồn tại mà còn có thể
đưa ra những phán quyết chưa đúng gây ra oan sai, làm oan người vô tội.
Hai là, cần triệu tập đầy đủ các đương sự tham gia phiên tòa giám đốc thẩm
hoặc tái thẩm. Theo quy định của pháp luật tố tụng hành chính thì trong phiên tòa
giám đốc thẩm hoặc tái thẩm thì chỉ có cơ quan tiến hành tố tụng, đại diện Viện
kiểm sát tham gia phiên tòa giám đốc thẩm. Đương sự chỉ được triệu tập khi xét
thấy cần thiết. Tuy nhiên chưa có một cơ quan chức năng nào giải thích như thế
nào là cần thiết ? Việc phiên tòa giám đốc thẩm mở công khai có khả năng ảnh
hưởng đến chất lượng của hoạt động xét xử giám đốc thẩm cũng như việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.
Để tạo điều kiện cho đương sự có thể bảo vệ được quyền lợi hợp pháp của
mình, đảm bảo sự công khai, minh bạch trong việc giải quyết vụ việc theo thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm thì pháp luật nên quy định toà án sẽ triệu tập các đương
Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng hành chính
GVHD: Th.s Diệp Thành Nguyên Trang 49 SVTH: Trần Mộng Nghi
sự có liên quan tới vụ việc và người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các đương sự
công khai với sự tham gia của các bên đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự nhằm thúc đẩy tranh tụng, tăng cường sự giám sát của
nhân dân, phản biện của xã hội với mục tiêu làm sáng tỏ sự thật khách quan của
vụ án để các quyết định giám đốc thẩm thật sự chính xác, làm chuẩn mực cho
việc giải quyết các vụ việc của hệ thống tòa án.
Ba là, có cơ chế giám sát chặt chẽ
Thực trạng giải quyết khiếu nại xin giám đốc thẩm, có trường hợp chính
đáng nhưng cứ phải chờ đợi trong vô vọng, như mò kim đáy bể, có trường hợp
lại được chấp nhận quá dễ dàng. Nếu tình trạng dè sẻn kháng nghị còn kéo dài,
các sai sót của những bản án đã có hiệu lực pháp luật không được sửa sai, khắc
phục kịp thời, công lý, công bằng sẽ không được bảo đảm, để làm cho người dân
ít nhiều mất lòng tin vào pháp luật, vào phán quyết của Tòa án. Ngoài ra, nếu
không có biện pháp khắc phục, không hạn chế, giảm bớt đến mức có thể những
kháng nghị tùy tiện, không có căn cứ thuyết phục… sẽ gây nghi ngờ về những
tiêu cực, nhất là đối với các bộ phận nghiệp vụ liên quan trong quá trình xem xét,
ra kháng nghị. Có cơ chế giám sát hữu hiệu sẽ góp phần giúp thủ tục giám đốc
thẩm phát huy tác dụng đích thực của nó trong khuôn khổ pháp luật, bảo đảm
pháp chế..
Về yếu tố con người:
Một là, thường xuyên có sự thanh tra, giám sát của Tòa án cấp trên đối với
Tòa án cấp dưới. Cần có những đợt thanh tra, giám sát thường xuyên của Tòa án
cấp trên đối với Tòa án cấp dưới trong quá trình áp dụng pháp luật nói chung và
lĩnh vực áp dụng thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm nói riêng trong tố tụng hành
chính. Có thể là thanh tra định kỳ hoặc đột xuất. Đồng thời trong quá trình thanh
tra giám sát đó Tòa án cấp trên có thể đưa những đề xuất giải pháp đúng đắn để
quá trình xem xét lại bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án được
kịp thời hơn, nhanh chóng và chính xác hơn. Đồng thời cũng giúp cho người dân
có thể tin tưởng hơn vào các cơ quan chức năng đang cầm cân nảy mực và xa
Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng hành chính
GVHD: Th.s Diệp Thành Nguyên Trang 50 SVTH: Trần Mộng Nghi
hơn là có thể giúp họ có niềm tin hiều hơn vào chính nghĩa, vào công bằng của
pháp luật.
Hai là, đào tạo bồi dưỡng, bổ sung đội ngũ thẩm phán nguồn nhân lực có
trình độ nghiệp vụ chuyên môn cao. Đây là vấn đề luôn được xem là cách mạng
nhất trong hoạt động tư pháp. Hiện nay trong lĩnh vực tư pháp của nước ta thiếu
nguồn nhân lực có chuyên môn trình độ cao, điều đó thật khó khăn để đưa ra một
bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật được đúng đắn hợp lý đối với một thẩm
phán một cán bộ tư pháp “yếu tay nghề”. Nên thường xuyên mở các lớp tập huấn
đào tạo trình độ nghiệp vụ có chuyên môn chất lượng cao vừa có thể giải quyết
án một cách chính xác các vụ án lại vừa có thể bổ sung thêm nguồn nhân lực để
giải quyết những án tồn đọng đã gây ra gánh nặng cho Tòa án. Đây là một việc
làm chiến lược và cấp bách trong hệ thống tư pháp hiện nay để công tác xét xử
được hoàn thiện hơn và kịp thời hơn bởi không thể có những bản án chất lượng
nếu có những người nhân danh nhà nước vừa yếu về trình độ nghiệp vụ vừa thiếu
cái tâm trong sáng.
Ba là, tăng cường trang thiết bị cơ sở vật chất hiện đại phục vụ trong hệ
thống tư pháp để các cơ quan này có thể thực hiện nhiệm vụ của mình một cách
tốt nhất trong đó có việc xét lại bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa
án.
Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng hành chính
GVHD: Th.s Diệp Thành Nguyên Trang 51 SVTH: Trần Mộng Nghi
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu đề tài người viết đút kết được rằng: giám đốc thẩm, tái
thẩm là một chế định quan trọng của pháp luật. Nó không chỉ giúp cho cơ quan
tiến hành có thể sửa chữa được những sai sót của mình mà còn mở ra cơ hội
mang lại công lý cho người dân được đối xử công bằng trước pháp luật, bảo vệ
được quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự giúp người dân tin tưởng, yên tâm
hơn vào pháp luật, vào công bằng xã hội. Ngoài ra đây cũng là một chế định
quan trọng mang tính chất nhân đạo của Nhà nước ta, đồng thời cũng là một cơ
chế kiểm soát quan trọng của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dưới. Ngoài
việc kiểm tra việc xét xử công bằng, đúng pháp luật Tòa án cấp trên còn đôn đốc
việc xét xử đồng thời đưa ra hướng chỉ đạo đúng đắn, kịp thời trong những vụ án
phức tạp giúp Tòa án hoạt động một cách hiệu quả, tích cực hơn.
Pháp luật Việt Nam đã có một số văn bản để điều chỉnh về chế định giám
đốc thẩm, tái thẩm như: Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm
1996, sửa đổi bổ sung năm 1998, 2006 (hết hiệu lực). Và gần đây nhất là Luật tố
tụng hành chính năm 2010 và chính thức có hiệu lực vào ngày 01/7/2011. Mặc
dù giám đốc thẩm và tái thẩm là một trong những cơ chế đặc biệt và phức tạp và
tất nhiên việc xét lại những bản án, quyết định có hiệu lực pháp của Tòa án theo
cơ chế đó cũng có những điểm đặc biệt riêng nó. Tuy nhiên, Luật tố tụng hành
chính cũng đã tỏ ra hoàn thiện hơn khi quy định một số điểm mới quan trọng khi
mà Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính trước đây không đề cập tới
như: thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm, trường hợp được kháng nghị giám đốc
thẩm quá hạn nếu lỗi để quá hạn này không thuộc về đương sự… Quy định trên
đã khắc phục được bất cập trong thời gian vừa qua là đương sự có đơn đề nghị
xem xét giám đốc từ rất sớm nhưng người có thẩm quyền chưa kiểm tra được
ngay vì một lý do nào đó. Khi phát hiện sai sót thì đã hết thời hạn kháng nghị
khiến quyền lợi chính đáng của đương sự bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng hành chính
GVHD: Th.s Diệp Thành Nguyên Trang 52 SVTH: Trần Mộng Nghi
Ngoài những mặt tích cực thì các quy định của pháp luật cũng bộc lộ một số
hạn chế như: phạm vi giám đốc thẩm, tái thẩm còn hạn hẹp khi chỉ xem xét phần
bị kháng nghị mà không phải là toàn vụ án; phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm
chỉ có cơ quan tiến hành tố tụng tham gia đương sự chỉ tham gia khi cơ quan tiến
hành tố tụng xét thấy cần thiết. Quy định này đã làm giảm đi tính công khai,
minh bạch trong việc xét lại bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án
hoặc một hạn chế về mặt chủ quan như nguồn nhân lực còn kém chuyên môn, tay
nghề để có thể đưa ra những phán quyết công bằng, đúng pháp luật cho người
dân có thể tin tưởng hơn; cần có sự thanh tra, giám sát thường xuyên để khẳng
định rằng những bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án đó là “sạch”
đã tìm ra đúng người, đúng tội.
Đổi mới và hoàn thiện để pháp luật phù hợp hơn với tình hình thực tế là cả
một quá trình lâu dài, điều đó càng có ý nghĩa đặc biệt hơn trong quá trình hội
nhập hiện nay của thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm nói riêng và Luật tố tụng hành
chính nói chung. Quá trình đó không chỉ riêng đối với các nhà làm luật mà là của
cả một nhà nước Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
để có thể góp phần thực hiện tốt mục tiêu nhà nước của “ Pháp luật công bằng,
dân chủ văn minh”.
Danh mục tài liệu tham khảo
Danh mục văn bản quy phạm pháp luật
1. Hiến pháp 1992 Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
2.Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002
3.Luật tố tụng hành chính năm 2000
4.Nghị quyết hướng dẫn thi hành một số quy định cuả nghị quyết 01 ngày 29
tháng 7 năm 2011 hứơng dẫn thi hành một số quy định của nghị quyết
56/2010/QH12 ngày 24-11-2010 của Quốc hội về việc thi hành luật tố tụng hành
chính.
5.Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP ngày 29 tháng 7 năm 2011 Hướng dẫn thi
hành một số quyết định của luật tố tụng hành chính.
6.Nghị quyết số 56/2010/QH12 ngày 24-11-2010 của quốc hội về việc thi hành
luật tố tụng hành chính.
Danh mục sách,báo,tạp chí:
1.ThS Nguyễn Thị Thủy, giảng viên khoa hành chính nhà nước, trường đại học
luật Hà Nội,pháp luật tố tụng hành chính-quá trình hình thành và phát triển
2.TS Nguyễn Ngọc Điện, giáo trình phương pháp nghiên cứu luật viết, khoa luật,
trường đại học Cần Thơ năm 2008
3.ThS Diệp Thành Nguyên, giáo trình luật tố tụng hành chính Việt Nam, khoa
luật,trường đại học Cần Thơ năm 2009
4.Trung tâm từ điển học, từ điển Tiếng Việt, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội, 1994,
tr.890.
Danh mục các trang thông tin điện tử:
1.Kháng nghị vụ thu hồi đất ở Tiên Lãng, Hải Phòng
tien-lang
2.Tập trung giải quyết đơn giám đốc thẩm, tái thẩm
don-giam-doc-tham-tai-tham
3.Thời điểm luật tố tụng hành chính có hiệu lực
chinh-co-hieu-luat-Ngam-ngui-quy-dinh-moi-ve-thoi-han-giam-doc-tham-an-
hanh-chinh
4.Lạm dụng kháng nghị giám đốc thẩm
doc-thẩm-bai-2-128/
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Giamp225m 2737889c th7849m tamp225i th7849m trong t7889 t7909ng hamp224nh champ.pdf