MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1 :
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CẤP DƯỠNG THEO LUẬT HÔN NHÂN
VÀ GIA ĐÌNH 1
1. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA CHẾ ĐỊNH CẤP DƯỠNG . 1
1.1. Quan hệ cấp dưỡng trong pháp luật Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám
1.2. Quan hệ cấp dưỡng trong pháp luật Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám đến nay
2. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ CẤP DƯỠNG . 8
2.1. Khái niệm . 8
2.2. Đặc điểm của cấp dưỡng 10
3. CHỦ THỂ TRONG QUAN HỆ CẤP DƯỠNG . 14
3.1. Chủ thể phải cấp dưỡng . 15
3.2. NgườI có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng 16
4. CHẾ ĐỊNH CẤP DƯỠNG TRONG LUẬT MỘT SỐ NƯỚC SO VỚI PHÁP
LUẬT VIỆT NAM . 18
5. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ GIÁ TRỊ CỦA CHẾ ĐỊNH CẤP DƯỠNG 20
CHƯƠNG 2 :
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUAN HỆ
CẤP DƯỠNG THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH 23
1. CƠ CHẾ XÁC LẬP QUAN HỆ CẤP DƯỠNG . 23
1.1. Xác lập quan hệ cấp dưỡng theo thoả thuận 23
1.2. Xác lập quan hệ cấp dưỡng bằng con đường Toà án . 23
2. NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ CẤP DƯỠNG . 24
2.1. Điều kiện phát sinh trong quan hệ cấp dưỡng . 24
2.2. Mức cấp dưỡng 27
2.3. Phương thức thực hiện cấp dưỡng . 30
3.CÁC QUY ĐỊNH VỀ CẤP DƯỠNG TRONG CÁC TRƯỜNG HỢP CẤP
DƯỠNG CỤ THỂ . 34
3.1. Các trường hợp đặc biệt . 34
3.2. Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa các thành viên trong gia đình . 38
3.3. Những vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng 47
CHƯƠNG 3 :
NHỮNG VẤN ĐỀ TỒN TẠI, VƯỚNG MẮC TRONG CÁC QUY
ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHẾ ĐỘ CẤP DƯỠNG VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN
1. NHỮNG ĐIỂM TỒN TẠI VÀ VƯỚNG MẮC TRONG CÁC QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHẾ ĐỘ CẤP DƯỠNG . 57
2. NHỮNG KIẾN NGHỊ, HƯỚNG HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT VỀ CHẾ ĐỘ CẤP DƯỠNG 63
KẾT LUẬN 67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
84 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 5004 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quan hệ cấp dưỡng trong luật hôn nhân và gia đình hiện hành, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p đã có quyết định thi hành án của cơ quan có thẩm quyền
mà người có nghĩa vụ cấp dưỡng vẫn không tự nguyện thực hiện được thì
được ấn định trong một thời han “không quá 30 ngày” (Điều 22 Pháp lệnh thi
hành án Dân sự) để tự nguyện thì hành thì cơ quan thi hành án theo quy định
của pháp luật có quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành. Chương 4,
Pháp lệnh thi hành án Dân sự từ Điều 29 đến Điều 43 quy định về các biện
pháp cưỡng chế thi hành án. Trong phạm vi quan hệ cấp dưỡng nếu người có
nghĩa vụ cấp dưỡng cho con mà không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ của
mình thì cơ quan thi hành án có thể áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài
sản (Điều 29), bán đấu giá tài sản kê biên (Điều 34), trừ vào thu nhập của
người phải thi hành án (Điều 38), trừ vào tài sản của người thi hành án đang
do người khác giữ (Điều 40),… Trên thực tế biện pháp trừ vào thu nhập của
người thi hành án được cơ quan thi hành áp dụng phần lớn đối với người
không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mà không tự
nguyện thi hành án.
Ngoài biện pháp trừ vào thu nhập của người thi hành án được quy định tại
Điều 33 Pháp lệnh thi hành án Dân sự và tại Khoản 3, Điều 20 Nghị định
70/2001/NĐ-CP thì cơ quan có thẩm quyền có thể áp dụng những biện pháp
như kê biên tài sản, bán đấu giá tài sản hoặc nhà, trừ vào tài sản của người
phải thi hành án do người khác giữ…Song trên thực tế qua tìm hiểu tại cơ
PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Đoàn Thị Phương Diệp
SVTH: Lê Thạch Hương Trang
53
quan thi hành án thì các biện pháp trên ít được sử dụng, chỉ có tạm ngừng tại
biện pháp kê biên tài sản hiện có của người có nghĩa vụ mà chưa hề sử dụng
đến các biện pháp khác.
3.3.2.2. Xử lý hành chính.
Để đảm bảo được nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng mà người
có nghĩa vụ cấp dưỡng không thực hiện như trốn tránh mà gây ra hậu quả
nghiêm trọng thì theo quy định của pháp luật sẽ bị phạt hành chính (theo
Khoản 2, Điều 20 Nghị định 70/2001/NĐ-CP). Nghị định số 87/2001/NĐ-CP
ngày 21/11/2001 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực hôn nhân và gia đình đã quy định tại Điều 12 hình thức và mức xử phạt
hành vi vi phạm về quy định cấp dưỡng. “1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ
20.000 đồng đến 100.000 đồng đối với hành vi từ chối hoặc trốn tránh nghĩa
vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng sau khi ly hôn, anh chị, em với nhau, giữa
Ông bà nội, Ông bà ngoại và cháu theo quy định của pháp luật.
2. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 50.000 đồng đến 200.000 đồng đối với
hành vi từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng cha mẹ, nghĩa vụ cấp
dưỡng cho con sau khi ly hôn theo quy định của pháp luật”. Hành vi từ chối
hoặc trốn tránh tuy chưa được nhà làm luật định nghĩa rõ ràng nhưng trong
Thông tư số 01/2001/TTLT - BTP - BCA - TANDTC - VKSNDTC hướng
dẫn áp dựng tại chương XV “các tội xâm phạm chế độ Hôn nhân và Gia
đình” của Bộ luật Hình sự năm1999, thì hành vi từ chối trốn tránh nghĩa vụ
cấp dưỡng thường được biểu hiện bằng việc không chịu đóng góp tiền, tài sản
để cấp dưỡng mặc dù có khả năng thực tế để thực hiện nghĩa vụ đó. Theo tiến
sĩ Nguyễn Ngọc Điện trong Bình luận Khoa học Luật Hôn nhân và Gia đình
thì trốn tránh là tỏ ra thờ ơ, không có một thông thái gì cho thấy thiện chí đáp
ứng; từ chối tiếp người (được cấp dưỡng hoặc người nuôi dưỡng) để nghe
người này trình bày về những yêu cầu liên quan để việc thực hiện nghĩa vụ
nuôi dưỡng; chỉ hứa suông, không đáp ứng được yêu cầu của người nuôi
dưỡng; không có kế hoạch chi tiêu cụ thể nào nhằm thực hiện nghĩa vụ đó và
cũng không thực hiện một chi tiêu nào đáng kể mang ý nghĩa nuôi dưỡng đến
với người có quyền yêu cầu; có hành vi tẩu tán hoặc che dấu tài sản của mình
chỉ nhằm mục đích không phải nuôi dưỡng hoặc cấp dưỡng cho người
khác,…
PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Đoàn Thị Phương Diệp
SVTH: Lê Thạch Hương Trang
54
Như vậy người có nghĩa vụ cấp dưỡng dù trên thực tế đủ khả năng trợ cấp
cho người được cấp dưỡng cố tình không chịu đóng góp tiền hoặc tài sản
khác như lương thực, thực phẩm, thuốc men, quần áo,… Cho cơ quan thi
hành án hoặc cho người được nuôi dưỡng thì có thể bị Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân xã, phường, thị trấn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Số tiền
phạt được quy định tại Điều 12 Nghị định 87/2001/NĐ - CP coi là tương đối
phù hợp với mức sống của người dân hiên nay.
3.3.2.3.Xử lý hình sự.
Người không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng tuỳ theo tính chất có thể bị
truy cứu trách nhiệm hình sự. Điều 152 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định:
“Người nào có nghĩa vụ cấp dưỡng và có khả năng thực tế để thực hiện viêc
cấp dưỡng đối với người mà mình có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của
pháp luật mà cố tình từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng gây hậu quả
nghiêm trọng hoặc bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm thì
phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc bị tù từ 3 tháng đến 2
năm”. Để làm rõ điều này theo Thông tư Liên tịch số 01/2001/ TTLT - BTP -
BCA - TANDTC - VKSNDTC ngày 25/09/2001S hướng dẫn áp dụng các
quy định tại chương XV “các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình” của
Bộ luật Hình sự năm 1999 thì có thể truy cứu trách nhiệm hình sự về tội từ
chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng khi có đầy đủ các dấu hiệu sau:
- Người phạm tội là người có nghĩa vụ cấp dưỡng
- Người phạm tội phải có khả năng thực tế để thực hiện nghĩa vụ cấp
dưỡng, khả năng thực tế được hiều là khả năng về kinh tế của người có nghĩa
vụ cấp dưỡng như tiền, tài sản hoặc thu nhập có khả năng bảo đảm cuộc sống
của gia đình với mức sống trung bình ở địa phương.
- Người phạm tội có hành vi cố ý từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp
dưỡng của mình. Tuy nhiên, hành vi từ chối hoặc trốn tránh phải thoả một
trong hai dấu hiệu theo Điều 152 “gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử
phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm”.
Việc người có nghĩa vụ cấp dưỡng mà cố ý từ chối hoặc trốn tránh nghĩa
vụ về mặt chủ thể là người có năng lực trách nhiệm hình sự và có nghĩa vụ
cấp dưỡng cho người khác theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình và
người này có khả năng về kinh tế để thực hiện nghĩa vụ. Về mặt khách quan,
PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Đoàn Thị Phương Diệp
SVTH: Lê Thạch Hương Trang
55
người phạm tội có hành vi cố ý hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng sau khi
người được cấp dưỡng yêu cầu thực hiện hành vi cấp dưỡng nhưng đã từ chối
không cấp dưỡng hoặc tìm mọi cách để trốn tránh không thực hiện nghĩa vụ
này, mặc dù có điều kiện cấp dưỡng. Hành vi trên phải gây hậu quả nghiêm
trọng hoặc đã bị xử lý hành chính về hành vi này mà còn vi phạm. Việc quy
định các hình phạt nhằm quy định người có nghĩa vụ cấp dưỡng thực hiện
nghiêm chỉnh, đảm bảo quyền lợi của người được cấp dưỡng.
3.3.3. Chấm dứt quan hệ cấp dưỡng.
Trong quy định của pháp luật các thành viên trong gia đình có quyền được
hưởng sự chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau phù hợp với truyền thống tốt đẹp của
gia đình Việt Nam. Chăm sóc nuôi dưỡng lẫn nhau vừa là quyền vừa là trách
nhiệm của các thành viên trong gia đình. Tuy nhiên, không phải lúc nào nghĩa
vụ cấp dưỡng cũng có thể được thực hiện. Trong quan hệ cấp dưỡng thì cấp
dưỡng là nghĩa vụ nhân thân gắn liền với tài sản, nó chỉ phát sinh khi thoả
những điều kiện nhất định, nhằm mục đích tương trợ lẫn nhau giữa các thành
viên trong gia đình, nếu như các điều kiện phát sinh không còn nữa, thì đương
nhiên quan hệ cấp dưỡng sẽ chấm dứt và nó sẽ chấm dứt khi thoả mãn những
điều kiện quy định tại Điều 61 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000. Theo
điều luật thì tuỳ vào những điều kiện nảy sinh trong quan hê mà nghĩa vụ cấp
dưỡng sẽ chấm dứt trong những trường hợp khác nhau.
3.3.3.1. Người được cấp dưỡng đã thành niên và có khả năng lao động.
Về nguyên tắc, nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ đặt ra khi người được cấp dưỡng
là người chưa thành niên hoặc người đã thành niên nhưng không có khả năng
lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Vì vậy, khi người được cấp
dưỡng đã thành niên và có khả năng lao động thì họ không được cấp dưỡng
nữa. Song nếu người đã thành niên nhưng lại rơi vào trường hợp không có
khả năng lao động do nhiều lý do khách quan nên họ không có khả năng lao
động: mất năng lực hành vi dân sự, bị tàn tật, bị bệnh lâu dài dẫn đến không
có khả năng lao động. Do đó người này vẫn được sự cấp dưỡng.
Tuy nhiên trong nhiều trường hợp người đã thành niên và có khả năng lao
động, song vẫn không có đủ thu nhập để tự nuôi mình. Về nguyên tắc, những
người này sẽ không được cấp dưỡng nữa. Việc cấp dưỡng (nếu được thực
PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Đoàn Thị Phương Diệp
SVTH: Lê Thạch Hương Trang
56
hiện) là xuất phát trên cơ sở đạo đức, phong tục tập quán và tuỳ thuộc vào sự
thoả thuận giữa người cấp dưỡng và người được cấp dưỡng.
3.3.3.2. Người được cấp dưỡng có thu nhập hoặc tài sản để tự nuôi mình.
Theo quy định của pháp luật, những người có quan hệ hôn nhân, huyết
thống hoặc nuôi dưỡng mà lại không có khả năng lao động và không có tài
sản để tự nuôi mình, có khó khăn, túng thiếu, không sống cùng nhau thì có
quyền yêu cầu cấp dưỡng đối với những người có nghĩa vụ cấp dưỡng.
Khi có thu nhập hoặc có tài sản để tự nuôi mình, người được cấp dưỡng
không còn lâm vào tình trạng khó khăn, túng thiếu, cuộc sống của người đó
đã được bảo đảm nên việc cấp dưỡng không cần thiết nữa. Tuy nhiên, trong
trường hợp này, nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ chấm dứt nếu người được cấp dưỡng
không phải là con của người cấp dưỡng. Nếu người được cấp dưỡng là con
chưa thành niên thì mặc dù con có tài sản riêng, nhưng cha mẹ vẫn có nghĩa
vụ chăm sóc, nuôi dưỡng con, do đó vẫn có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Bời
vì, về nguyên tắc, con chưa thành niên luôn được cấp dưỡng.
3.3.3.3. Người được cấp dưỡng được nhận là con nuôi.
Trong quá trình nghĩa vụ cấp dưỡng đang được thực hiện mà người được
cấp dưỡng được người xác nhận làm con nuôi thì nghĩa vụ đương nhiên chấm
dứt. Do quan hệ nuôi dưỡng là một quan hệ gia đình, trong đó các chủ thể
gồm cha mẹ nuôi và con nuôi có những quyền và nghĩa vụ tương tự nhau như
quan hệ giữa cha mẹ và con trên cơ sở huyết thống. Pháp luật Hôn nhân và
Gia đình đã thừa nhận vấn đề này tại Điều 74 Luật Hôn nhân và Gia đình năm
2000 quy định: “Giữa cha mẹ và con nuôi có các quyền và nghĩa vụ của cha
mẹ và con kể từ khi thời điểm nuôi con”, và tại Điều 67 Luật Hôn nhân và Gia
đình năm 2000 cũng ghi nhận quan hệ này. “Giữa người nhận con nuôi và
người được nhận làm con nuôi có các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con
theo quy định của luật này”. Khi đó, cha mẹ nuôi có nghĩa vụ nuôi dưỡng,
chăm sóc, giáo dục con cái thành người tốt và đảm bảo cuộc sống của con
được tốt đẹp hơn. Từ đó, nghĩa vụ cấp dưỡng sẽ chấm dứt khi người cấp
dưỡng đã được nhận làm con nuôi.
Đối với người được cấp dưỡng là người già cô đơn không nơi nương tựa
mà được người khác nhận làm cha mẹ nuôi thì quan hệ cấp dưỡng cũng chấm
dứt.
PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Đoàn Thị Phương Diệp
SVTH: Lê Thạch Hương Trang
57
3.3.3.4. Người được cấp dưỡng đã trực tiếp nuôi dưỡng người được cấp
dưỡng.
Nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ phát sinh khi người có nghĩa vụ nuôi dưỡng
không trực tiếp nuôi dưỡng người mà mình có nghĩa vụ nuôi dưỡng do hai
người không sống chung. Khi người có nghĩa vụ nuôi dưỡng đã trực tiếp nuôi
dưỡng người kia thì nghĩa vụ cấp dưỡng chấm dứt, lúc này quan hệ cấp
dưỡng đã chuyển thành quan hệ nuôi dưỡng. Người cấp dưỡng đã tự mình
chăm sóc nuôi dưỡng người được cấp dưỡng thì đương nhiên quan hệ cấp
dưỡng không còn nữa.
3.3.3.5. Người cấp dưỡng hoặc người được cấp dưỡng chết.
Quan hệ cấp dưỡng là quan hệ tài sản gắn liền với nhân thân giữa các
thành viên trong gia đình, dựa trên cơ sở hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng
được thực hiện tương ứng giữa các chủ thể đối với nhau nên không thể
chuyển giao cho người khác nên khi một trong hai người là người cấp dưỡng
hoặc người được cấp dưỡng chết thì quan hệ cấp dưỡng đương nhiên chấm
dứt.
Tuy nhiên, trong trường hợp nhiều người có nghĩa vụ cấp dưỡng cho một
người mà trong những người cấp dưỡng chết thì nghĩa vụ cấp dưỡng của
những người cấp dưỡng còn sống vẫn tiếp tục thực hiện nghĩa vụ của mình.
Trong trường hợp một người cấp dưỡng cho nhiều người mà một trong những
người được cấp dưỡng chết thì người cấp dưỡng vẫn phải cấp dưỡng cho
những người được cấp dưỡng còn sống.
3.3.3.6. Bên được cấp dưỡng sau khi ly hôn đã kết hôn với người khác.
Quan hệ cấp dưỡng giữa các bên từng là vợ chồng khi ly hôn chỉ phát sinh
khi là hôn nhân hợp pháp. Sau khi ly hôn hai bên không còn quan hệ về nhân
thân và tài sản nhưng do tính chất của quan hệ hôn nhân trong gia đình. Do
vậy sau khi ly hôn nếu một bên túng thiếu không tự nuôi dưỡng bản thân khi
đó yêu cầu bên kia phải có nghĩa vụ cấp dưỡng. Nếu người được cấp dưỡng
kết hôn với người khác thì sẽ chấm dứt quan hệ cấp dưỡng, vì khi đó trách
nhiệm vật chất thuộc về người chồng, người vợ mới, đời sống của người này
được cải thiện. Bên cạnh đó vì quan hệ này chỉ phát sinh khi người được cấp
dưỡng túng thiếu do cuộc ly hôn gây ra, vậy khi người được cấp dưỡng đi kết
hôn với người khác thì khi đó không thể nói là ảnh hưỡng từ việc ly hôn nên
PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Đoàn Thị Phương Diệp
SVTH: Lê Thạch Hương Trang
58
chấm dứt quan hệ cấp dưỡng. Trong trường hợp người được cấp dưỡng không
kết hôn mà lại sống chung như vợ chồng với người khác và có con, đứa con
này không có quan hệ gì với người cấp dưỡng luật không quy định cấp dưỡng
hay không. Nhưng có thể hiều theo lý lẽ thì sẽ không phát sinh nghĩa vụ cấp
dưỡng, vì nếu tiếp tục cấp dưỡng thì sẽ không hợp lý đối với người được cấp
dưỡng.
3.3.3.6. Quan hệ cấp dưỡng chấm dứt trong các trường hợp khác theo quy
định của pháp luật.
Trong từng trường hợp cụ thể, căn cứ vào hoàn cảnh thực tế của các bên,
trên cơ sở bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người cấp dưỡng và người
được cấp dưỡng, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể cho phép chấm dứt
nghĩa vụ cấp dưỡng. Ví dụ: Trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng
không còn khả năng cấp dưỡng thì nghĩa vục cấp dưỡng cũng có thể chấm
dứt.
PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Đoàn Thị Phương Diệp
SVTH: Lê Thạch Hương Trang
59
CHƯƠNG 3
NHỮNG VẤN ĐỀ TỒN TẠI, VƯỚNG MẮC TRONG CÁC QUY
ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHẾ ĐỘ CẤP DƯỠNG VÀ
HƯỚNG HOÀN THIỆN
1. NHỮNG ĐIỂM TỒN TẠI VƯỚNG MẮC TRONG CÁC QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHẾ ĐỘ CẤP DƯỠNG.
Quan hệ cấp dưỡng được thừa nhận về mặt pháp lý từ khá lâu. Trong quá
trình bổ sung và hoàn thiện, sự ra đời của Luật Hôn nhân và Gia đình năm
2000 đã đánh dấu bước phát triển quan trọng các nội dung của quan hệ này về
mặt lý luận và cơ sở pháp lý. Trong đó phải kể đến ý nghĩa to lớn của khái
niệm cấp dưỡng. Tuy nhiên, ngay trong khái niệm cấp dưỡng lần đầu tiên
được thừa nhận chính thức, cho đến nay việc hiểu trọn vẹn ý đồ của nhà làm
luật là một vấn đề không dễ. Khoản 11, Điều 8 Luật Hôn nhân và Gia đình
năm 2000 quy định “Cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền
hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung
với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng hay trường
hợp người đó là người chưa thành niên, là người đã thành niên mà không có
khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình, là người gặp khó
khăn, túng thiếu theo quy định của luật này”.
Khái niệm này đã xác định nhiều nội dung trong chế định cấp dưỡng,
trong đó có chủ thể được cấp dưỡng trong quan hệ cấp dưỡng, chủ thể trong
quan hệ cấp dưỡng mà có quan hệ huyết thống hoặc nuôi dưỡng mà đặc biệt
là con chung thì là con chưa thành niên, con đã thành niên mà không có khả
năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Tại Điều 56 Luật Hôn
nhân và Gia đình năm 2000 quy định “Khi ly hôn cha hoặc mẹ không trực
tiếp nuôi con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực
hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi
mình có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con”. Như vậy chủ thể được cấp dưỡng
trong quan hệ cấp dưỡng này là con chưa thành niên hoặc con đã thành niên
bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không
có tài sản để tự nuôi mình.
PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Đoàn Thị Phương Diệp
SVTH: Lê Thạch Hương Trang
60
Thế nhưng, khi đọc điều luật và xét trên phương diện toàn diện thì xem nó
là phù hợp, hợp lý nhưng nếu xét khía cạnh cụ thể hơn thì quy định của pháp
luật hiện hành còn gây nhiều lúng túng cho người đọc. Rõ ràng các nội dung
liên quan đến các chủ thể được cấp dưỡng phải được hiểu một cách chính xác
và đầy đủ hơn. Chẳng hạn, như thế nào là tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự
(đối với quan hệ giữa cha mẹ đối với con), không có khả năng lao động,
không có tài sản tự nuôi mình, và thế nào là không sống chung?
- Thông thường một người khiếm khuyết một bộ phận hoặc một chức
năng nào đó trong cơ thể thì được gọi là người tàn tật. Chẳng hạn bị cụt tay,
cụt chân, bị mù, bị bại liệt, … Trong ngữ cảnh của điều luật, có lẽ tàn tật cũng
được hiểu theo cách trên. Song liệu nhà làm luật có đòi hỏi điều kiện của việc
tàn tật. Người con đã thành niên đó bị tàn tật nhưng có cần ở mức độ giới hạn
nào, chỉ cần người đó bị khiếm khuyết một bộ phận hay chức năng nào đó thì
được coi là tàn tật hay phải hai, ba bộ phận chức năng trở lên, liệu một người
đã thành niên nhưng bị cụt chân thì có cần phải cụt tay thì mới được coi là
tinh thần của luật.
- Mất năng lực hành vi dân sự. Điều 22 Bộ luật Dân sự 2005 quy định:
“Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận
thức, làm chủ được hành vi của mình theo yêu cầu của người có quyền, lợi
ích liên quan. Tòa án ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự trên
cơ sở kết luận của tổ chức giám định”. Theo đó, người bị coi là mất năng lực
hành vi dân sự phải thỏa các điều kiện bị bệnh tầm thần hoặc mắc các bệnh
khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, có yêu cầu của
người có quyền lợi liên quan, quyết định này dựa trên cơ sở kết luật của tổ
chức giám định có thẩm quyền. Nếu nội dung mất năng lực hành vi dân sự
theo pháp Luật Hôn nhân và Gia đình hiện hành được hiểu theo tinh thần trên
thì vô hình chung, phạm vi chủ thể cấp dưỡng sẽ bị thu hẹp rất nhiều. Trên
thực tế phần lớn người có quyền và lợi ích liên quan với người bị bệnh tâm
thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi
của mình thường không yêu cầu Tòa án quyết định tuyên bố. Điều này có thể
là gây khó khăn trong thủ tục pháp lý, và do nhận thức của người dân còn
nhiều hạn chế trong việc đánh giá tầm quan trọng của vấn đề này. Do vậy, khi
có người thành niên song bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không
PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Đoàn Thị Phương Diệp
SVTH: Lê Thạch Hương Trang
61
thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, nhưng chưa có tuyên bố của
Tòa án là mất năng lực hành vi dân sự, đồng thời cuộc sống của họ bị đe dọa
nghiêm trọng rất cần sự trợ giúp của người có nghĩa vụ, thì đòi hỏi của nhà
làm luật trong trường hợp này đã hạn chế quyền được bảo vệ của người được
cấp dưỡng. Người có nghĩa vụ có thể dựa vào đó mà nói rằng người được cấp
dưỡng không phải là người bị mất năng lực hành vi dân sự theo quy định của
pháp luật hiện hành để từ chối nghĩa vụ cấp dưỡng.
- Không có khả năng lao động. Thế nào là không có khả năng lao động, ở
mức độ nào, phạm vi nào? Hẳn thế nào là không có khả năng lao động tùy
thuộc vào sự đánh giá của thẩm phán. Người thất nghiệp chưa chắc là không
có khả năng lao động; người tật nguyền cũng có thể có khả năng lao động,…
Có lẽ khả năng lao động nói trong các điều lụât liên quan chủ yếu là khả năng
về sức vóc, cơ bắp và cả kỹ năng cho phép đương sự thực hiên một công việc
(thường xuyên hay không thường xuyên), hoặc với tư cách người lao động
làm thuê, nhằm tạo thu nhập nuôi sống mình và gia đình mình. Không thể nói
là không có khả năng lao động. Một người chỉ có thể được sử dụng tốt vào
công việc lao động chân tay nhưng chỉ mơ tưởng đến công việc thuộc lĩnh
vực chuyên môn mà mình không đủ năng lực để chen chân vào và do đó
không được ai tuyển dụng, cuối cùng rơi vào cảnh sống bần cùng. Trái lại, có
thể coi là không có khả năng lao động một người chấp nhận làm bất cứ việc
gì trong khuôn khổ pháp luật, để có thu nhập nhưng không ai chịu thuê.
Trong ngữ cảnh của điều luật có thể suy đoán rằng việc không có khả năng
lao động là xuất phát từ nguyên do bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự.
Song nếu như vậy thì càng cần thiết phải có hướng dẫn bị tàn tật là như thế
nào và ở mức độ nào. Đồng thời, điều kiện về năng lực chủ thể cũng cần phải
thực hiện quy định thoáng hơn.
-Không có tài sản để tự nuôi mình. Điều này gây không ít khó khăn với
người đọc. Hiều thế nào là không có tài sản để tự nuôi mình? Không nhất
thiết người yều cầu cấp dưỡng hoàn toàn không có tài sản. Người yêu cầu cấp
dưỡng có thể có tài sản gốc, nhưng tài sản không sinh lợi (ví dụ: một căn nhà
tranh, một ít đồ vật gia dụng,… không thể cho ai thuê) hoặc có sinh lợi và đã
được khai thác theo khả năng của chủ sở hữu, nhưng không đủ để đáp ứng
nhu cầu thiết yếu của gia đình mình. Người có yêu cầu cấp dưỡng cũng có thể
PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Đoàn Thị Phương Diệp
SVTH: Lê Thạch Hương Trang
62
có thu nhập thường xuyên hay không thường xuyên do lao động, thậm chí có
hưởng trợ cấp (mất sức, thương tật,..) và đã huy động tất cả các nguồn thu
nhập của mình mà vẫn không thoả mãn được yêu cầu chi tiêu tối thiểu cho
cuộc sống hàng ngày của mình và gia đình mình.
- Không sống chung. Trong quan hệ nuôi dưỡng, người được nuôi dưỡng
và ngườI có nghĩa vụ nuôi dưỡng sống chung với nhau thì ngược lại trong
quan hệ cấp dưỡng là không cùng sống chung. Vấn đề đặt ra là phải hiều thế
nào là sống chung và không sống chung để có quy định đúng đắn và căn cứ
chính xác để quan hệ cấp dưỡng được phát sinh. Điều luật có đề cập nhưng
chưa có văn bản nào hướng dẫn cụ thể thế nào là sống chung và không sống
chung. Vậy hiểu theo cách hiểu thực tế trong cuộc sống người dân Việt Nam
thì khi nào thì sống chung và khi nào thì không sống chung là một vấn đề khó
khăn và phức tạp. Trong hệ thống pháp luật Việt Nam có quy định về nơi cư
trú, nơi tạm trú… Nhưng không có quy định thế nào là sống chung. Có quan
điểm cho rằng những người sống chung là những người có cùng nơi đăng ký
hộ khẩu thường trú. Quan điểm khác cho rằng, chỉ coi là sống chung khi họ
cùng sống chung một mái nhà mà không phải phụ thuộc vào nơi đăng ký hộ
khẩu thường trú của họ.
Trước quan điểm đó, những ý kiến khác nhau về sống chung. Đòi hỏi các
nhà làm luật nên có quy định hướng dẫn cụ thể rõ ràng, kịp thời tạo cơ sở
pháp lý cho người sử dụng luật và bảo đảm kịp thời cho quyền và nghĩa vụ
của người có liên quan để duy trì và ổn định cuộc sống.
Trong nội dung thay đổi chế độ cấp dưỡng, pháp luật Việt Nam khá linh
hoạt và mềm dẻo khi cho phép các chủ thể lựa chọn cách thức điều kiện phù
hợp của các bên. Một trong những điểm tiến bộ đó là tạm ngừng cấp dưỡng
khi cần thiết. Thực tế không phải lúc nào cũng được cấp dưỡng một cách
suôn sẽ, thuận lợi. Đôi khi hoàn cảnh sống của mỗi bên thay đổi do sự tác
động của nhiều lý do khác nhau. Có thể vì công việc kinh doanh không thuận
lợi bị mất việc, bị ốm đau, bị tai nan,… mà điều kiện kinh tế của chủ thể cấp
dưỡng bị giảm sút, không đáp ứng được nhu cầu của người mà họ có nghĩa vụ
cấp dưỡng. Trong khi đó điều kiện sống của chủ thể được cấp dưỡng lại tiến
triển thuận lợi hơn… có nghĩa là tùy thuộc vào hình thức sinh sống và điều
kiện kinh tế của các bên mà việc cấp dưỡng có thể thay đổi mức cấp dưỡng
PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Đoàn Thị Phương Diệp
SVTH: Lê Thạch Hương Trang
63
(tăng lên hay giảm xuống), bổ sung hoặc tạm ngừng cấp dưỡng. Việc cho
phép các chủ thể lựa chọn phương thức tạm ngừng cấp dưỡng trên thực tế đã
giải quyết ổn thỏa quan hệ giữa các bên hạn chế phần nào khó khăn đối với
người phải cấp dưỡng. Có thể nói ý nghĩa của quy định này không chỉ bó hẹp
trong phạm vi đó. Tuy nhiên cho đến nay, nhà làm luật chỉ dừng lại ở việc
đưa ra trường hợp tạm ngừng cấp dưỡng khi cần thiết mà chưa hướng dẫn cụ
thể vấn đề này.
Trong trường hợp người được cấp dưỡng và người có nghĩa vụ cấp dưỡng
muốn tạm ngừng cấp dưỡng vì lý do không còn đủ điều kiện thực hiện nghĩa
vụ. Nếu các bên không thỏa thuận được và yêu cầu Tòa án giải quyết, rõ ràng
việc đưa ra một quyết định hợp lý của Hội đồng xét xử sẽ không gặp ít khó
khăn. Tòa án sẽ xem xét tình trạng hiện tại của các bên; thu nhập, khả năng
thực tế, mức sống, nhu cầu,… Tuy nhiên sau khi xem xét Tòa án sẽ căn cứ
vào đâu để cho rằng là cần thiết để cho phép việc tạm ngừng cấp dưỡng.
Ngoài ra Hội đồng xét xử cũng gặp không ít khó khăn gây trở ngại để xác
định tình trạng hiện tại của các bên.
Không chỉ chưa đưa ra căn cứ cụ thể cho phép tạm ngừng cấp dưỡng, nhà
làm luật không đề cập đến thời gian tạm ngừng, căn cứ chấm dứt việc tạm
ngừng hay khôi phục việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Hội đồng xét xử
phải dựa vào đâu để quyết định khi nào tạm ngừng, tạm ngừng trong thời gian
bao lâu, tạm ngừng đến khi nào,… Tuy nhiên thực tế chưa có vụ việc yêu cầu
Tòa án giải quyết việc tạm ngừng cấp dưỡng, song pháp luật cũng nên có cơ
sở bổ sung cho hoàn chỉnh tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể và Tòa án
áp dụng quy định của pháp luật bảo vệ quyền lợi của các bên.
Điều 152 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định: “Người có nghĩa vụ cấp
dưỡng có khả năng thực tế để thực hiện việc cấp dưỡng đối với người mà
mình có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật mà cố ý từ chối
hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử
phát hành chính mà còn vi phạm, thì phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ
đến 2 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm”
Qua nội dung điều luật dẫn nhìn chung khá đầy đủ và hợp lý nhưng cụ thể
hóa vào thực tiển thì không dễ dàng. Do luật đưa ra biện pháp cưỡng chế xử
lý kịp thời đối với người không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nhưng không
PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Đoàn Thị Phương Diệp
SVTH: Lê Thạch Hương Trang
64
có quy định hướng dẫn cụ thể, rõ ràng thế nào là hành vi trốn tránh, hoặc
hành vi từ chối nghĩa vụ cấp dưỡng và mức độ nào sẽ xử phạt hành chính
hoặc xử phạt hình sự.
Vậy thế nào là trốn tránh, thế nào là từ chối và hiểu nó ở mức độ nào.
Trong trường hợp này tùy thuộc vào mức độ đánh giá của người thụ lý. Đây
là hai vấn đề quan trọng đòi hỏi nhà làm luật phải có sự quan tâm đúng mức,
điều chỉnh kịp thời nhằm tạo sự thống nhất về cách xử lý áp dụng của các
ngành, các cấp để xử đúng người đúng tội.
Bên cạnh thế nào là hành vi trốn tránh hoặc từ chối nghĩa vụ cấp dưỡng
làm hạn chế những quy định của luật thì song song với nó là vấn đề thế nào là
trốn tránh nghĩa vụ nuôi dưỡng và trốn tránh ở mức độ nào thì được xem là
trốn tránh nghĩa vụ nuôi dưỡng và bị áp dụng biện pháp chế tài là buộc phải
thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Tại Khoản 2, Điều 52 Luật Hôn nhân và Gia
đình năm 2000 có đề cập “Trong trường hợp người có nghĩa vụ nuôi dưỡng
mà trốn tránh nghĩa vụ đó thì buộc phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng”. Đây
là một vấn đề bức xúc cho người áp dụng luật, nếu rơi vào trường hợp này thì
căn cứ vào đâu để quyết định buộc người đó phải cấp dưỡng cho ngườI mà
mình có nghĩa vụ nuôi dưỡng, cho đến nay các văn bản luật chưa bổ sung
cũng chưa có hướng dẫn cụ thể.
Bên cạnh khái niệm chưa quy định rõ ràng, cụ thể còn nhiều cụm từ mang
tính chất chung chung. Có điều luật dẫn người đọc có cách hiểu, nhìn nhận
theo nhiều nghĩa khác nhau, tạo nên sự không thống nhất trong việc áp dụng.
Cụ thể Điều 52 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 quy định: “Trong
trường hợp nhiều người có cùng nghĩa vụ cấp dưỡng cho một người hoặc
nhiều người thì những người này thỏa thuận với nhau về phương thức và mức
đóng góp phù hợp với thu nhập. Khả năng thực tế của mỗi người và nhu cầu
thiết yếu của người được cấp dưỡng, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu
Tòa án giải quyết”.
Trong điều luật trên cụm từ “những người này” làm cho người đọc có
nhiều cách hiểu khác nhau:
Thứ nhất: “những người này” là những người cấp dưỡng với nhiều người
được cấp dưỡng sẽ thỏa thuận với nhau về phương thức và mức đóng góp phù
PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Đoàn Thị Phương Diệp
SVTH: Lê Thạch Hương Trang
65
hợp với khả năng thực tế của từng người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu
thiết yếu của người được cấp dưỡng.
Thứ hai: “những người này” là những người có nghĩa vụ cấp dưỡng, lúc
này những người có nghĩa vụ sẽ hợp lại với nhau, thỏa thuận về mức cấp
dưỡng và phương thức cấp dưỡng phù hợp vớI từng người có nghĩa vụ, để
đưa ra mức cấp dưỡng và phương thức thực hiện thích hợp.
Thứ ba: “ những người này” là những người được cấp dưỡng, chỉ những
người này sẽ ngồi lại thỏa thuận với nhau về mức cấp dưỡng và phương thức
thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
Như vậy theo ba quan điểm trên, thì quan điểm nào là dụng ý của các nhà
làm luật. Do một phần quy định không rõ, sử dụng từ ngữ quá chung chung,
đặc biệt trong trường hợp này điều luật lại được sử dụng bằng đại từ thay thế.
Chính từ đó và cùng với việc hiểu biết còn nhiều hạn chế dẫn đến việc hiểu
không thống nhất do đó tạo nên sự không thống nhất trong quá trình vận
dụng, không nâng cao được giá trị của điều luật cũng như ý muốm của nhà
lập pháp.
2.NHỮNG KIẾN NGHỊ, HƯỚNG HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHẾ ĐỘ CẤP DƯỠNG
Qua nghiên cứu các quy định của pháp luật Hôn nhân và Gia đình hiện
hành. Nhìn chung pháp luật đã có những bước hoàn thiện song bên cạnh
những kết quả đã đạt được vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn, vướng mắc chưa
giải quyết dứt điểm. Những tồn tại và vướng mắc đó xuất phát từ nhiều
nguyên nhân, trong đó có những nguyên nhân cơ bản sau:
- Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 đã giải quyết các mối quan hệ hôn
nhân và gia đình góp phần vào việc xây dựng gia đình hạnh phúc tiến bộ
nhưng do sự đa dạng của các mối quan hệ trong xã hội như các điều kiện phát
sinh cấp dưỡng chưa có quy định rõ ràng “ người không có tài sản để tự nuôi
sống mình”, “không có khả năng lao động”, “không sống chung”,…. Có
những ý kiến khác nhau về điều này dẫn đến khó xác định nghĩa vụ cấp
dưỡng.
- Để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng đã có quy định hình thức xử
phạt nhưng chỉ xử phạt khi gây hậu quả nghiêm trọng. Và hơn nữa người có
nghĩa vụ chỉ phải chịu xử phạt khi gây ra hậu quả nghiêm trọng thì mới bị xử
PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Đoàn Thị Phương Diệp
SVTH: Lê Thạch Hương Trang
66
phạt còn nếu chưa gây hậu quả nghiêm trọng thì sẽ không bị xử phạt. Chính
quy định làm cho người có nghĩa cụ cấp dưỡng không nhanh chóng thực hiện
vì cho rằng khi nào gây hậu quả thì mới bị xử phạt.
- Đối với người thực hiện không chịu thực hiện nghĩa vụ mà người này có
thu nhập, có công việc ổn định, có điều kiện kinh tế, khả năng tài chính
nhưng không cấp dưỡng nuôi con, do họ có gia đình khác nên các thu nhập do
vợ chồng mới quản lý. Người có quyền yêu cầu thi hành án yêu cầu nhiều lần
và cơ quan thi hành án liên tục triệu tập vẫn không thực hiện.
- Thực tế có những trường hợp người có quyền yêu cầu thi hành án khi cơ
quan thi hành án xác minh thì có hành vi tẩu tán tài sản hoặc tài sản này được
chuyển quyền sở hữu cho người chồng (vợ) mới, khi xác minh thì không có
tài sản trường hợp này cơ quan thi hành án buộc phải trả lại đơn. Ngược lại có
trường hợp sau khi ly hôn người có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con làm ăn thua
lỗ, bị phá sản không có tiền cấp dưỡng tuy họ không muốn trốn tránh hoặc
khi ly hôn họ không sống ở địa phương nữa thì sau khi yêu cầu của người có
quyền yêu cầu cấp dưỡng không thể thi hành.
Đây là những quy định của pháp luật chưa chặc chẽ, chung chung, thậm
chí trong từng điều luật còn nhiều bất cập hạn chế và sự hiều biết của nhân
nhân về pháp luật cũng còn nhiều hạn chế. Từ thực tiễn đó, cần phải có những
phương hướng khắc phục và hoàn thiện mong muốn xây dựng chế định cấp
dưỡng của Luật Hôn nhân và Gia đình ngày càng hoàn thiện và là cơ sở, căn
cứ để Tòa án các cấp giải quyết vấn đề cấp dưỡng được nhất quán, chính xác
hơn, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự, cũng cố
tinh thần đoàn kết của dân tộc Việt Nam mà trước hết là giữa các thành viên
trong gia đình.
- Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 đã có quy định hoàn thiện hơn,
tương đối phù hợp với thực tế so với các văn bản luật trước đó nhưng với sự
phát triển đa dạng của các mối quan hệ xã hội nên cần phải bổ sung sữa đổi
để phù hợp với thực tiễn.
-Nghĩa vụ cấp dưỡng là nghĩa vụ nhằm để hỗ trợ về vật chất cho bên túng
thiếu giảm phần nào khó khăn trong cuộc sống, nên có thêm những quy định
người chưa thành niên, người đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự,
PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Đoàn Thị Phương Diệp
SVTH: Lê Thạch Hương Trang
67
người đã thành niên tàn tật có tài sản mà tài sản này đủ khả năng thực hiện
nghĩa vụ cấp dưỡng thì cũng phải có nghĩa vụ cấp dưỡng.
- Để đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ cấp dưỡng cần
có những văn bản hướng dẫn để các điều kiện phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng
như: người không có khả năng lao động, người không có tài sản để tự nuôi
mình. Những cum từ này phải được hiều một cách chính xác hơn có nghĩa là:
+ “Không sống chung” phải hiểu là không cần biết có hay không có sống
chung với nhau dưới một mái nhà nhưng nhất quyết là những người này
không cùng nhau đóng góp thu nhập hoặc tài sản của mình vào quỹ tiêu dùng
chung trong cuộc sống (tức mọi người có nguồn tài chính để chi tiêu sinh hoạt
trong cuộc sống khác nhau) không nên hiểu là phải bắt buộc cách trở không
gian không thể trực tiếp nuôi dưỡng và không thể sống chung dưới một mái
nhà.
+ “ Trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng” phải được áp dụng khi người có
nghĩa vụ cấp dưỡng có hành vi tìm mọi cách để lảng tránh không gặp mặt
được người cấp dưỡng để thực hiện nghĩa vụ, không có thiện chí đáp ứng nhu
cầu của người được cấp dưỡng mặc dù có khả năng cấp dưỡng, không thực
hiện nghĩa vụ theo quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án và được
nhiều người thân thuộc khuyên can và có sự đôn đốc yêu cầu từ phía Ủy ban
Nhân dân nhưng vẫn cứ lảng tránh không tự nguyện cấp dưỡng.
+ “Không có tài sản” phải hiểu là không có tài sản nào cả mà nếu có tài
sản nhưng tài sản đó không thể khai thác để sinh lợi hoặc tài sản đó vì lý do
khách quan mà không thể khai thác hoặc không thể đem đi bán hoặc có thể
khai thác, có thể bán nhưng giá trị tài sản rất nhỏ không đảm bảo cuộc sống
của người đó.
+ Tại Điều 52 Luật Hôn nhân và Gia đình quy định trong đó có cụm từ
“những người này” đây là một cụm từ quá chung chung gây sự hiểu biết khác
nhau của những người đọc luật cũng như những người áp dụng như đã trình
bày ở mục I, chương 3. Dó đó có thể sửa đổi Điều 52 lại như sau: “Trong
trường hợp nhiều người có cùng nghĩa vụ cấp dưỡng cho một người hoặc cho
nhiều người thì những người có nghĩa vụ cấp dưỡng thỏa thuận với nhau về
phương thức và mức đóng góp phù hợp với khả năng thực tế của mỗi người
và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng, nếu không có thỏa thuận thì
PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Đoàn Thị Phương Diệp
SVTH: Lê Thạch Hương Trang
68
yêu cầu Tòa án giải quyết”. Quy định như vậy thì điều luật mới có nội dung
hoàn chỉnh, người đọc có cái nhìn về mặt ý nghĩa thống nhất theo một nghĩa
- Trường hợp khi một người đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, trong
thời gian ngắn đã xin thay đổi mức cấp dưỡng, trong khi đó thời gian này đời
sống của người được cấp dưỡng chưa thật sự thay đổi. Do vậy cần có văn bản
hướng dẫn thời gian tối thiểu có thể thay đổi cấp dưỡng tùy vào từng trường
hợp cụ thể. Đồng thời bên cạnh đó nên quy định thời gian tạm ngừng cấp
dưỡng, nếu hết thời gian này mà không có khả năng cấp dưỡng là có thật thì
xin gia hạn thời gian tạm ngừng cấp dưỡng để nhằm mục đích tạo thuận lợi
cho cuộc sống của người cấp dưỡng và người được cấp dưỡng, tránh trường
hợp có người lợi dụng quy định của điều luật mà nhằm trốn tránh nghĩa vụ
cấp dưỡng cho nên các nhà lập pháp sớm có quy định cụ thể về thời gian tạm
ngừng, căn cứ chấm dứt việc tạm ngừng và cơ sở khôi phục việc tạm ngừng.
- Trong trường hợp vợ chồng sau khi ly hôn, các bên được cấp dưỡng kết
hôn với người khác thì đương nhiên chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng, nhưng vợ
(chồng) không kết hôn mà sống chung như vợ chồng với người khác có con,
lâm vào cảnh khó khăn mà yêu cầu cấp dưỡng thì nên có những quy định
trường hợp này không còn nghĩa vụ cấp dưỡng đối với vợ chồng trước đó
nhằm đảm bảo tính hợp lý. Do đó phải có các quy định chi tiết trong luật hoặc
các văn bản dưới luật về biện pháp xử lý đối với hành vi vi phạm về việc
đóng góp cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn. Đối với các biện pháp để đảm
bảo thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng như: buộc thực hiện nghĩa vụ, xử lý hành
chính, xử lý hình sự.
- Để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng một cách nghiêm chỉnh cần có văn bản
quy định cơ quan thi hành án xử lý trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp
dưỡng che giấu tài sản, chuyển quyền sở hữu có tình không thực hiện nghĩa
vụ cấp dưỡng.
- Có những biện pháp không hề phát huy tác dụng trên thực tế, do đó để
thuận lợi cho việc thi hành án nghĩa vụ cấp dưỡng, pháp luật nên sớm ban
hành những biện pháp thiết thực, thực tế hơn để nhằm răn đe, giáo dục người
có nghĩa vụ để họ ý thức tự giác thực hiện nghĩa vụ.
PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Đoàn Thị Phương Diệp
SVTH: Lê Thạch Hương Trang
69
KẾT LUẬN
Hôn nhân là hiện tượng xã hội đặc biệt, trong đó các chủ thể gắn kết với
nhau với mục đích tạo dựng một tế bào xã hội là gia đình. Khác với các quan
hệ dân sự thông thường, mục đích của các chủ thể trong quan hệ hôn nhân
không phả nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất hoặc tinh thần trong một thời
điểm nhất định mà nhằm xây dựng mối quan hệ lâu dài. Thông thường hôn
nhân là kết quả của tình yêu dựa trên sự tự nguyện của các chủ thể nhằm xây
dựng mối quan hệ bền vững. Sự bền vững này tồn tại cùng với cuộc đời của
các chủ thể và được cũng cố bằng quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi
dưỡng. Tuy nhiên không phải cuộc hôn nhân nào cũng là bền vững chính vì lẽ
đó mà cho đến nay pháp luật của các quốc gia đặc biệt quan tâm điều chỉnh
vấn đề liên quan đến hôn nhân và gia đình. Cấp dưỡng một mặt đề cao trách
nhiệm đùm bọc thương yêu, tương trợ giữa những người thân thích nhất trong
gia đình, mặt khác nhằm phát huy triền thống tốt đẹp “tương thân tương ái”
của các dân tộc Việt Nam trước hết là giữa các thành viên trong gia đình.
Trên cơ sở kế thừa và phát triển các văn bản pháp luật hôn nhân và gia
đình trước đây. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 cùng với văn bản
hướng dẫn đã quy định tương đối đầy đủ các điều kiện phát sinh quyền và
nghĩa vụ cấp dưỡng, chủ thể cấp dưỡng, mức cấp dưỡng, phương thức thực
hiện nghĩa vụ cấp dưỡng,… Tuy nhiên vẫn còn nhiều điểm tồn tại và vướng
mắc do nhiều nguyên nhân cả khách quan lẫn chủ quan. Do ý thức về pháp
luật của người dân chưa cao gây khó khăn rất nhiều trong công tác thi hành án
về cấp dưỡng nuôi con và chủ yếu là sự thiếu trách nhiệm, vô lương tâm của
PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Đoàn Thị Phương Diệp
SVTH: Lê Thạch Hương Trang
70
bậc làm cha, làm mẹ (chủ yếu là người cha) những người đã sẳn sàng chối bỏ
nắm ruột của mình trong cuộc sống mưu sinh còn nhiều thiếu thốn và đầy
cạm bẩy, mà pháp luật cũng như những người làm công tác thi hành án đành
chịu bất lực.
Trên cơ sở những thuận lợi và khó khăn còn tồn tại, để quan hệ cấp dưỡng
thật sự được phát huy tác dụng tích cực của nó trong cuộc sống, để luật Hôn
nhân và Gia đình năm 2000 đi sâu vào đời sống người dân, thực sự là nền
tảng vững chắc nhất để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong
quan hệ hôn nhân gia đình nói chung và trong quan hệ cấp dưỡng nói riêng
thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ
thống pháp luật cần có phương hướng giải thích rõ ràng những vấn đề pháp lý
liên quan đến cấp dưỡng. Đông thời cần phải chú trọng biện pháp tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về hôn nhân và gia đình để mọi người
hiểu và tự nâng cao ý thức, trách nhiệm của mình trước những người thân yêu
nhất trong gia đình làm cho gia đình luôn luôn hạnh phúc và thật sự xứng
đáng là tế bào của xã hội.
PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Đoàn Thị Phương Diệp
SVTH: Lê Thạch Hương Trang
71
MỤC LỤC
&
LỜI CẢM ƠN
NHẬN XÉT CỦA GIAO VIÊN HƯỚNG DẪN
NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG PHẢN BIỆN
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1 ....................................................................................................................................1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CẤP DƯỠNG THEO LUẬT HÔN NHÂN
VÀ GIA ĐÌNH .........................................................................................................................1
1. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA CHẾ ĐỊNH CẤP DƯỠNG............................. 1
1.1. Quan hệ cấp dưỡng trong pháp luật Việt Nam trước Cách mạng Tháng
Tám.............................................................................................................................. 1
1.2. Quan hệ cấp dưỡng trong pháp luật Việt Nam sau Cách mạng Tháng
Tám đến nay. ............................................................................................................... 4
2 KHÁI NIỆM CHUNG VỀ CẤP DƯỠNG .......................................................... 8
2.1. Khái niệm. ............................................................................................................ 8
2.2. Đặc điểm của cấp dưỡng. ................................................................................... 10
3. CHỦ THỂ TRONG QUAN HỆ CẤP DƯỠNG............................................... 15
3.1 Chủ thể phải cấp dưỡng....................................................................................... 15
3.2 Người có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng ..................................... 17
PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Đoàn Thị Phương Diệp
SVTH: Lê Thạch Hương Trang
72
4. CHẾ ĐỊNH CẤP DƯỠNG TRONG LUẬT MỘT SỐ NƯỚC SO VỚI
LUẬT VIỆT NAM................................................................................................... 19
Nhìn chung, hệ thống pháp luật của nước Anh so với hệ thống Pháp Luật Việt
Nam về chế định cấp dưỡng có những điểm khác nhau. Song, chế định cấp
dưỡng ở hai hệ thống pháp luật điều có ưu điểm và nhược điểm riêng phù hợp
với tình hình kinh tế cũng như đời sống của người dân ở mỗi nước. Có thể nói,
chế định cấp dưỡng của pháp luật Việt Nam có phần chặc chẽ hơn so với pháp
luật một số nước khác điển hình là nước Anh, mà tầm cấp dưỡng cũng bao
quát hơn. Ở pháp luật nước Anh chỉ tìm thấy “Cấp dưỡng tài chính cho vợ
chồng khi ly hôn” hoặc “Cấp dưỡng tài chính cho trẻ em khi sống chung với
cha mẹ” mà những quy định đó theo Pháp luật Việt Nam thì đã được tồn tại từ
rất lâu. ........................................................................................................................ 20
5. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ GIÁ TRỊ CỦA CHẾ ĐỊNH CẤP DƯỠNG ............. 21
CHƯƠNG 2 ................................................................................................................................23
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUAN HỆ
CẤP DƯỠNG THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH................................23
1.Cơ chế xác lập quan hệ cấp dưỡng ..................................................................... 24
1.1.Xác lập quan hệ cấp dưỡng theo thoả thuận ....................................................... 24
1.2.Xác lập quan hệ cấp dưỡng bằng con đường toà án............................................ 24
2. NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ CẤP DƯỠNG ........................................ 25
2.1. Điều kiện phát sinh trong quan hệ cấp dưỡng.................................................... 25
2.2 Mức cấp dưỡng.................................................................................................... 28
2.3 Phương thức thực hiện cấp dưỡng....................................................................... 31
3. CÁC QUY ĐỊNH VỀ VIỆC CẤP DƯỠNG TRONG CÁC TRƯỜNG HỢP
CẤP DƯỠNG CỤ THỂ .......................................................................................... 35
3.1 Các trường hợp cấp dưỡng đặc biệt. ................................................................... 35
3.2 Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa các thành viên trong gia đình..................................... 39
3.3. Những vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. ........... 49
CHƯƠNG 3 ................................................................................................................................59
NHỮNG VẤN ĐỀ TỒN TẠI, VƯỚNG MẮC TRONG CÁC QUY
ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHẾ ĐỘ CẤP DƯỠNG VÀ HƯỚNG
HOÀN THIỆN........................................................................................................................59
1. NHỮNG ĐIỂM TỒN TẠI VƯỚNG MẮC TRONG CÁC QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT VỀ CHẾ ĐỘ CẤP DƯỠNG. ......................................................... 59
2.NHỮNG KIẾN NGHỊ, HƯỚNG HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT VỀ CHẾ ĐỘ CẤP DƯỠNG .......................................................... 65
KẾT LUẬN..............................................................................................................................69
PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Đoàn Thị Phương Diệp
SVTH: Lê Thạch Hương Trang
73
PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật Dân sự năm 1995
2. Bộ luật Dân sự năm 2005
3. Bộ Luật Hình sự năm 1999
4. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959
5. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986
6. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000.
7. Hiến pháp nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam năm 1992
8. Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 quy định chi tiết thi hành
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000.
9. Nghị định số 87/2001/NĐ-CP ngày 21/11/2001 về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực Hôn nhân và Gia đình.
10. Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 20/01/1988 của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao.
11. Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn một số quy định của Luật Hôn nhân
và Gia đình năm 2000.
12. Chỉ thị số 15/2000/CT-TTg ngày 09/8/2000 của Thủ tướng Chính phủ về
việc tổ chức thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000
13. Pháp lệnh Thi hành án Dân sự năm 2004
14. Sắc lệnh số 156/SL ngày 17/11/1950 quy định về vấn đề ly hôn
15. Thông tư liên tịch số 01/2001/TTNT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC
ngày 25/9/2001 hướng dẫn áp dụng các quy định tại chương XV (các tội xâm
phạm chế độ Hôn nhân và Gia đình) của Bộ luật Hình sự 1999
16. Đinh Thị Phương Mai. Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và Gia đình, Bộ
TưPháp, NXB Chính trị Quốc Gia.
17. Ngô Thị Hường. Bài “Mối quan hệ giữa nghĩa vụ nuôi dưỡng và nghĩa vụ
cấp dưỡng trong Luật Hôn nhân và Gia đình. Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số
4/2005.
18. Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Điện. Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và Gia
đình. Tập I- Gia đình. NXB Trẻ TP.HCM.
19. Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Điện. Giáo trình Luật Hôn nhân và Gia đình Việt
Nam. Phần I- Gia đình-2001.
PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version
20. Nguyễn Ngọc Điệp. HỏI đáp về ly hôn, cấp dưỡng,nuôi con và chia tài sản
của vợ chồng
21. Ngô Thị Hường. Bài “Mối quan hệ giữa nghĩa vụ nuôi dưỡng và nghĩa vụ
cấp dưỡng trong Luật Hôn nhân và Gia đình. Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số
4/2005.
22. Family Law.Second Edition. Jonathan Herring. Exeter College Oxford
University.
23. Children’s Rights anh the Developing Law. Jan Fortin LLB, Solicitor
Professor of Law, King’s College, London.
24. Nguyễn Phương Lan. “ Nghĩa vụ cấp dưỡng trong luật Hôn nhân và Gia
đình năm 2000. Tạp chí Luật học số 1/ 2005.
25. Phan Đặng Thanh, Trương Thị Hòa. Pháp luật Hôn nhân và Gia đình xưa
và nay, Nhà xuất bản Trẻ.
26. Đinh Công Tráng. Bài “Một số vấn đề cấp dưỡng nuôi con trong thi hành
án”. Tạp chí Tòa án nhân dân số 4/2003.
27. Nguyễn Thị Tuyết. Bài “ Người chồng có phạm tội từ chối hoặc trốn tránh
nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con hay không?”. Tạp chí Tòa án nhân dân số 4/2001.
PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- QUAN H7878 C7844P D4317904NG TRONG LU7852T Hamp212N NHamp194N Vamp192 GIA 272amp.PDF