Luận văn Sự khủng hoảng và tan rã của Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Nam Tư (từ 1991 đến nay)

Phần mở đầu I. Lí do chọn đề tài Sự suy yếu, khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư là một đề tài mang tính khoa học cao. Sự tan rã của Nam Tư đã để lại nhiều hậu quả nhất trong lịch sử Châu Âu từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Đây cũng là một vấn đề đầy phức tạp do tính chất đa sắc tộc, đa tôn giáo ở Liên bang này. Nam Tư cũng là một điểm nóng trong sinh hoạt chính trị của châu Âu nói riêng và của cả thế giới nói chung. Sự khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư đã kết thúc với việc Montenegro độc lập, tách khỏi Serbia – Montenegro vào tháng 6 năm 2006. Tuy nhiên, vấn đề Kosovo vẫn chưa đi đến hồi kết và những vấn đề đương đại của các quốc gia thuộc Liên Bang Nam Tư trước đây cũng không hề dễ giải quyết. Mặt khác, Liên bang Nam Tư là một nhà nước Liên bang theo chế độ xã hội chủ nghĩa. Do đó, nghiên cứu sự suy yếu, khủng hoảng và tan rã của Nam Tư có ý nghĩa không kém phần quan trọng đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Như vậy, đề tài này không những mang tính lí luận cao mà ý nghĩa thực tiễn cũng không hề nhỏ chút nào. Đó cũng chính là lí do em chọn đề tài này. II. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Đây là một trong những đề tài khá phức tạp. Từ trước đến nay, không có nhiều những tác phẩm nghiên cứu về đề tài này. Tuy nhiên, có thể kể đến công trình nghiên cứu của Phan Thị Kim Oanh “Bước đầu tìm hiểu sự khủng hoảng và tan rã của Liên bang cộng hòa xã hội chủ nghĩa Nam Tư qua các tài liệu ở Việt Nam (từ năm 1991 đến nay)”, khóa luận tốt nghiệp năm 2001, khoa Lịch Sử, trường Đại học sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Công trình nghiên cứu này đã đề cập tương đối đầy đủ về sự tan rã của Nam Tư cũng như việc Phạm Tiến Dũng Sự khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư (từ năm 1991 đến nay) Trang 4 phân tích những nguyên nhân dẫn đến quá trình này. Tuy nhiên, do thời điểm tác giả hoàn thành khóa luận vào năm 2001 nên không thể nghiên cứu tiếp quá trình tan rã của Nam Tư, trong đó có vấn đề Montenegro tách khỏi Serbia vào hè năm 2006 cũng như sự biến Kosovo tự tuyên bố độc lập vào tháng 2 năm 2008 cùng những hệ lụy của nó. Lý Thái Hùng, Đông Âu tại Việt Nam. Đây là tác phẩm được xuất bản tại nước ngoài (2007). Nội dung đề cập đến sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa tại các nước Đông Âu, trong đó có Liên Bang Nam Tư. Phần viết về Nam Tư, nội dung phong phú. Tác giả ngoài việc cung cấp sự khủng hoảng và tan rã của các nước trong Liên Bang Nam Tư, còn đưa ra nhận định về các nguyên nhân dẫn đến sự khủng hoảng và tan rã đó. Tuy nhiên, trong phần nội dung “so sánh Đông Âu và Việt Nam”, quan điểm của tác giả mang tính chống chủ nghĩa xã hội. Đây cũng là nguyên nhân chủ yếu khiến cho cuốn sách này chưa được xuất bản tại Việt Nam. Bên cạnh đó, tuy không tập trung sâu vào đề tài song một số tài liệu khác có liên quan đến một phần của đề tài, có thể kể đến như: Nguyễn Văn Dương (2004), Tìm hiểu các nước trên thế giới, Nxb. Văn hóa thông tin. Nguyễn Văn Dân (2004), Biên niên sử thế giới, Nxb. Khoa học xã hội. Cao Liên (2007), Lịch sử 200 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, Nxb. Lao động. Bùi Đức Tịnh (1996), Lịch sử thế giới, Nxb. Văn hóa. Lê Xuân Đỗ (2006), Thế giới sự kiện, Nxb.Trẻ. Từ Thiên Tân, Lương Chí Minh (2002), Lịch sử thế giới thời đương đại, tập 6 (1945 – 2000), Nxb.Thành phố Hồ Chí Minh. Nội dung chủ yếu của những tác phẩm trên là lịch sử của các nước thuộc Liên bang Nam Tư trước khi nằm trong Liên bang này, từ thời dựng nước đến những năm đầu sau Chiến tranh Thế gới thứ nhất. Lê Phụng Hoàng (2005), Lịch sử quan hệ quốc tế ở châu Âu trong chiến tranh lạnh (1949 – 1991), Trường Đại học Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh: tài liệu đề cập đến một phần của quá trình hình thành cũng như tan rã của Phạm Tiến Dũng Sự khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư (từ năm 1991 đến nay) Trang 5 Nam Tư từ sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất đến năm 1992. Tuy nhiên, nội dung chưa thật sự chuyên sâu. Mặt khác, tác giả chưa đề cập đến tình hình của Nam Tư sau khi tan rã vào những năm đầu thế kỉ XXI, đặc biệt do tài liệu được xuất bản vào năm 2005 nên chưa thể trình vày về sự tan rã tiếp theo của Serbia – Montenegro cũng như vấn đề Kosovo. Nguyễn Minh Bình, Nguồn gốc của cuộc khủng hoảng ở Kosovo năm 1998 – 1999, nghiên cứu châu Âu, số 11 (2007): tác giả đề cập đến quá trình hình thành và phát triển của Liên bang Nam Tư đồng thời tập trung sâu vào việc nghiên cứu nguồn gốc và mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo ở Kosovo. Trên cơ sở đó, tác giả rút ra kết luận về sự phức tạp của Kosovo do những mâu thuẫn nội tại, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến an ninh của không chỉ riêng Kosovo, Serbia mà cả Bancăng và châu Âu. Đồng thời, tài liệu của Thông tấn xã Việt Nam ( tài liệu tham khảo đặc biệt, tin tham khảo chủ nhật, thông tin tư liệu) cũng nói khá nhiều về vấn đề này nhưng ở dạng những bài viết mang tính thời sự, rời rạc song khá đầy đủ và toàn diện, có thể kể đến như: Tình hình Nam Tư, TTXVN, Tài liệu tham khảo đặc biệt, số 116, ra ngày 23 – 5 – 2003; Tình hình khu vực Bancăng, TTXVN, Tài liệu tham khảo đặc biệt, số 242, ra ngày 19 – 10 – 2001; Montenegro trước ngày bầu cử, TTXVN, Tài liệu tham khảo đặc biệt,số 92, ra ngày 24 – 4 – 2001; Về nhà nước chung Serbia – Montenegro, TTXVN, Tài liệu tham khảo đặc biệt, số 13, ra ngày 29 – 5- 2002; Macedonia: Bên miệng hố chiến tranh, TTXVN, Tài liệu tham khảo đặc biệt, số 73, ra ngày 02 – 4 – 2001; Phạm Tiến Dũng Sự khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư (từ năm 1991 đến nay) Trang 6 Châu Âu với các nước khu vực Bancăng, TTXVN, Tài liệu tham khảo đặc biệt, số 121 – 2005 III. Phạm vi nghiên cứu Bài tiểu luận chủ yếu xoay quanh vấn đề khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư trong khoảng thời gian từ năm 1991 đến những năm đầu thế kỉ XXI. Do đây là một đề tài phức tạp cộng với sự hạn chế về trình độ nên việc nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở việc bước đầu tìm hiểu sự suy yếu, khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư. Mặc dù quá trình này đã kết thúc nhưng tác giả cũng cố gắng cập nhập thêm những thông tin cần thiết như sự biến Kosovo tự tuyên bố độc lập vào tháng 2 năm 2008 cùng những vấn đề chất chứa của lịch sử. Ngoài ra, đề tài còn đề cập khái quát về lịch sử các nước thuộc Liên bang Nam Tư từ khi lập nước đến khi thuộc Liên bang này. IV. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic - hai phương pháp cơ bản trong khoa học Lịch Sử. Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng thêm một số phương pháp như phương pháp phân tích và tổng hợp lí thuyết, phương pháp phân loại và hệ thống hóa lí thuyết. Tất cả những phương pháp trên đều nhằm mục đích giúp việc nghiên cứu đề tài một cách khoa học hơn, có hệ thống và mang tính toàn diện hơn. V. Cấu trúc đề tài Đề tài gồm 3 chương: Chương I: Khái quát về sự hình thành và phát triển của Liên bang Nam Tư Nội dung chương này gồm 2 phần: Thứ nhất, vài nét về lịch sử các nước trong Liên bang Nam Tư từ khi lập nước đến hết chiến tranh thế giới lần thứ nhất; Thứ hai, sự hình thành và phát triển của Liên bang Nam Tư từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất đến trước năm 1991. Chương II. Sự khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư (1991-đến nay) Nội dung gồm 2 phần thông qua việc trình bày sự tan rã của Nam Tư qua 2 giai đoạn: từ 1991 - 1992 và từ 1992 đến nay; Giai đoạn 1991 – 1992: sự tách ra của Slovenia và Croatia, của Macedonia cũng như Bosnia – Herzegovina và sự thành lập Nam Tư mới, gồm Serbia và Montenegro. Giai đoạn 1992 đến nay: nhà nước Nam Tư mới từ khi tồn tại đến cho kết thúc vào năm 2006. Vấn đề Kosovo và những vấn đề cơ bản của các quốc gia khác sau khi tách khỏi Liên Bang Nam Tư. Chương III: Kết luận Thông qua quá trình nghiên cứu đề tài,tác giả rút ra nguyên nhân và hậu quả của sự khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư. Trên cơ sở đó, rút ra một số bài học kinh nghiệm trong quá trình xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Mục lục Lời cảm ơn . 1 Mục lục 2 Phần mở đầu . 3 Chương I : Khái quát về sự hình thành và phát triền của Liên Bang Nam Tư 8 I. Vài nét về lịch sử các nước trong Liên Bang Nam Tư từ khi lập nước đến hết chiến tranh thế giới lần thứ nhất . 8 II. Sự hình thành và phát triển của Liên bang Nam Tư từ sau CTTG thứ nhất đến trước năm 1991 14 Chương II. Sự khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư . (1991 - đến nay) 32 I. Sự suy yếu, khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư những năm 1991-1992 32 II. Giai đoạn từ năm 1992 đến nay 48 Chương III: kết luận . 83 I. Nguyên nhân khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư . 83 II. Hậu quả . 85 III. Một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong quá trình xây dựng và bảo vệ nhà nước xã hội chủ nghĩa 94 Phụ lục . 95 Tài liệu tham khảo . 117 Phạm Tiến Dũng Sự khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư (từ năm 1991 đến nay) Trang 3

pdf121 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2418 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Sự khủng hoảng và tan rã của Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Nam Tư (từ 1991 đến nay), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ày, tổng thống Kiro Gligorov thoát chết trong một vụ mưu sát. Nhiều giả thiết cho rằng người Anbani có liên quan đến vụ mưu sát này. Năm 1997, người Anbani tháo bỏ cờ Macedonia và căng cờ Anbani trên tòa nhà chính ở Têtôvô và Gostivar. Cảnh sát đã được điều động đến đây và xung đột lại xảy ra ở Gostivar. Một năm sau, một loạt vụ đánh bom vào các đồn cảnh sát và tòa án đã xảy ra. Tổ chức của người Anbani “Quân đội giải phóng quốc gia” đứng ra nhận trách nhiệm về những vụ này. Năm 1999, cuộc khủng hoảng ở Kosovo đã dẫn đến việc 360 000 người sắc tộc Anbani phiêu bạt tới các tỉnh của Serbia và nước láng giềng Macedonia. Căng thẳng về sắc tộc gia tăng với việc đa số người Slavơ sợ rằng sẽ có hậu quả xấu do sự gia tăng số lượng lớn người Anbani tại đây. Hầu hết số người Anbani sau đó đã đến đất nước thứ ba hoặc trở lại quê hương. Theo Phó Tiến sĩ Sử học X. Rômanencô 48, đã 3 thế kỉ nay, Macedonia là mảnh đất hấp dẫn đối với người Serbia, Bungari, Hy Lạp và nay là những kẻ theo tư tưởng dân tộc chủ nghĩa Anbani. Tất cả đều muốn sáp nhập Macedonia. Do đó, Macedonia luôn là điểm nhạy cảm trong đời sống chính trị ở châu Âu và trên thế giới. 48 Cán bộ Viện kinh tế thế giới và quan hệ quốc tế, Viện hàn lâm khoa học Nga Phạm Tiến Dũng Sự khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư (từ năm 1991 đến nay) Trang 77 Cũng vào cuối thế kỉ XX, vấn đề quyền tự quyết dân tộc của người Anbani 49 lại nổi lên. Phong trào dân tộc Anbani đang tìm cách lập một nhà nước đơn sắc tộc bao trùm tất cả vùng lãnh thổ mà họ cho là của mình. Tuy nhiên, việc thành lập một nhà nước đơn sắc tộc là một việc rất khó thực hiện. Do đó, người Anbani cho rằng, ngoài cách sử dụng chiến tranh và thanh lọc sắc tộc thì không còn con đường nào khác. Và cũng từ đây, vấn đề Macedonia và Anbani đan xen vào nhau một cách chặt chẽ. Những năm gần đây, Macedonia đã trở thành nơi trú ẩn chính của những người Anbani từ Kosovo. Đầu tiên là để tránh khỏi sự đàn áp của cảnh sát và lực lượng đặc nhiệm Serbia. Sau đó là của các chiến binh Anbani, buộc dân chúng phải rời nơi mình ở để lấy cớ cho NATO ném bom Nam Tư và sau cùng là chạy tránh chính cuộc ném bom đó. Sự cân bằng chính trị vá sắc tộc ở Macedonia bị đảo lộn, tại các trại tị nạn của người Anbani, người ta ngày càng tuyên truyền mạnh về việc cần phải thành lập một “Nhà nước Đại Anbani thống nhất”. Càng ngày, người Anbani ở Macedonia càng đưa ra nhiều yêu sách cho chính quyền ở đây dù nước này đã thực hiện chính sách dân tộc ôn hòa. Cuộc xung đột tại Kosovo năm 1999 đã mở màn cho cuộc nội chiến mới ở Nam Tư. Đầu năm 2001, các nhóm khủng bố gốc Anbani mở rộng mục tiêu li khai ra ngoài Kosovo và tấn công cả vùng đệm ở biên giới phía nam Serbia lẫn miền bắc cộng hòa Macedonia. Tình hình ở vùng biên giới Macedonia trở nên nóng bỏng vì các hoạt động quân sự leo thang của quân khủng bố gốc Anbani. Cuộc xung đột kéo dài gần 6 tháng đã làm hàng trăm người bị chết và bị thương, 120 000 người phải rời bỏ quê hương đi lánh nạn. Ngày 13/8/2001, các bên ở Macedonia kí bản kế hoạch hòa bình Ôrít nhằm tháo ngòi nổ của một cuộc nội chiến. Nội dung chính bao gồm các điều 49 Một dân tộc do sự phát triển của lịch sử đã bị phân tán ở nhiều nơi, gồm các nước Nam Tư mới ( Serbia và Montenegro), Macedonia , Hy Lạp và Anbani Phạm Tiến Dũng Sự khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư (từ năm 1991 đến nay) Trang 78 khoản nhằm bình thường hóa đời sống chính trị, tiến tới cải cách hiến pháp và tổ chức bầu cử trước thời hạn. Hiệp định hòa bình cũng thừa nhận nhiều hơn quyền hạn của người gốc Anbani ở Macedonia trong Quốc hội, ngành cảnh sát và cả ngành giáo dục. Tiếng Anbani sẽ trở thành ngôn ngữ chính thức, bình đẳng với tiếng Macedonia. Cảnh sát phải thu nhận thêm hàng nhàn người gốc Anbani. Đổi lại, người Anbani sẽ phải chấm dứt hoạt động vũ trang chống đối, giao nộp vũ khí cho binh sĩ NATO được triểen khai để giải giáp vũ khí của các nhóm du kích gốc Anbani. Trải qua 3 năm, việc thực hiện những điều khoản của hiệp định này từng bước ổn định tình hình Macedonia. Tuiy nhiên, bất đồng sắc tộc vẫn cứ tiếp tục, là một điểm đen ảnh hưởng lớn đến tình hình của nước cộng hòa này. Tháng 9/2003, tình hình Macedonia lại trở nên căng thẳng do hoạt động quân sự chống đối leo thang của các nhóm du kích gốc Anbani đòi li khai. Tình hình lại càng trở nên nghiêm trọng khi vào tháng 7/2004 đã xảy ra các vụ đụng độ nghiêm trọng nhất kể từ khi các lực lượng chính trị kí hiệp định hòa bình Ôrít. Và nguyên nhân của việc này cũng vẫn là mâu thuẫn sắc tộc. Các cuộc biểu tình chống chính phủ, gây bất ổn bắt nguồn từ việc thực hiện những điều khoản cuối cùng của hiệp định hòa bình Ôrít. Các nguồn tin nước ngoài đã cho rằng, đây là hành động phản đối dự luật phân chính trị của các chính đảng trong chính phủ liên hiệp ở Macedonia, trong đó, quy định quyền lực của người gốc Anabni tại các cơ quan, chính quyền địa phương tăng lên. Cho đến nay, nhiều cuộc thử nghiệm về khả năng hòa giải dân tộc ở Macedonia được tổ chức như: chính phủ tăng thêm quyền lực cho chính quyền địa phương, bầu cử chính quyền địa phương… song mọi bất đồng giữa hai cộng đồng sắc tộc tại đây vẫn chưa được giải quyết. Theo các nhà phân tích, các cuộc xung đột sắc tộc có liên quan đến cộng đồng người Anbani tại khu vực Bancăng đều do phương Tây hậu thuẫn, Phạm Tiến Dũng Sự khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư (từ năm 1991 đến nay) Trang 79 với mục tiêu là suy yếu nhà nước Nam Tư trước đây. Tuy nhiên, phuơng Tây hiện nay lại tỏ ra không hào hứng với cuộc xung đột ở Macedonia. Các nước phương Tây luôn gây sức ép về chính trị, kinh tế và cả ngoại giao với chính quyền Macedonia và các chính đảng của người gốc Anbani ở nước này để các bên liên quan tuân thủ việc thực thi toàn bộ hiệp định hòa bình Ôrít. Họ khẳng định việc tuân thủ hiệp định này là điều kiện tiên quyết để Macedonia có thể gia nhập EU và NATO cũng như nhận được viện trợ của nước ngoài. Các nhà quan sát cho rằng, chính quyền Macedonia đang phải đối mặt với nhiều thách thức lớn. Ngoài nhiệm vụ tái hòa hợp dân tộc, còn phải giải quyết nạn thất nghiệp cao và thúc đẩy kinh tế đất nước tăng trưởng nhằm cải thiện đời sống của người dân. Phạm Tiến Dũng Sự khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư (từ năm 1991 đến nay) Trang 80 4. Cộng hòa Slovenia và Croatia Trong năm 1992 - 1993, tuy không còn chiến tranh mở rộng nữa nhưng hòa bình còn ở xa. Dù cuộc sống trở lại bình thường đối với đại bộ phận 4,7 triệu người dân nước này và nền độc lập của nước này đã được cộng đồng châu Âu công nhận ngày 15/01/1992 song Croatia vẫn ở trong tình trạng khó khăn với 1/4 lãnh thổ bị các lực lượng Serbia của nước cộng hòa tự tuyên bố Krajina đến chiếm đóng và là nơi đã được gửi khoảng 14 000 quân lính mũ nồi xanh trong khuôn khổ của Forpronu 50 để bảo đảm lệnh ngừng bắn mỏng manh và việc thực hiện kế hoạch Vance. Kế hoạch dự trù giải giáp những đội dân quân Serbia, kiểm soát những vũ khí hạng nặng của họ và hồi hương 252 000 người Croatia về nhà của họ. Một năm sau khi tuyên bố độc lập, sự chia cắt kinh tế và cuộc nội chiến đã làm cho nước cộng hòa này thiết hại ít nhất 20 tỉ USD. Trong hơn một năm qua, kinh tế Croatia lao nhanh xuống vực với đội quân thất nghiệp lên đến 262 000 người, tỉ lệ lạm phát có tháng lên tới 30%. Những hậu quả chiến tranh tiếp tục đè nặng lên đất nước này. Croatia phải tiếp nhận gần 600 000 người tị nạn ở Bosnia. Mặt khác, họ luôn bị các nhà cầm quyền Zagreb đe dọa trừng phạt bởi tội diệt chủng trước đây. Tuy nhiên, tình hình hiện nay dần ổn định. Cộng hòa Slovenia là nước có trình độ phát triển cao nhất Nam Tư trước đây và sau nội chiến ngắn ngày năm 1991 hầu như không còn dính líu vào chiến sự diễn ra ở khu vực này song Slovenia vẫn đang phải đương đầu với hàng loạt khó khăn. Việc đòi độc lập đã không đem lại sự thịnh vượng kinh tế như người ta mong đợi. Trái lại, nó đã phá vỡ mối quan hệ kinh tế truyền thống và qua đó làm suy sụp nền tảng công nghiệp nước này. Tách khỏi Nam Tư, Slovenia không những mất đi một thị trường tiêu thụ rộng lớn mà còn mất 50 Lực lượng bảo hộ của Liên Hiệp Quốc Phạm Tiến Dũng Sự khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư (từ năm 1991 đến nay) Trang 81 luôn cả một vùng cung cấp nguyên liệu rẻ. Sản lượng công nghiệp không ngừng hạ, tỉ lệ thất nghiệp có nguy cơ lên đến 30% với khoảng 130 000 người. Tuy nhiên, Slovenia đã thành công trong việc xa lánh chiến tranh Nam Tư cũ và tiếp tục hòa nhập một cách chậm chạp vào châu Âu. Chính phủ thành lập vào tháng 1/1993 đặt ra 2 mục tiêu, đó là củng cố sự ổn định chính trị và bảo đảm việc khôi phục nền kinh tế bị suy thoái nghiêm trọng. Ngày 6/12/1992, Slovenia tổ chức tổng tuyển cử. Milan Kucan lên làm tổng thống với 23, 3% số phiếu. Đảng Dân chủ tự do đã thống trị chính phủ Liên hiệp bất ngờ là do những ngưởi theo chủ nghĩa dân tộc của Đảng Dân tộc Slovenia chỉ nhận được 9, 9% số phiếu bầu trên cơ sở vận dụng chủ trương bài ngoại, nhất là đối với 70 000 người tị nạn trong cuộc xung đột diễn ra tại Nam Tư cũ. Do đó, cải cách chính trị bị chậm lại. Trong khoảng thời gian 1992 - 1993, sản xuất công nghiệp giảm 13, 6%, tỉ lệ thất nghiệp lên đến 13,4% vào cuối tháng 01/1993.. Những năm 1995 và 1999, Slovenia phải chịu gánh nặng của hang nghìn người tị nạn đổ về từ Kosovo. Điều này đã ảnh hưởng không ngỏ đến nền kinh tế của đất nước này. Nước cộng hòa đầu tiên thuộc Nam Tư cũ gia nhập Liên minh Châu Âu là Slovenia, nộp đơn năm 1996 và trở thành một thành viên năm 2004. Croatia đã nộp đơn xin gia nhập năm 2003, và có thể trở thành thành viên 2010. Cộng hòa Macedonia nộp đơn năm 2004, và có thể gia nhập trong giai đoạn 2010– 2015. Bốn nước cộng hòa còn lại còn chưa nộp đơn gia nhập nên nói chung họ khó có thể trở thành thành viên trước năm 2015. Các quốc gia này tham gia nhiều thỏa thuận đối tác với Liên minh Châu Âu. Ngoại trưởng các nước Liên minh châu Âu (EU) ngày 28 - 3 - 2009 đã tuyên bố ủng hộ mạnh mẽ các nước Tây Balkan gia nhập EU, bất chấp những lo ngại việc phê chuẩn một hiệp ước cải cách cho phép mở rộng khối này có thể bị trì hoãn. Tuyên bố trên được đưa ra trong cuộc họp ngoại trưởng EU Phạm Tiến Dũng Sự khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư (từ năm 1991 đến nay) Trang 82 diễn ra hai ngày tại khu vực miền Nam Cộng hòa Séc. Ông Karel Schwarzenberg, Ngoại trưởng Séc, nước đang giữ chức Chủ tịch luân phiên EU, cho rằng các nước Balkan là một phần của châu Âu và do đó, những nước này cũng phải là một phần của EU. Mới đây, Thủ tướng Đức Angela Merkel đã kêu gọi tạm ngừng việc mở rộng EU, sau khi Croatia, một nước Balkan, có thể gia nhập khối này trong một vài năm tới. Tuy nhiên, ý tưởng trên của Thủ tướng Merkel đã vấp phải sự phản đối kịch liệt của Ngoại trưởng Thụy Điển Carl Bildt. Ông cảnh báo rằng việc "đóng sầm cánh cửa" gia nhập EU trước mắt các nước Tây Balkan sẽ tạo ra những hậu quả thảm họa cho khu vực. Sau các cuộc thảo luận giữa 27 nước EU, cuối ngày 28 - 3 - 2009, các ngoại trưởng EU gặp những người đồng cấp các nước có triển vọng gia nhập EU ở Balkan gồm Albani, Bosnia và Herzegovina, Croatia, Macedonia, Montenegro và Serbia. Tuy nhiên, các ngoại trưởng EU cũng cho rằng cuộc khủng hoảng kinh tế-tài chính hiện nay có thể ảnh hưởng tới tiến trình các nước Balkan gia nhập khối. Ngoài ra, cũng có nhiều mối lo ngại cho rằng việc phê chuẩn Hiệp ước Lisbon về cải cách thể chế của EU, được thiết kế nhằm cho phép mở rộng khối (vốn đã tăng từ 15 lên 27 thành viên kể từ năm 2004), có thể bị trì hoãn. Ngày 24 - 3 - 2009, Chính phủ liên minh ba đảng của Thủ tướng Cộng hòa Séc Mirek Topolanek đã không vượt qua được cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm tại Hạ viện. Hiện vẫn chưa rõ khi nào Séc sẽ thành lập được nội các mới. Trong khi đó, Cộng hòa Séc là một trong số ít nước vẫn phải phê chuẩn Hiệp ước Lisbon, bản hiệp ước phải được tất cả 27 thành viên EU thông qua mới có hiệu lực. Phạm Tiến Dũng Sự khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư (từ năm 1991 đến nay) Trang 83 Chương III: kết luận I. Nguyên nhân khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư Sự suy yếu, khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư xuất phát từ những mâu thuẫn bên trong về sắc tộc, tôn giáo, kinh tế - chính trị và cả sự can thiệp từ các thế lực bên ngoài. 1. Những mâu thuẫn bên trong: a. Thứ nhất, mâu thuẫn về sắc tộc và tôn giáo: Nam Tư được hình thành từ một cộng đồng gồm nhiều quốc gia, sắc tộc, tôn giáo khác nhau. Về sắc tộc có người Serbia, Croatia, Hồi giáo, Thổ Nhĩ Kỳ, Bosnia...Về tôn giáo cũng không kém phần phức tạp; người Serbia theo Chính thống giáo, người Croatia theo Thiên chúa giáo, người Bosnia theo Hồi giáo, trong đó bao gồm cả những yếu tố phát sinh từ những vận mệnh lịch sử rất khác nhau. Do đó, nó quá mỏng manh, quá mới mẻ, thật khó mà kết tinh lại thành một khối thống nhất trong sự vững mạnh được. b. Thứ hai, xuất phát từ sự khủng hoảng về kinh tế - chính trị: Những năm 80 của thế kỉ XX, Nam Tư phải đối mặt với cuộc khủng hoảng kinh tế. Lúc này, xuất hiện hai biện pháp giải quyết khủng hoảng kinh tế khác nhau. Một là, Slovenia coi việc đẩy mạnh cải cách và phi tập trung hóa là con đường thoát khỏi khủng hoảng . Hai là, Serbia lại cho rằng khủng hoảng kinh tế hiện tại chính là kết quả của việc phi tập trung hóa đã có từ thời Tito. Sau đó, Milosevic đã từ chối cải cách dẫn đến mâu thuẫn này thêm sâu sắc. Mặt khác, cũng trong thời gian này, đã xảy ra một biến cố lớn trong lịch sử Liên bang Nam Tư. Năm 1980, Tito qua đời, Nam Tư không có một lãnh tụ nào đủ uy tín để thay thế. Quyền lãnh đạo cao nhất chuyển sang chế độ tập thể 8 người là những đại diện của 6 nước cộng hòa và hai tỉnh tự trị hàng năm Phạm Tiến Dũng Sự khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư (từ năm 1991 đến nay) Trang 84 luân phiên giữ chức chủ tịch. Năm 1990, Liên đoàn những người Cộng sản Nam Tư tan vỡ thành nhiều đảng dân tộc chủ nghĩa. 2. Những tác động từ bên ngoài Song song với quá trinh suy yếu, khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư là sự can thiệp của các thế lực bên ngoài. Mỹ và các nước Đồng minh đã thật sự can thiệp trực tiếp vào công việc nội bộ của Nam Tư làm cho tình hình vốn căng thẳng lại càng thêm phức tạp, rối loạn. Trong khi đó, mối quan hệ giữa Nam Tư - Anbani cũng góp phần không nhỏ vào quá trình ấy. Anbani muốn thiết lập một nhà nước “Đại Anbani”, muốn sáp nhập tỉnh tự trị Kosovo thuộc Serbia – nơi mà người Kosovo gốc Anbani chiếm đa số vào lãnh thổ của mình. Phạm Tiến Dũng Sự khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư (từ năm 1991 đến nay) Trang 85 II. Hậu quả Liên Bang Nam Tư tan rã với sự kiện ngày 25 – 6 – 1991 khi mà cả hai nước Slovenia và Croatia cùng tuyên bố độc lập, kết thúc với việc nhà nước Montenegro tách khỏi Serbia – Montenegro ngày 03 – 6 -2006. Dù rằng vào ngày 17 – 02 – 2008, Kosovo đơn phương tuyên bố độc lập nhưng đó là chuyện nội bộ của Serbia, với tư cách là một tỉnh tự trị thuộc Serbia. Sự khủng hoảng và tan rã của Liên Bang Nam Tư đã để lại những hâu quả vô cùng nghiêm trọng. chúng ta sẽ dễ nhận ra điều này khi phân tích “điểm nóng Kosovo” Với việc Kosovo đơn phương tuyên bố độc lập, Châu Âu có thêm một nhà nước mới, nhưng điều đó hoàn toàn không có nghĩa rằng vấn đề Kosovo đã được giải quyết. Nếu như cách đây không lâu, việc thành lập ra Nhà nước Đông Timor được coi là kết quả của hoạt động "xây dựng nhà nước" của LHQ, thì Nhà nước Kosovo hiện tại được coi là sản phẩm của Mỹ và EU. Từ đó có thể thấy, việc Kosovo đơn phương tuyên bố độc lập chỉ có thể là một diễn biến mới trong quá trình giải quyết vấn đề Kosovo mà những hệ lụy nảy sinh từ đó khiến cho vấn đề này trở thành vấn đề khác cả về bản chất lẫn biểu hiện. Thứ nhất, có thể thấy được từ đó liên quan đến cơ sở pháp lý quốc tế của nền độc lập của quốc gia mới thành lập. Cơ sở pháp lý quốc tế cho việc thành lập Nhà nước Đông Timor là quyết định của LHQ, còn trong trường hợp Kosovo lại không phải vậy. Nếu không có được cam kết hậu thuẫn trước đó của Mỹ và EU thì chính quyền hiện tại ở tỉnh tự trị này không dám nếu như không muốn nói là không thể đơn phương tuyên bố độc lập. Bởi việc đơn phương tuyên bố độc lập thuần tuý đơn giản và dễ dàng hơn nhiều so với việc giải quyết những vấn đề về chính trị, kinh tế, an ninh và xã hội đối với Kosovo sau khi tuyên bố độc lập, đặc biệt để đối phó với những cấp độ phản ứng của Serbia. Phạm Tiến Dũng Sự khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư (từ năm 1991 đến nay) Trang 86 Sự phức tạp của vấn đề này đã thể hiện ngay tại kết quả của cuộc bỏ phiếu tại Đại hội đồng Liên hợp quốc hôm 08 -10 - 2008. Sự phân hóa mạnh mẽ đã xuất hiện trong cộng đồng quốc tế khi 77 quốc gia tán đồng yêu cầu của Serbia, 6 quốc gia phản đối (trong đó có Hoa Kỳ) và 76 quốc gia còn lại không bày tỏ quan điểm rõ ràng (bỏ phiếu trắng). Dẫu vậy với 77 phiếu ủng hộ và 6 phiếu chống, Liên Hợp quốc không còn cách nào khác là phải chấp thuận yêu cầu của Serbia. Phát biểu tại Đại hội đồng, Ngoại trưởng Serbia, Vuk Jeremic đã cho rằng họ cần có một quyết định rõ ràng từ phía tòa án quốc tế để "làm giảm sự căng thẳng và thúc đẩy các nỗ lực hòa giải nhằm mang đến sự ổn định của tình hình khu vực". Dù Kosovo đã tuyên bố độc lập nhưng Serbia vẫn gọi đó là một "tỉnh ly khai" của họ và cho rằng việc đơn phương tự tuyên bố độc lập của khu vực này là một hành động bất hợp pháp. Serbia cũng đã thẳng thắn cho rằng chính sự ngập ngừng trong việc thiết lập quan hệ ngoại giao hay công nhận quan hệ ngoại giao của các quốc gia khác đã chứng minh cho sự bất hợp pháp này. Chính vì những lẽ đó, một phiên tòa với sự trung gian của Tòa án Công lý quốc tế là rất cần thiết. Đồng thời, đây cũng chính là một bài toán khó của chính Tòa án Công lý. Từ trước đến nay, họ vốn chỉ quen đóng vai trò trung gian trong việc phân định và phán quyết các vụ tranh chấp liên quan đến vấn đề biên giới và lãnh thổ chứ chưa bao giờ gặp một "ca" tương tự như của Kosovo. Rõ ràng đây là một "ca đặc biệt khó". Với luật pháp quốc tế, việc tự tuyên bố độc lập người ta đã được chứng kiến nhiều và luật pháp cũng đã nhiều lần công nhận hành động này, nhưng đó là trường hợp của các quốc gia thuộc địa của chế độ thực dân cũ ở châu Phi hay châu Mỹ La tinh. Luật sư Nicolas Burniat - người đã từng có 6 năm làm việc tại Tòa án Công lý quốc tế, thừa nhận rằng cho đến nay vẫn chưa hề có bất kỳ một bộ quy định hay hướng dẫn nào liên quan đến vấn đề ly khai, chuyện đau đầu của nhiều quốc gia châu Âu. Chính vì vậy, mặc dù bị buộc phải tiếp nhận vụ kiện tụng này nhưng các quan chức của tòa án vẫn chưa biết họ sẽ phải dựa vào đâu để nhận định và phán xét nhằm đưa Phạm Tiến Dũng Sự khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư (từ năm 1991 đến nay) Trang 87 ra một kết luận cuối cùng rằng nền độc lập của Kosovo là hợp pháp hay không hợp pháp. Có một điểm đáng lưu ý là hầu hết các quốc gia châu Âu đều bỏ phiếu trắng đối với yêu cầu của Serbia tại Liên hợp quốc. Một số đại sứ của các nước thành viên châu âu đã cảnh báo Serbia rằng việc họ chủ động đưa vấn đề này ra tòa án quốc tế sẽ khiến cho con đường gia nhập EU của họ trở nên chông gai hơn bao giờ hết. Cho đến nay 22 trong tổng số 27 quốc gia thành viên EU đã công nhận nền độc lập của Kosovo. ông John Sawers, đại sứ Anh quốc tại Liên Hợp quốc nói rằng: "Serbia cần phải làm việc có tính xây dựng với vị thế là đối tác của EU trong tương lai". Trong khi đó đại sứ của Pháp, ông Jean -Maurice Ripert lại tuyên bố thẳng thừng rằng hành động của Serbia chẳng cần thiết và sẽ không thể làm giảm sự căng thẳng tại khu vực. Thực tế cũng đã chỉ ra rằng ngay bên trong nội bộ EU cũng không hề có sự nhất trí cao. Chính các quốc gia châu âu đang phải đau đầu với vấn nạn ly khai như Tây Ban Nha hay Cyprus cũng âm thầm chờ đợi phán quyết của Tòa án Công lý quốc tế. Đại diện của Nam Phi tại Liên hợp quốc đã chỉ ra rằng hiện tại đã có 44 quốc gia trên thế giới công nhận nền độc lập của Kosovo trong khi 144 quốc gia khác chưa công nhận. Điều này có nghĩa chỉ một kết luận cuối cùng của tòa án và luật pháp quốc tế sẽ có sự ảnh hưởng cực kỳ mạnh mẽ đến các quốc gia còn lại. Vấn đề Kosovo giờ đây không còn là câu chuyện của Serbia hay của châu âu nữa mà nó đã trở thành một hình mẫu thực sự của cả thế giới. Rosemary DiCarlo, một thành viên trong phái đoàn Hoa Kỳ đã tuyên bố: "Nền độc lập của Kosovo là không thể đảo ngược" và bà này cũng lên tiếng chỉ trích hành động của Serbia. Anbania, quốc gia láng giềng có quan hệ khá mật thiết với Kosovo (đa số người Kosovo có gốc Anbania) đã bỏ phiếu phản đối yêu cầu của Serbia và lên tiếng tố cáo Serbia đang muốn lôi kéo sự bất hòa nội bộ trở thành một vấn đề quốc tế. Phạm Tiến Dũng Sự khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư (từ năm 1991 đến nay) Trang 88 Nhưng dù cho phản đối, đồng tình hay trung dung thì cũng đã đến lúc thế giới phải chấp nhận và làm theo một bài học rằng: Chiến tranh, xung đột, vũ khí hay bạo lực không bao giờ có thể giải quyết được vấn đề. Hãy làm theo luật pháp quốc tế! Đó có lẽ là lý do khiến Tòa án Công lý quốc tế chấp nhận thử thách này. Thứ hai là việc Kosovo đơn phương tuyên bố độc lập tạo tiền lệ trong vấn đề ly khai ở Châu Âu và cả một số khu vực khác trên thế giới. Nó có thể là viên domino đầu tiên bị kích đổ. Nó có thể gây nên phản ứng dây chuyền. Mức độ đến đâu và bao giờ mới tái diễn là chuyện khác, nhưng điều chắc chắn là tiền lệ này sẽ nhanh chóng trở thành thông lệ chứ không phải chỉ là một trường hợp đặc biệt và duy nhất như Mỹ và EU hiện quả quyết. Một trong những luận điểm cơ bản trong lập trường của Liên bang Nga là việc Kosovo độc lập tạo ra "một tiền lệ", khiến cho nhiều thực thể hành chính khác trên thế giới, trong đó không ít trường hợp ở gần Nga, trên không gian Liên bang Xôviết trước đây, cũng có thể đòi quy chế độc lập. Sau khi nghị viện Kosovo đơn phương tuyên bố độc lập (17/2/2008), Tổng thống Vladimir Putin, các Chủ tịch hai viện Quốc hội, Bộ trưởng Ngoại giao, Phó Thủ tướng thứ nhất Dmitry Medvedev và nhiều chính khác khác ... đều có phát biểu về vấn đề này, thể hiện lập trường kiên quyết của Nga phản đối Kosovo độc lập, ủng hộ Xécbia, phê phán những nước công nhận Kosovo và cảnh báo về mưu toan loại bỏ vai trò của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc trong việc giải quyết những vấn đề cơ bản của thế giới trên cơ sở luật pháp quốc tế. Bài đăng trên tờ "Báo Nga" ngày 28/2 của Chủ nhiệm Ủy ban đối ngoại Thượng nghị viện Nga Mikhail Margelov là một trong những tài liệu làm rõ lập trường của Nga. Toàn văn bài báo như sau: Các nhà sử học thường rất chú ý thời gian của hiện tượng. Cái gì đã bắt đầu lúc nào, năm nào, thế kỷ nào. Đối với họ, đó là một vấn đề quan trọng. Đương nhiên rồi đây các nhà sử học sẽ xác định chính xác cái ngày mở đầu "kỷ nguyên mới" trong việc xây dựng cơ cấu thế giới. Song, trong tất cả những biên niên sử nghiêm túc bên cạnh ngày 11 Phạm Tiến Dũng Sự khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư (từ năm 1991 đến nay) Trang 89 tháng 9 nhất định sẽ có ngày 17 tháng 2 năm 2008. Vào ngày đó, Kosovo đã đơn phương tuyên bố độc lập. Và ngay lập tức đã có những nước tuyên bố công nhận cái Nhà nước dựa trên cơ sở dân tộc đó ở trên lãnh thổ của người khác. Điều này có nghĩa là người ta đã lặng lẽ hủy bỏ luật pháp quốc tế có từ lâu đang hiện hành, nhưng luật pháp mới thì vẫn chưa có. Không thể phủ nhận là thế giới đang thay đổi. Theo đó, những nguyên tắc xây dựng thế giới đã lỗi thời cần phải được thay thế bằng những nguyên tắc mới. Nhưng sau trường hợp Kosovo, xem ra tất cả mọi nguyên tắc đều bị băng hoại. Những triệu chứng đầu tiên của "căn bệnh hậu Kosovo" đã bộc lộ tại Thổ Nhĩ Kỳ. Sau khi công nhận Kosovo độc lập, giới lãnh đạo Thổ Nhĩ Kỳ đã không chút ngần ngại triển khai những hành động quân sự chống người Cuốc ly khai ở miền Bắc Irắc. Chuyện này hoàn toàn lôgíc, bởi vì nếu chẳng còn nguyên tắc nào nữa thì ai nấy tự đặt ra nguyên tắc của mình: người thì ủng hộ lực lượng ly khai này, kẻ thì bắn giết lực lượng ly khai khác. Sự chia rẽ sau Kosovo rõ ràng là một dịch bệnh. Hầu như trên lãnh thổ tất cả các quốc gia có các dân tộc sinh sống đều có người dân tộc thiểu số, như người Anbani Kosovo. Theo gương Kosovo, từ nay bất kỳ dân tộc nào cũng có thể khởi sự cuộc đấu tranh giành độc lập. Bởi vì tất cả những lập luận về tính riêng biệt, độc nhất vô nhị của Kosovo chẳng qua chỉ là phương tiện tự bào chữa của những kẻ đã đoạn tuyệt luật pháp quốc tế từ ngày 17/2. Bất kỳ lực lượng ly khai nào cũng có thể chứng minh được tính chất độc nhất vô nhị của dân tộc mình để tìm cách tách ra. Khẩu lệnh "hãy làm như Kosovo" rất nguy hiểm. Trong số những lập luận biện bạch rất mơ hồ cho lực lượng ly khai Kosovo có một lập luận như sau: nếu không công nhận độc lập thì sẽ có đổ máu, sẽ có nhiều thương vong. Như vậy có thể suy ra rằng, khi những phần tử vũ trang của một dân tộc thiểu số nào đó lao vào chém giết những người dân gốc gác thì những kẻ sát nhân đó sẽ được bảo đảm một Nhà nước riêng trên đất của người khác. Để tránh "đổ máu và nhiều thương vong" mà. Có vẻ như sau một thời kỳ tương đối yên bình sau cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai, giờ đây bạo lực lại trở thành bà đỡ của lịch sử. Trong số những nước công nhận Kosovo độc lập có Ôxtrâylia, Phạm Tiến Dũng Sự khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư (từ năm 1991 đến nay) Trang 90 Ápganixtan, Mỹ, Thổ Nhĩ Kỳ, Pháp, Đức, Látvia, Extônia, Na Uy, Anh và Italia. Với Thổ Nhĩ Kỳ mọi chuyện đã rõ: đây là nước đầu tiên bắt tay vào hành động trong điều kiện thực tế của một thời đại vô nguyên tắc mới. Và nước này sẽ không để xảy ra việc xét lại các đường biên giới hậu Ottoman. Và nước này có thể nêu ra một vấn đề dựa vào trường hợp Kosovo: tại sao sau khi công nhận nền độc lập của Kosovo, Mỹ và Liên minh châu Âu lại từ chối hành động như vậy đối với miền Bắc Síp. Những nước đã công nhận Nhà nước Kosovo đều có vấn đề của mình. Đối với Pháp là vấn đề đảo Coóc. Ở Italia là vấn đề các tỉnh phía Bắc. Ở Anh là vấn đề Bắc Ailen. Tại Ápganixtan, chính quyền Cabun chỉ kiểm soát được nửa nước rất chật vật và đang tiến hành cuộc chiến tranh vì sự toàn vẹn lãnh thổ của Nhà nước. Irắc có thể tan ra thành ba phần, của người Hồi giáo dòng Sunni, dòng Shiite và người Cuốc. Tại Iran có nguy cơ chia tách những vùng đông người Iran gốc Arập và người Iran gốc Adécbaigian sinh sống. Palextin đã tan. Nhà nước độc lập của người Hồi giáo cực đoan có thể xuất hiện trên lãnh thổ Pakixtan. Các cuộc xung đột đòi ly khai đã và đang diễn ra tại những nước mà chính quyền áp dụng chính sách trấn áp, như Angôla, Inđônêxia , Mali , Xênêgan, Xuđăng. Những vụ bạo động do mâu thuẫn sắc tộc đã gây chấn động Ấn Độ, Mêhicô, Marốc, Bănglađét, Mianma, Xri Lanca. Nhưng chưa ở đâu cái lý do "tránh đổ máu" được đưa ra để công nhận quyền độc lập của những dân tộc nổi loạn. Nhưng bây giờ, sau Kosovo, tại một số nước có thể xảy ra điều đó. Còn cộng đồng quốc tế thì chỉ đóng vai "một nhà quan sát trong cuộc". Chủ nghĩa ly khai dân tộc không phải là một hiện tượng luật pháp. Không hề có một văn bản quốc tế nào ủng hộ việc chia tách cưỡng bức những vùng lãnh thổ "nổi bật về mặt dân tộc". Việc đánh giá sự chia tách đó thuộc phạm trù đạo lý. Trong thời kỳ các chế độ thực dân sụp đổ, chủ quyền độc lập của các thuộc địa cũ được công nhận thông qua cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Những kẻ ly khai - khủng bố gây chết chóc cho những người dân thường hiện nay cũng tự xưng là người đấu tranh cho tự do. Quyền tự quyết của người dân tộc ở Kosovo nay đã được thực hiện, dù được thực hiện một cách giấu giếm. Nhưng đã tạo ra một tiền lệ. Khi Phạm Tiến Dũng Sự khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư (từ năm 1991 đến nay) Trang 91 không có nguyên tắc gì cả thì rất khó hình dung chuyện gì sẽ xảy ra nếu những kẻ cực đoan người Anbani sẽ tìm cách xây dựng một nước Đại Anbani liên kết những người Anbani thiểu số ở Maxêđônia, Môngtenêgrô, Xécbia. Giới chuyên gia đặt câu hỏi, liệu khối NATO có thực hiện chiến dịch ném bom hay không nếu người Xécbia ở vùng Mitrovice muốn sáp nhập vào Xécbia? Nghĩa là, liệu khối liên minh đã chia tách Xécbia có bảo vệ sự bất khả xâm phạm các đường biên giới Kosovo hay không. Người Xécbia ở Bôxnia thì đã bày tỏ ý muốn sáp nhập vào Xécbia. Xét vào số lượng dân tộc thiểu số thì xem chừng trên thế giới có thể bùng nổ hơn 2 nghìn cuộc chiến vì độc lập. Thật khó tưởng tượng, nhưng lôgíc công nhận độc lập của Kosovo là như vậy. Còn nếu nói về đạo lý trong vấn đề ủng hộ ly khai thì phải thừa nhận rằng thời nay đạo lý cũng mang tính chất địa chính trị. Tính chất địa chính trị là tất yếu, bởi vì một siêu cường hoặc một nhóm nước sẽ tự mình đặt ra những nguyên tắc xử thế, hiển nhiên là có lợi cho mình. Sau khi kế hoạch tách Kosovo độc lập bị thất bại tại Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Liên minh châu Âu và khối NATO đã tự định đoạt vận mệnh của xứ này. Liên minh châu Âu hành động tùy tiện thôi, vì cả Xécbia và Kosovo đều không phải là thành viên của nhóm nước này. Còn về NATO thì chúng ta nên chú ý tuyên bố của ứng cử viên Tổng thống Mỹ John McCain được phổ biến tại Hội nghị an ninh quốc tế mới đây ở Muních. Ông ta đã đề cập việc tái lập NATO như là sự bảo đảm cho trật tự toàn cầu "đến cuối Thế kỷ này". John McCain kêu gọi thành lập Liên đoàn Dân chủ toàn cầu dưới sự bảo trợ của một khối NATO kiểu như vậy. Có lẽ nên hiểu là Liên đoàn đó sẽ thay thế Liên hợp quốc. Bởi vì những nước công nhận độc lập của Kosovo đã vi phạm Nghị quyết 1244 của HĐBA LHQ. Dù sao điều đề cập ở trên vẫn chỉ là một dự án, nhưng tất cả những dự án táo bạo nhất bao giờ cũng ra đời đúng lúc. Về tổng thể, hậu quả của tiền lệ Kosovo là hủy hoại toàn bộ khả năng quản lý thế giới. Bất kỳ ở đâu và với tất cả các đối tác Nga vẫn phải tiếp tục bảo vệ cách giải quyết dựa trên luật pháp của mình đối với các công việc quốc tế. Cứ như vậy chừng nào cộng đồng quốc tế chưa phối hợp xây dựng được những cách giải quyết khác, nhưng Phạm Tiến Dũng Sự khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư (từ năm 1991 đến nay) Trang 92 cũng phải là cách giải quyết theo luật pháp. Để thực hiện một chính sách cân bằng, tối thiểu Nga cũng phải có sự chia sẻ với các đối tác quốc tế, tất nhiên là bao gồm cả Mỹ và Liên minh châu Âu. Không được để cho tình hình diễn biến đến chỗ mà sau đó không thể tiến hành đối thoại được nữa. Nhưng chúng ta phải nhớ rằng lúc này chúng ta thuộc trong số ít nước vẫn trung thành với mọi thỏa thuận trong chính sách đối ngoại, nghĩa là chúng ta vẫn giữ nguyên tắc đạo lý. Cần sử dụng con chủ bài mà chúng ta có được qua vụ Kosovo và phải triệt để tuân thủ pháp luật quốc tế. Đó là hướng đi chắc chắn không thua thiệt trong tình hình đã nảy sinh, khi những nguyên tắc hiện hành bị chà đạp nhưng những nguyên tắc mới thì chưa có. Hệ lụy thứ ba là quan hệ giữa Mỹ, EU với Nga bị ảnh hưởng tiêu cực. Đối với Nga, vấn đề không chỉ đơn thuần là những lợi ích chiến lược thiết thực trước mắt và lâu dài, mà còn là thể diện, nhất là lại ngay trước cuộc bầu cử tổng thống sắp tới kết thúc nhiệm kỳ cầm quyền thứ hai của Tổng thống Nga V.Putin. Cũng vì cái quả đắng này đối với Nga mà Mỹ và EU sẽ gặp khó khăn hoặc phải nhượng bộ Nga trong vấn đề khác vào thời điểm khác. Cuộc đối đầu trong vấn đề Kosovo có thể sẽ làm Nga không khoan nhượng trong những vấn đề khác, những vấn đề đang có nguy cơ làm sống dậy thời kỳ Chiến tranh lạnh. Trong khi các nhà phân tích cho rằng Nga có thể không hạn chế nguồn cung cấp năng lượng cho phương Tây nhưng họ sẽ không còn muốn hợp tác về những vấn đề quan trọng khác, như chương trình hạt nhân của Iran. Nga cũng có thể có những động thái gây hấn về vấn đề lãnh thổ của các nước Liên Xô cũ, như công nhận sự độc lập của các vùng ly khai ở Gruzia hay thậm chí khuyến khích bạo lực phản đối việc Ukraine gia nhập NATO. Rõ ràng, Mỹ không hề muốn khiêu khích Nga. Nhưng theo Charles Kupchan, một chuyên gia cao cấp nghiên cứu châu Âu tại Hội đồng quan hệ Phạm Tiến Dũng Sự khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư (từ năm 1991 đến nay) Trang 93 đối ngoại, New York, Washington không có lựa chọn nào khác trong vấn đề Kosovo. Bởi qua ủng hộ độc lập của vùng với phần đa là người Hồi giáo (song phần lớn không nằm trong cộng đồng giáo sĩ) Kosovo, Washington mong muốn hàn gắn bất đồng với thế giới Hồi giáo, cho thấy nền dân chủ có thể tồn tại ở một quốc gia Hồi giáo như thế nào. Ngoài ra, Nga và Mỹ vẫn còn đang hục hặc về kế hoạch lá chắn tên lửa của Washington ở Ba Lan và Cộng hòa Séc. Mỹ thì cho rằng tên lửa bắn chặn của họ là để phòng mối đe dọa từ Trung Đông, song Kremlin lo ngại mục đích chính là nhằm làm suy yếu Nga. Mới gần đây, chắc chắn Mỹ đã phải đau đầu vì tuyên bố của Tổng thống Putin rằng Nga có thể chĩa tên lửa hạt nhân vào Ukraine nếu nước này gia nhập NATO. Cuối cùng phải kể đến khả năng bị hạn chế của LHQ cũng như tiềm năng phân rẽ nội bộ trong EU do việc Kosovo đơn phương tuyên bố độc lập gây ra. LHQ không quyết định trực tiếp vấn đề Kosovo và nội bộ EU không thống nhất trong quá trình giải quyết vấn đề này. Tóm lại, từ những hệ lụy đó có thể thấy Kosovo không chỉ đơn thuần là vấn đề mới đối với châu Âu, mà còn đối với cả quan hệ quốc tế nói chung. Phạm Tiến Dũng Sự khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư (từ năm 1991 đến nay) Trang 94 III. Một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong quá trình xây dựng và bảo vệ nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một trong số ít nước trên thế giới kiên trì xây dựng chủ nghĩa xã hội và đã đạt được khá nhiều thành tích trong quá trình ấy. Tuy nhiên, công bằng mà nói, chúng ta vẫn chưa thểy nào sánh vai cùng các cường quốc năm châu trên thế giới được. Mặt khác, những yếu kém, mặt trái của xã hội mà nước ta đang xây dựng cũng không phải là ít. Trong quá trình bước đầu nghiên cứu về quá trình suy yếu, khủng hoảng và tan rã của nhà nước Liên bang Nam Tư, cá nhân em thấy rằng Việt Nam ta có thể học được một số bài học kinh nghiệm quý báu sau: Hòa bình không phải là một giá trị bền vững nếu như chúng ta không biết cách xây dựng và bảo vệ đất nước, đặc biệt trong thời đại hội nhập như ngày nay. Thực hiện chính sách hòa hợp dân tộc cũng như tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Trên cơ sở đó, thực hiện khối đại đoàn kết toàn dân xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa; Thực hiện chính sách mềm dẻo, linh hoạt với sự chống đối, phá hoại của các thế lực thù địch trên cơ sở tăng cường sức mạnh quốc phòng cũng như tinh thần cảnh giác cao; Tuy dựa vào sức mình là chính song cần không ngừng tranh thủ những yếu tố thuận lợi, sự ủng hộ của các nước anh em và nhân dân tiến bộ trên thế giới trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước. Phạm Tiến Dũng Sự khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư (từ năm 1991 đến nay) Trang 95 Phụ lục 1. Bảng thống kê các sự kiện chính Thời gian Sự kiện 01- 12 - 1918 Vương quốc của người serbia, croatia và slovenia thành lập 1929 Vương quốc của người serbia, croatia và slovenia được đổi tên thành Vương quốc nam tư 06 – 4 - 1941 Phát xít đức xâm lược nam tư 5 - 1945 Cuộc kháng chiến chống phát xít đức của nhân dân nam tư thắng lợi. 29 -11 – 1945 Quốc hội tuyên bố Nam Tư là nước cộng hòa, 31 - 01 - 1946 Quốc hội thông qua Hiến pháp mới của Liên bang Cộng hòa nhân dân Nam Tư. 7- 4 - 1963 Nam Tư đổi tên chính thức thành Cộng hoà Liên bang Xã hội Chủ nghĩa Nam Tư. 25 - 6 -1991 Croatia và Slovenia cùng tuyên bố độc lập. 08 - 09 -1991 Cộng hòa Macedonia tuyên bố độc lập. 03 – 03 - 1992 Cộng hòa Bosnia - Herzegovina tuyên bố độc lập. 27 - 04 - 1992 Serbia và Montenegro tuyên bố thành lập nước cộng hòa Liên Bang Nam Tư mới. 21 - 11 -1995 Ba tổng thống Serbia, Bosnia và Croatia đã kí hiệp định hòa bình Dayton về Bosnia. 24/3 - 10/6/1999 NATO không kích vào Nam Tư trong 78 ngày đêm Phạm Tiến Dũng Sự khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư (từ năm 1991 đến nay) Trang 96 04 – 02 – 2003 Quốc hội Nam Tư bỏ phiếu giải tán Cộng hoà Liên bang Nam Tư. 03 - 6 - 2006 Cộng hòa Montenegro tuyên bố độc lập. 05 - 6 - 2006 Cộng hòa Serbia tuyên bố độc lập. 17 - 02 - 2008 Tỉnh tự trị Kosovo thuộc Serbia đơn phương tuyên bố độc lập. Phạm Tiến Dũng Sự khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư (từ năm 1991 đến nay) Trang 97 2. Chặng đường đi tới độc lập của Kosovo 1968 - Các cuộc biểu tình ủng hộ độc lập đầu tiên của người Albania tại Kosovo, khi tỉnh này là một bộ phận của Liên bang Nam Tư, nhiều người đã bị bắt giữ. 1991-Khi Liên bang Nam Tư tan vỡ, các phần tử li khai tuyên bố Kosovo là một nước cộng hòa và nước cộng hòa này được Albania láng giềng công nhận. 1996- Quân đội Giải phóng Kosovo (KLA) được thành lập, nhận trách nhiệm về các vụ đánh bom nhằm vào cảnh sát. 1998- Hàng chục người thiệt mạng khi cảnh sát Serbia trấn áp những người bị tình nghi là các phần tử li khai Albania. Người Serbia bác bỏ sự trung gian hòa giải quốc tế về Kosovo trong các cuộc trưng cầu dân ý. Quốc tế áp đặt các biện pháp cấm vận mới chống Nam Tư. KLA giành quyền kiểm soát 40% Kosovo trước khi bị quân đội Serbia đánh bật. Quân đội Serbia tấn công các ngôi làng. 10/1998- NATO phê chuẩn các cuộc không kích nhằm vào quân đội Serbia. 15/1/1999-45 người Albania bị giết bên ngoài Racak. Các quan chức quốc tế yêu cầu điều tra tội phạm chiến tranh về vụ này. 3/1999-Belgrade bác bỏ thỏa thuận hòa bình do quốc tế làm trung gian trong khi người Albania ở Kosovo phê chuẩn hiệp định này. 24/3/1999-Nato tiến hành các cuộc không kích kéo dài 78 ngày vào Nam Tư. 3-6/1999-Quân đội Serbia đẩy 800.000 người Albania, những người rời khỏi Kosovo, vào Albania và Macedonia. 10/6/1999 - Lãnh đạo Nam Tư là Slobodan Milosevic đồng ý rút quân khỏi Kosovo sau khi nhất trí với một đề nghị để Nato tiến vào tỉnh này và để Kosovo nằm dưới sự quản lý của LHQ. Các cuộc không kích chấm dứt. Phạm Tiến Dũng Sự khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư (từ năm 1991 đến nay) Trang 98 Khoảng 50.000 lính gìn giữ hòa bình do NATO đứng đầu bắt đầu triển khai ở Kosovo, người tị nạn lũ lượt trở về trong khi người Serbia rời bỏ Kosovo sau các cuộc tấn công báo thù. 6/10/2000-Milosevic từ chức sau các buộc biểu tình rầm rộ phản đối việc ông từ chối chấp nhận thất bại trong bầu cử 28/6/2001 - Milosevic bị dẫn độ tới Hague và bị xét xử về các tội ác chiến tranh. Ông chết trước khi phiên tòa kết thúc. 2/2002-Kosovo bầu quốc hội và chính phủ. Ông Ibrahim Rugova trở thành tổng thống 10/2003- Các cuộc đàm phán trực tiếp đầu tiên giữa các lãnh đạo Serbia và Kosovo kể từ năm 1999 kết thúc mà không đạt được thỏa thuận nào. 3/2004 - Các băng nhóm Albania tấn công người Serbia và gây ra làn sóng bạo lực tồi tệ nhất kể từ khi chiến tranh kết thúc. 1/2006-Rugova chết do ung thư phổi ở Pristina, thủ phủ của Kosovo. 2/2006-Các cuộc đàm phán do LHQ làm trung gian về tương lai của Kosovo bắt đầu. 10/2006-Trong các cuộc trưng cầu dân ý, người Serbia ủng hộ Kosovo là một bộ phận không thể tách rời của Serbia. 26/1/2007-Đặc phái viên LHQ là Martti Ahtisaari tiết lộ kế hoạch về nhà nước Kosovo. 4/2007-Nga bác bỏ đề xuất của ông Ahtisaari tại Hội đồng Bảo an LHQ. 6/2007-Tổng thống Bush nói rằng Kosovo cần độc lập ‟‟thà sớm còn hơn‟‟. 7/2007-Thủ tướng Kosovo nói rằng tiến trình đàm phán do LHQ hậu thuẫn đã thất bại và kêu gọi tuyên bố độc lập vào cuối năm Phạm Tiến Dũng Sự khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư (từ năm 1991 đến nay) Trang 99 2/2008-Kosovo chuẩn bị tuyên bố độc lập. Nga tuyên bố sẽ sử dụng mọi biện pháp có thể để phong tỏa Kosovo trở thành một thành viên LHQ và sẽ thực hiện một kế hoạch soạn thảo từ trước nếu Kosovo tuyên bố độc lập. 17/2-Kosovo đơn phương tuyên bố độc lập. (Nguồn: Tin thế giới, website: tin247.com) Phạm Tiến Dũng Sự khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư (từ năm 1991 đến nay) Trang 100 3. Một số hình ảnh liên quan Bản đồ bán đảo Bancăng, Vojvodina và Kosovo Phạm Tiến Dũng Sự khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư (từ năm 1991 đến nay) Trang 101 Đồng Đina và Tito Phạm Tiến Dũng Sự khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư (từ năm 1991 đến nay) Trang 102 Ngôi nhà mà Tito đã sinh ra, tại Kumrovec, Croatia Phạm Tiến Dũng Sự khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư (từ năm 1991 đến nay) Trang 103 Hơn 15 ngàn người Albania trong khu tự trị Kosovo biểu tình đòi tách ra khỏi Cộng Hòa Serb lúc đó Milosevic làm Tổng Thống. Cộng Hòa Serb và Cộng Hòa Montenegro liên kết thành lập Tân Liên Bang Nam Tư vào ngày 27/4/1992. Phạm Tiến Dũng Sự khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư (từ năm 1991 đến nay) Trang 104 Người dân thuộc Cộng Hòa Slovenia biểu tình đòi ly khai ra khỏi liên bang Nam Tư 21/2/1989 Người dân thuộc Cộng Hòa Croatia đã tuyên bố ly khai khỏi Liên Bang Nam Tư trong cuộc trưng cầu dân ý ngày 21/5/1990. Phạm Tiến Dũng Sự khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư (từ năm 1991 đến nay) Trang 105 Người dân thuộc Cộng Hòa Macedonia tuyên bố độc lập và tách ta khỏi Liên Bang Nam Tư 20/11/1991 Người dân Albania trong khu Kosovo bị tàn sát một cách dã man. Phạm Tiến Dũng Sự khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư (từ năm 1991 đến nay) Trang 106 Milosevic bị hỏi cung tại tòa án hình sự Quốc Tế La Haye ở Hòa Lan. Milosevic đã chết vì bệnh tim trong tù vào năm 2005. Tổng thống Milosevic (trái) trong lễ ký thoả thuận hoà bình ở Dayton, bang Ohio Mỹ Phạm Tiến Dũng Sự khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư (từ năm 1991 đến nay) Trang 107 NATO oanh kích Belgrade trong vụ can thiệp vấn đề Kosovo Nỗi khốn cùng của người tị nạn gốc Albania ở Kosovo Những người ủng hộ Montenegro độc lập ăn mừng chiến thắng tại Cetinje hôm 22-5 - 2006 Người dân Montenegro sau khi có kết quả trưng cầu ý dân. Phạm Tiến Dũng Sự khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư (từ năm 1991 đến nay) Trang 108 Người Kosovo Albania ăn mừng tuyên bố độc lập của quốc hội từ Seriba. Người Albania tại Kosovo bày tỏ niềm vui sau khi Kosovo tuyên bố độc lập. Phạm Tiến Dũng Sự khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư (từ năm 1991 đến nay) Trang 109 Thủ tướng Hashim Thaci đọc tuyên bố độc lập, sau đó được tất cả các thành viên trong quốc hội đồng loạt giơ tay biểu quyết tán thành. Bia miễn phí ở ngay gần toà nhà quốc hội tại thủ đô Pristina cho những người bất chấp giá lạnh đổ xuống đường ăn mừng tuyên bố độc lập. Phạm Tiến Dũng Sự khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư (từ năm 1991 đến nay) Trang 110 "Tiệc mừng" đã được bắt đầu từ ngày thứ bảy và kéo dài tới tận đêm ngày chủ nhật. Nhiều người Kosovo đã mang theo lá cờ của người Albania láng giềng. Tại Albania, cũng có ăn mừng. Màu đỏ và đen của cờ Albania được thấy khắp nơi trong thủ đô Tirana. Phạm Tiến Dũng Sự khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư (từ năm 1991 đến nay) Trang 111 Những em nhỏ Kosovo Albania vẫy cờ mừng sự độc lập của Kosovo ở toà nhà Hội đồng châu Âu tại Strasbourg, Pháp. Người Albania ở một số nơi khác tại châu Âu, như Brussells, Bỉ, và Lausanne (trong ảnh), Thuỵ Sỹ cũng xuống đường ăn mừng chiến thắng. Phạm Tiến Dũng Sự khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư (từ năm 1991 đến nay) Trang 112 Còn với người Serbia, như những người sống ở Pháp này, việc Kosovo tuyên bố độc lập là một "tai hoạ". Bởi từ lâu họ đã coi Kosovo là "cái nôi của Serbia". Tại thủ đô Belgrade, Serbia, thanh niên ném đá và đốt cờ EU ngay trước sứ quán Mỹ sau khi quốc hội Kosovo tuyên bố độc lập. Phạm Tiến Dũng Sự khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư (từ năm 1991 đến nay) Trang 113 Cảnh sát chống bạo động Serbia đã đụng độ với khoảng 1.000 người biểu tình ở thủ đô Belgrade. Căng thẳng gia tăng ở thị trấn có nhiều chia rẽ về sắc tộc Mitrovica của Kosovo. Binh sỹ Pháp hỗ trợ an ninh ở đây đã phải dựng hàng rào sắt bên bờ sông Ibar ngăn cách giữa khu vực của người Kosovo Serbia và người Albania. Phạm Tiến Dũng Sự khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư (từ năm 1991 đến nay) Trang 114 Kosovo (tím nhạt, đỏ, hồng). Vùng tím nhạt có đa số người Serbia sinh sống, các vùng đỏ và hồng có đa số người Albania sinh sống Thủ tướng Kosovo Thaci bước trên đường phố Pristina tới phiên họp Quốc hội để tuyên bố độc lập Phạm Tiến Dũng Sự khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư (từ năm 1991 đến nay) Trang 115 Quốc kì các nước cộng hòa thuộc Nam Tư (cũ) và biểu tượng, cờ mới của Kosovo Nam Tư Slovenia Croatia Macedonia Bosnia - Herzegovina Phạm Tiến Dũng Sự khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư (từ năm 1991 đến nay) Trang 116 Montenegro Serbia Biểu tượng của Kosovo Quốc kỳ của Kosovo Phạm Tiến Dũng Sự khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư (từ năm 1991 đến nay) Trang 117 Tài liệu tham khảo 1) Nguyễn Văn Dương (2004), Tìm Hiểu Các Nước Trên Thế Giới, Nxb. Văn Hóa Thông Tin. 2) Nguyễn Văn Dân (2004), Biên Niên Sử Thế Giới, Nxb. Khoa Học Xã Hội. 3) Lê Phụng Hoàng (2005), Lịch Sử Quan Hệ Quốc Tế Ở Châu Âu Trong Chiến Tranh Lạnh (1949 – 1991), Trường Đại Học Sư Phạm Thành Phố Hồ Chí Minh. 4) Cao Liên (2007), Lịch Sử 200 Quốc Gia Và Vùng Lãnh Thổ Trên Thế Giới, Nxb.Lao Động. 5) Bùi Đức Tịnh (1996), Lịch Sử Thế Giới, Nxb.Văn Hóa. 6) Lê Xuân Đỗ (2006), Thế Giới Sự Kiện, Nxb.Trẻ. 7) Tài Liệu Về Chủ Nghĩa Xét Lại Nam Tư (1964), Nxb. Sự Thật, Hà Nội. 8) Phan Thị Kim Oanh (2001), Bước đầu tìm hiểu sự khủng hoảng và tan rã của Liên bang cộng hòa xã hội chủ nghĩa Nam Tư qua các tài liệu ở Việt Nam (từ năm 1991 đến nay), trường Đại học sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. 9) Từ Thiên Tân, Lương Chí Minh (2002), Lịch Sử Thế Giới Thời Đương Đại, Tập 6 (1945 – 2000), Nxb.Thành Phố Hồ Chí Minh. 10) Hoàng Văn Tiệp, Nguyễn Viết Thảo (1998), Quan Hệ Quốc Tế Từ 1945 Đến 1995, Nxb.Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội. Phạm Tiến Dũng Sự khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư (từ năm 1991 đến nay) Trang 118 11) Lê Văn Quang (1998), Lịch Sử Thế Giới Hiện Đại (Từ 1917 Đến Nay), Nxb. Đại Học Khoa Học Xã Hội Và Nhân Văn Thành Phố Hồ Chí Minh. 12) Lê Văn Quang (2003), Lịch Sử Quan Hệ Quốc Tê Từ 1917 Đến 1945, Nxb Giáo Dục. 13) Nguyễn Minh Bình, Nguồn Gốc Của Cuộc Khủng Hoảng ở Kosovo Năm 1998 – 1999, Nghiên Cứu Châu Âu, Số 11 (2007). 14) Nguyễn Kim Lân, Một Số Vấn Đề Cơ Bản Về Cuộc Chiến Tranh Nam Tư Năm 1999, Nghiên Cứu Châu Âu, Số 01, 2006. 15) Hoàng Khắc Nam, Kosovo – Sự Chất Chứa Của Lịch Sử, Nghiên Cứu Châu Âu, Số 01, 2000. 16) An Mạnh Toàn, Tìm Hiểu Quan Hệ Giữa Các Nước Lớn Trong Vấn Đề Kosovo Hiện Nay, Nghiên Cứu Châu Âu, Số 3, 1999. 17) Nguyễn Kim Lân, Kosovo – Châu Âu Trong Chiến Lược Toàn Cầu Xuyên Thế Kỉ Của Mĩ, Nghiên Cứu Châu Âu, Số 3, 1999. 18) Bùi Hà Nam, Chính Sách Đối Ngoại Của Mĩ Đối Với Cuộc Khủng Hoảng Kosovo Và Tác Động Đối Với Nga, Nghiên Cứu Châu Âu, Số 02, 2003. 19) Đức Minh Hoài Phương, Từ Kosovo Và Montenegro Đến Nam Ossetia Và Abkhazia Cùng Những Khu Vực Ly Khai Khác, Nghiên Cứu Châu Âu, Số 9, 2008. 20) Tròn 10 Năm Cuộc Không Kích Của NATO Vào Nam Tư Cũ: Vết Thương Không Bao Giờ Lành, An Ninh Thế Giới, Số 844, Ra Ngày 01 - 4 - 2009. 21) TTXVN, Tài Liệu Tham Khảo Đặc Biệt, Quan Hệ Nga - Các Nước Láng Giềng, Số 132, Ra Ngày 10 – 6 – 2004. Phạm Tiến Dũng Sự khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư (từ năm 1991 đến nay) Trang 119 22) TTXVN, Tài Liệu Tham Khảo Đặc Biệt,Tình Hình Bancăng, Số 58, 15 – 3 – 2001. 23) TTXVN, Tài Liệu Tham Khảo Đặc Biệt,Montenegro: Tham Vọng Và Nguy Cơ, Số 61, 19 – 3 – 2001. 24) TTXVN, Tài Liệu Tham Khảo Đặc Biệt,Vị Thế Milosevic Ngày Càng Khó Khăn, Số 61, 19 – 3 – 2001 25) TTXVN, Tài Liệu Tham Khảo Đặc Biệt,Bancăng: Nóng Bỏng Trở Lại, Số 64, 22 – 3 – 2001. 26) TTXVN, Tài Liệu Tham Khảo Đặc Biệt,Bancăng Trước Nguy Cơ Chiến Tranh Lan Rộng, Số 68, 27 – 3 – 2001. 27) TTXVN, Tài Liệu Tham Khảo Đặc Biệt,Nam Tư: Cuộc Đấu Tranh Giành Quyền Lực ở Nội Bộ DOS, Số 68, 27 – 3 – 2001 28) TTXVN, Tài Liệu Tham Khảo Đặc Biệt,Quan Điểm Của Nato Vêè Vấn Đề Macedonia, Số 69, 28 – 3 – 2001 29) TTXVN, Tài Liệu Tham Khảo Đặc Biệt,Nam Tư; Xung Quanhv Việc Bắt Giam Ông Milosevic, Số 77, 06 – 4 – 2001. 30) TTXVN, Tài Liệu Tham Khảo Đặc Biệt,Macedonia: Bên Miệng Hố Chiến Tranh, Số 73, 02 – 4 – 2001. 31) TTXVN, Tài Liệu Tham Khảo Đặc Biệt,Tình Hình Khu Vực Bancăng, Số 79, 09 – 4 – 2001. 32) TTXVN, Tài Liệu Tham Khảo Đặc Biệt,Cuộc Khủng Hoảng Macedonia: Những Nguyên Nhân, Số 85, 16 – 4 – 2001. 33) TTXVN, Tài Liệu Tham Khảo Đặc Biệt,Nam Tư: Ran Nứt Trong Nội Bộ DOS, Số 87, 18 – 4 -2001. 34) TTXVN, Tài Liệu Tham Khảo Đặc Biệt, Montenegro Trước Ngày Bầu Cử, Số 92, 24 – 4 – 2001. Phạm Tiến Dũng Sự khủng hoảng và tan rã của Liên bang Nam Tư (từ năm 1991 đến nay) Trang 120 35) Website:  Vietnamplus.Vn ( Thông Tấn Xã Việt Nam)  Mofa.Gov.Vn ( Bộ Ngoại Giao Việt Nam)  Tgvn.Com ( Báo Thế Giới Và Việt Nam, Cơ Quan Trực Thuộc Bộ Ngoại Giao Việt Nam)  Vi.Wikipedia.Org ( Bách Khoa Toàn Thư Mở)  Vnexpress.Net ( Tin Nhanh Việt Nam)  Vietbao.Vn ( Trung Tâm Báo Chí Và Hợp Tác Truyền Thống Quốc Tế CPI)  Thanhnien.Com.Vn ( Diễn Đàn Của Hội Liên Hiệp Thanh Niên Việt Nam)  Dongautaivietnam.Com ( Sách “Đông Âu Tại Việt Nam”)  Voh.Vn.Com ( Đài Tiếng Nói Nhân Dân TPHCM)  Vitinfo.Vn ( Tin Việt Nam Và Quốc Tế)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfphamtiendung.pdf