Luận văn Tìm hiểu những quy định của pháp luật về hợp đồng điện tử

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU CHƯƠNG 1 : KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG ĐIỆN TỬ . 4 1.1 Khái quát về thương mại điện tử và hợp đồng điện tử 4 1.1.1 Sự phát triển của thương mại điện tử 4 1.1.2 Khái niệm thương mại điện tử . 5 1.1.3 Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng điện tử . 7 1.1.3.1 Khái niệm . 7 1.1.3.2 Đặc điểm 8 1.2.1 Ưu điểm . 9 1.2.2 Nhược điểm . 13 1.3 Luật điều chỉnh về giao kết hợp đồng điện tử 14 1.3.1 Luật quốc tế 14 1.3.2 Luật điều chỉnh về giao kết hợp đồng điện tử ở Việt Nam . 15 1.4 So sánh hợp đồng điện tử và hợp đồng truyền thống . 16 1.4.1 Sự giống nhau giữa hợp đồng điện tử và hợp đồng truyền thống 16 1.4.2 Sự khác nhau giữa hợp đồng điện tử và hợp đồng truyền thống . 17 CHƯƠNG 2 : NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ HỢP ĐỒNG ĐIỆN TỬ 20 2.1 Giao kết hợp đồng điện tử 20 2.1.1 Nguyên tắc giao kết hợp đồng điện tử . 22 2.1.2 Trình tự giao kết 23 2.1.2.1 Đề nghị giao kết hợp đồng . 24 2.1.2.2 Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng . 25 2.1.3 Thời điểm và địa điểm giao kết hợp đồng 26 2.2 Chủ thể của hợp đồng điện tử . 29 2.3 Hình thức của hợp đồng điện tử . 31 2.4 Nội dung của hợp đồng 33 2.5 Chữ ký điện tử và giá trị pháp lý của hợp đồng điện tử . 34 2.5.1 Chữ ký điện tử . 34 2.5.2 Giá trị pháp lý của hợp đồng điện tử . 36 2.6 Việc thực hiện hợp đồng điện tử 38 CHƯƠNG 3 : THỰC TRẠNG VỀ GIAO KẾT VÀTHỰC HIỆN HỢP ĐỒNG ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 3.1 Thực trạng về giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử ở Việt Nam . 40 3.1.1 Thuận lợi 40 3.1.2 Khó khăn . 42 3.1.2.2 Khó khăn về mặt pháp lý . 43 3.1.2.3 Khó khăn, yếu kém khác 44 3.2 Đề xuất và phương hướng hoàn thiện . 45 Các giải pháp khác . 51 TÀI LIỆU THAM KHẢO

pdf55 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 3296 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tìm hiểu những quy định của pháp luật về hợp đồng điện tử, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g thanh toán tiếp số tiền còn lại… Nếu hàng giao không đủ số lượng và đúng chất lượng thì khách hàng cần phản hồi cho thương nhân theo chế độ thông tin nào để khiếu nại? Đây cũng là cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp phát sinh liên quan đến việc chậm thanh toán và chậm giao hàng trong giao dịch mua bán hàng hóa trên website thương mại điện tử. 2.5 Chữ ký điện tử và giá trị pháp lý của hợp đồng điện tử Sự phát triển vô cùng mạnh mẽ của công nghệ thông tin để làm biến đổi sâu sắc nhiều hoạt động của thế giới. Những thay đổi diễn ra trong các giao dịch là dễ thấy nhất vì nó động chạm đến từng cá nhân. Giao dịch điện tử, giao dịch trên mạng để và đang mang lại những lợi ích to lớn cho xã hội. Tuy nhiên, do tốc độ phát triển “tên lửa” của công nghệ thông tin và tính kỹ thuật cao của nó nên các rủi ro cho đối tượng tham gia giao dịch là một khả năng thường trực. Có thể nói, với những quy định đã được xây dựng trong luật giao dịch điện tử thì các bên giao kết có thể an tâm, tin tưởng lựa chọn và tiến hành giao kết bằng phương tiện điện tử. Với quy định về phương tiện điện tử, thông điệp dữ liệu, giá trị của thông điệp dữ liệu thì các trao đổi thỏa thuận giữa các bên tham gia giao dịch được thể hiện dưới dạng thông điệp dữ liệu hoàn toàn có giá trị như được thể hiện dưới dạng văn bản giấy. Tuy nhiên, nguy cơ mất an toàn luôn tiềm ẩn trong mọi giao dịch. Để hạn chế đến mức thấp nhất nguy cơ mất an toàn này, trong giao dịch truyền thống các chủ thể xác lập ý chí của mình thông qua chữ ký trên văn bản đó. Trong giao dịch điện tử, sự thể hiện ý chí của các chủ thể thông qua chữ ký điện tử. Vậy chữ ký điện tử là gì làm sao có thể ký được chữ ký điện tử lên thông điệp dữ liệu, giá trị của chữ ký điện tử đó là như thế nào? 2.5.1 Chữ ký điện tử Trong giao dịch truyền thống, hình thức văn bản được ghi (viết) trên giấy là hình thức chủ yếu và được sử dụng rộng rãi từ lâu, trở thành phổ biến đến mức đương nhiên. Các văn bản này, ngoài nội dung còn có chữ ký xác nhận (hoặc điểm chỉ) của người cam kết chịu trách nhiệm về nội dung của văn bản. Ngoài ra, các GVHD: Nguyễn Mai Hân SVTH: Dương Thanh GiềngTrang 34 Tìm hiểu những quy định của pháp luật về hợp đồng điện tử công đoạn tiếp sau: bao gói, chuyển phát, đối chiếu khi cần thiết đều dễ hiểu, dễ kiểm soát đối với người lập văn bản. Về mặt quản lý, kỹ thuật xác định chữ ký của người lập văn bản cũng để phát triển đến mức không khó khăn khi xác nhận chữ ký thật so với chữ ký giả mạo. Để giao dịch điện tử được chấp nhận rộng rãi và phát triển sâu rộng, cần có hình thức đáp ứng các đặc trưng của chữ ký tay và bảo toàn được thông tin khi truyền đi trên các phương tiện điện tử. Do đó, yêu cầu đặt ra là phải có kỹ thuật, công nghệ đảm bảo không chỉ xác nhận tác giả mà còn phải xác minh được tính toàn vẹn của thông tin chứa trong văn bản giao dịch được truyền đi bởi các phương tiện điện tử. Trên thế giới, để có nhiều công trình nghiên cứu được ứng dụng rộng rãi nhằm nhận dạng và chứng thực cá nhân trong giao dịch điện tử. Giải pháp phổ biến, được công nhận và áp dụng rộng rãi là chữ ký kỹ thuật số (Digital Signatures) hay còn gọi là chữ ký điện tử. Chữ ký điện tử (electronic signature) là thông tin đi kèm theo dữ liệu (văn bản, hình ảnh, video...) nhằm mục đích xác định người chủ của dữ liệu đó. Mà theo khoản 1 điều 21 Luật giao dịch điện tử quy định rằng: “Chữ ký điện tử được tạo lập dưới dạng từ, chữ, số, ký hiệu, âm thanh hoặc các hình thức khác bằng phương tiện điện tử, gắn liền hoặc kết hợp một cách lô gíc với thông điệp dữ liệu, có khả năng xác nhận người ký thông điệp dữ liệu và xác nhận sự chấp thuận của người đó đối với nội dung thông điệp dữ liệu được ký”. Chữ ký điện tử được sử dụng trong các giao dịch điện tử. Xuất phát từ thực tế, chữ ký điện tử cũng cần đảm bảo các chức năng: xác định được người chủ của một dữ liệu nào đó: văn bản, ảnh, video,... dữ liệu đó có bị thay đổi hay không. Thông thường, để chuyển thông điệp từ người gửi đến người nhận được bí mật, không bị sửa chữa trên đường đến tay người nhận, phải mã hoá chúng theo một nguyên tắc nào đó trước khi gửi đi, nguyên tắc này gọi là khoá mã (tiếng Anh là Key). Người nhận muốn hiểu được thông điệp phải sử dụng khoá mã đó để giải mã. Việc mã hoá và giải mã thông điệp dùng một chìa khoá rất dễ dẫn đến tình trạng GVHD: Nguyễn Mai Hân SVTH: Dương Thanh GiềngTrang 35 Tìm hiểu những quy định của pháp luật về hợp đồng điện tử chìa khoá đó bị người thứ ba chiếm đoạt. Người có chìa khoá mã có thể xem và sửa đổi nội dung thông điệp, như vậy sẽ làm mất tính nguyên trạng và bảo mật của thông tin. Vấn đề đặt ra là làm sao đảm bảo thông điệp truyền đi bằng các phương tiện điện tử giữ được bí mật, nội dung không bị thay đổi trên đường truyền, người nhận thông điệp nhận đúng được người gửi và người gửi không chối bỏ được trách nhiệm để “ký” và gửi thông điệp của mình. Giải quyết vấn đề nêu trên, trong truyền nhận các thông điệp điện tử, người ta sử dụng một chương trình phần mềm mã hoá các thông điệp có 2 khoá mã: Khoá mã công cộng (Public Key) và mã khoá riêng của người gửi thông điệp (Private Key hay còn gọi là Secret Key). Trong đó, mã khoá công cộng có thể được công khai cho những ai cần chia sẻ thông tin. Còn mã khoá riêng là bí mật của người “ký” gửi thông điệp đi. Hai khóa mã này có liên quan mật thiết đến nhau: Khi người gửi thông điệp dùng mã khoá riêng để mã hoá thông điệp thì trong thông điệp sẽ có một “chữ ký”. Người nhận dùng mã khoá công cộng cùng cặp để nhận dạng “chữ ký”, qua đó xác minh: người gửi thông điệp là ai; nội dung thông điệp có được bảo toàn nguyên trạng trong quá trình truyền trên mạng hay không. Về nguyên tắc, không thể dùng mã khoá công cộng để tìm ra mã khoá riêng. 2.5.2 Giá trị pháp lý của hợp đồng điện tử Thông điệp dữ liệu là yếu tố đầu tiên khởi nguồn cho việc thiết lập hợp đồng điện tử và xây dựng nền tảng pháp lý điều chỉnh hợp đồng điện tử. Chính vì thế khi mà Luật giao dịch điện tử chưa được thông qua, thì văn bản pháp luật chung về hợp đồng cũng đã thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu. Khoản 1 điều 124 Bộ luật dân sự 2005 quy định “Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu được coi là giao dịch bằng văn bản”, trong hoạt động thương mại, các thông điệp dữ liệu đáp ứng các điều kiện, tiêu chuẩn kỹ thuật theo quy định của pháp luật thì được thừa nhận giá trị pháp lý tương đương văn bản” (điều 15 Luật thương mại 2005). Hợp đồng điện tử được hình thành bởi thông điệp dữ liệu. Vì vậy việc thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu cũng chính là thừa nhận giá trị pháp lý của hợp đồng điện tử. Mục tiêu chính của Luật giao dịch điện tử là công nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu nói chung và hợp đồng điện tử nói riêng. Sự thừa nhận giá trị pháp lý của hợp đồng điện tử thể hiện ở các khía cạnh: — Có hiệu lực pháp lý như các hợp đồng được giao kết bằng phương thức truyền thống: điều 34 Luật giao dịch điện tử quy định “giá trị pháp lý của hợp đồng điện tử không thể bị phủ nhận chỉ vì hợp đồng đó được thể hiện dưới dạng GVHD: Nguyễn Mai Hân SVTH: Dương Thanh GiềngTrang 36 Tìm hiểu những quy định của pháp luật về hợp đồng điện tử thông điệp dữ liệu”. Trong lĩnh vực thương mại, điều 7 Nghị định số 57/2006/NĐ- CP về Thương mại điện tử quy định “chứng từ không bị phủ nhận giá trị pháp lý chỉ vì chứng từ đó là chứng từ điện tử”12. Với các quy định này, tất cả các hợp đồng được ký kết thông qua phương tiện điện tử điều được đảm bảo tính hiệu lực, mà không bị vô hiệu về mặt hình thức. Tuy nhiên cần phải thấy rằng, không phải mọi hợp đồng điện tử điều có hiệu lực (bởi các hợp đồng có mục đích vi phạm các điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội). Vì vậy, các quy định trên được thiết kế không phải để thừa nhận hiệu lực pháp lý của mọi hợp đồng điện tử mà là để tránh các trường hợp một hợp đồng bị từ chối hiệu lực pháp lý chỉ vì lý do hợp đồng được thiết lập dưới dạng thông điệp dữ liệu. — Có giá trị như hợp đồng dưới dạng văn bản: điều 12 Luật giao dịch điện tử quy định “Trường hợp pháp luật yêu cầu thông tin phải được thể hiện bằng văn bản thì thông điệp dữ liệu được xem là đáp ứng yêu cầu này nếu thông tin chứa trong thông điệp dữ liệu đó có thể truy cập và sử dụng được để tham chiếu khi cần thiết”. Tương tự trong lĩnh vực thương mại “chứng từ điện tử có giá trị pháp lý như văn bản nếu thông tin chứa trong chứng từ điện tử đó có thể truy cập được để sử dụng khi cần thiết” (điều 3 Nghị định số 57/2006/NĐ-CP về Thương mại điện tử). Điều này có nghĩa hợp đồng điện tử được đối xử bình đẳng và có giá trị pháp lý như hợp đồng thể hiện dưới văn bản giấy nếu nội dung của hợp đồng đó có thể được hiển thị để sử dụng khi cần thiết. — Có giá trị như bản gốc: Bản gốc là sự thể hiện tính toàn vẹn của hợp đồng chứa đựng trong văn bản, đảm bảo thông tin trong tài liệu là không thay đổi. Trong môi trường mạng, việc đảm bảo tính toàn vẹn của hợp đồng điện tử đáp ứng yêu cầu của văn bản gốc là việc làm phức tạp, đòi hỏi phải kết hợp vấn đề công nghệ và vấn đề pháp lý. Dưới gốc độ pháp lý, điều 13 Luật giao dịch điện tử đặt ra các điều kiện mà một thông điệp dữ liệu phải đáp ứng nếu muốn được coi là bản gốc: “1. Nội dung của thông điệp dữ liệu được bảo đảm toàn vẹn kể từ khi được khởi tạo lần đầu tiên dưới dạng một thông điệp dữ liệu hoàn chỉnh. 12 "Chứng từ" là hợp đồng, đề nghị, thông báo, tuyên bố, hóa đơn hoặc tài liệu khác do các bên đưa ra liên quan tới việc giao kết hay thực hiện hợp đồng. Còn "Chứng từ điện tử" là chứng từ ở dạng thông điệp dữ liệukhoản 1 và 2 điều 3 nghị định số 57/2006/NĐ-CP về thương mại điện tử GVHD: Nguyễn Mai Hân SVTH: Dương Thanh GiềngTrang 37 Tìm hiểu những quy định của pháp luật về hợp đồng điện tử Nội dung của thông điệp dữ liệu được xem là toàn vẹn khi nội dung đó chưa bị thay đổi, trừ những thay đổi về hình thức phát sinh trong quá trình gửi, lưu trữ hoặc hiển thị thông điệp dữ liệu; 2. Nội dung của thông điệp dữ liệu có thể truy cập và sử dụng được dưới dạng hoàn chỉnh khi cần thiết.” Còn tại khoản 1 điều 9 Nghị định số 57/2006/NĐ-CP về thương mại điện tử, chứng từ điện tử có giá trị pháp lý như bản gốc nếu thỏa mãn đồng thời cả hai điều kiện sau: “a) Có sự đảm bảo đủ tin cậy về tính toàn vẹn của thông tin chứa trong chứng từ điện tử từ khi thông tin được tạo ra ở dạng cuối cùng là chứng từ điện tử hay dạng khác. b) Thông tin chứa trong chứng từ điện tử có thể truy cập, sử dụng được dưới dạng hoàn chỉnh khi cần thiết”. — Có giá trị làm chứng cứ: Thông điệp dữ liệu không bị phủ nhận giá trị dùng làm chứng cứ chỉ vì đó là một thông điệp dữ liệu (khoản 1 điều 14 Luật giao dịch điện tử). Quy định này làm yên tâm các bên giao kết hợp đồng. khi có tranh chấp xảy ra, nếu các bên xuất trình hợp đồng điện tử làm chứng cứ thì tòa án không thể từ chối xem xét chỉ vì đấy là thông điệp dữ liệu. 2.6 Việc thực hiện hợp đồng điện tử Trong giao kết hợp đồng điện tử, nụ cười tươi tắn, tác phong lịch sự và ân cần không còn là yếu tố đầu tiên để giữ đối tác của mình. Giờ đây lúc nào các máy tính cũng sẵn sàng làm nhiệm vụ để phục vụ cho chủ nhân của mình khi họ cần đến. Thông qua việc giao kết hợp đồng điện tử, khách hàng không được chạm tới món hàng mà chỉ nhìn thấy một hình ảnh ảo trên mạng. Phương thức “trao cháo múc xa” xưa không còn thông dụng. Trả tiền rồi mới nhận hàng sau. Đến bây giờ thì mới biết món hàng đó có “khớp” với 100% thông tin được rao trên mạng và những lựa chọn cân nhấc của người mua hay không. Khi một người muốn mua hàng trên mạng anh ta chỉ cần click vào món hàng mà anh ta đã chọn sau khi chuyển tiền vào tài khoản của người bán thì anh ta sẽ nhận được món hàng đúng với thời gian đã cam kết còn chất lượng của sản phẩm có đúng như những gì đã quảng cáo hay không thì còn là vấn đề khác. Theo anh Trần Đình Luân (Thanh Xuân-Hà Nội) kể lại: “Tôi xem giới thiệu và biểu giá trên mạng rồi đặt hàng mua một cuốn sách. Sau khi đặt hàng qua mạng thì có người mang sách đến và thanh toán bằng tiền mặt rất đúng hẹn. Những hỡi ôi, khi cầm cuốn sách trên tay thì tôi không muốn đọc nữa, vì GVHD: Nguyễn Mai Hân SVTH: Dương Thanh GiềngTrang 38 Tìm hiểu những quy định của pháp luật về hợp đồng điện tử giấy in thì tồi, chất lượng in thì kém, nhoè nhoẹt”(13). Từ đây, cho thấy lòng trung thực hay chữ tín của người bán trở nên một yếu tố đầu tiên và cuối cùng để xây dựng và bảo vệ thương hiệu. Đối với giới trẻ ở khu vực đô thị, việc tiêu dùng, mua sắm qua mạng giờ đây đã không còn lạ lẫm. Nhắn tin nạp tiền vào tài khoản điện thoại, hay vào mạng để mua một cuốn sách, đặt hoa tặng người thân... đã trở thành phổ biến. Tâm lý, thói quen mua bán của nhiều người đã bắt đầu thay đổi từ phương thức truyền thống sang phương thức mới của thương mại điện tử H. rất hãnh diện với bạn bè khi mua được điện thoại Blackberry 8700 mới gần như 100% có bao da “gin” hẳn hoi với giá chỉ 3 triệu đồng, thấp hơn cả mức giá đang bán ở Mỹ. Chiếc điện thoại đó ở cửa hàng bên ngoài đang bán giá không dưới 5 triệu đồng. H. đã nhanh tay mua được trên diễn đàn www.tinhte.com trước khi có một người khác trả giá gần 3,3 triệu đồng ngày càng có nhiều người mua sắm... trên mạng. Không ít người thức trắng đêm với chiếc máy tính để tìm cơ hội mua được những món hàng với giá khá mềm. Tuy nhiên, mua hàng trên mạng cũng có những rủi ro... Các trang web kinh doanh trên mạng xuất hiện thời gian gần đây với số lượng lớn và chất lượng khác nhau. Vấn đề là khách hàng phải chọn những website thương mại điện tử đáng tin cậy để giao dịch(14). 13( ( ) 14( ( ) Mua bán online - Đi chợ trên mạng, Theo vnExpress GVHD: Nguyễn Mai Hân SVTH: Dương Thanh GiềngTrang 39 Tìm hiểu những quy định của pháp luật về hợp đồng điện tử CHƯƠNG 3 THỰC TRẠNG VỀ GIAO KẾT VÀTHỰC HIỆN HỢP ĐỒNG ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 3.1 Thực trạng về giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử ở Việt Nam 3.1.1 Thuận lợi Với những gì đã nêu trên hiện nay việc giao kết hợp đồng điện tử gặp rất nhiều thuận lợi vì được sự hỗ trợ của hệ thống pháp lý trong việc giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử ở nước ta. Điển hình như: — Tháng 6/2001: Quyết định số 112/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt đề án tin học hóa quản lý hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2005. — Tháng 8/2001: Nghị định số 55/2001/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý, cung cấp và sử dụng Internet. — Tháng 10/2001: Quyết định số 158/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chiến lược phát triển bưu chính viễn thông Việt Nam đến 2010. — Tháng 11/2001: Chính phủ thông qua kế hoạch tổng thể phát triển thương mại điện tử từ 2001 đến 2005 do Bộ thương mại chủ trì. — Tháng 6/2002: Công bố pháp lệnh Bưu chính viễn thông. — Tháng 7/2002: Quyết định số 95/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kế hoạch tổng thể ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin đến năm 2005. — Tháng 7/2002: Thủ tướng phê duyệt Kế hoạch tổng thể phát triển Internet Việt Nam từ năm 2001 đến năm 2005. — Tháng 3/2004: Quyết định số 235/2004/QĐ/TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt dự án tổng thể “ứng dụng và phát triển phần mềm nguồn mở ở Việt Nam giai đoạn 2004 - 2008”. — Tháng 4/2004 quyết định số 331/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “chương trình phát triển nguồn nhân lực về công nghệ thông tin từ nay đến năm 2010”. — Tháng 10/2004: Quyết định số 179/2004/QĐ/TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chiến lược ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin tài nguyên và môi trường đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020. GVHD: Nguyễn Mai Hân SVTH: Dương Thanh GiềngTrang 40 Tìm hiểu những quy định của pháp luật về hợp đồng điện tử Đánh giá một cách khách quan, việc giao kết hợp đồng điện tử ở Việt Nam đã và đang từng bước khởi sắc. Mặc dù xuất phát điểm chỉ là việc giao kết hợp đồng điện tử đơn giản như khách hàng đăng ký mua bán hàng hóa, sử dụng dịch vụ qua mạng internet, sau đó khách hàng được phục vụ theo yêu cầu, kết thúc quy trình là khách hàng chuyển tiền thanh toán qua tài khoản, nhưng quá trình giao kết hợp đồng điện tử đã được thực hiện khá bài bản, những kết quả bước đầu trong giao kết hợp đồng điện tử ở Việt Nam thể hiện ở: — Nhiều doanh nghiệp việt nam đã xây dựng được quy trình giao kết hợp đồng điện tử phù hợp.  Quy trình bán vé máy bay qua mạng Internet của công ty VDC: Bước đầu là khách hàng đặc vé, đặc chỗ, đặc chuyến bay qua email tới website của VDC. Sau đó vé sẽ được gửi tới khách hàng (theo đúng yêu cầu về thời gian, địa điểm và cả hình thức nhận vé của khách hàng như trực tiếp mang vé tới nhà hay gửi qua đường bưu điện bằng cách chuyển phát nhanh hoặc gửi thư thông thường…). Kết thúc quy trình là khách hàng thanh toán bằng cách chuyển tiền tới tài khoản của VDC.  Quy trình của ngân hàng ACB phục vụ đăng ký giao dịch có bảo đảm cho việc mua bán nhà đất qua mạng Internet. Quy trình này được thực hiện như sau: cá nhân, tổ chức không cần đến ngân hàng và cơ quan đăng ký mà vẫn được tiếp nhận hồ sơ, ngân hàng nhận và giải quyết từng hồ sơ đất đai qua website của ngân hàng. — Nhiều doanh nghiệp của Việt Nam, đặc biệt là doanh nghiệp xuất khẩu, đã xây dựng được website để quảng cáo hàng hóa và dịch vụ của mình. — Học sinh, sinh viên thường truy cập các trang web www.amazon.com, www.google.com để tìm kiếm và mua sách báo, đĩa CD… Tuy nhiên số lượng hợp đồng được giao kết không nhiều. Tình hình này được giải thích do hai nguyên nhân: một là yêu cầu thanh toán bằng thẻ tín dụng của trang web vẫn còn quá xa xỉ đối với sinh viên Việt Nam, hai là phí vận chuyển sách báo hay dĩa CD về Việt Nam thường đội giá thành sản phẩm lên rất nhiều, chưa kể đến khâu kiểm diệt phức tạp của cơ quan hải quan. Hiện nay khó có thể lấy được số liệu chính xác về số lượng các hợp đồng điện tử được giao kết giữa khách hàng Việt Nam và người bán hàng hóa, dịch vụ trực tuyến nước ngoài. Lý do là mô hình kinh doanh này cũng mới hình thành và cơ quan có thẩm quyền như Bộ thương mại, Sở thương mại… chưa kịp thời thống kê GVHD: Nguyễn Mai Hân SVTH: Dương Thanh GiềngTrang 41 Tìm hiểu những quy định của pháp luật về hợp đồng điện tử như là một yêu cầu bắt buộc. Có thể khẳng định chắc chắn rằng đã có sự khởi sắc nhất định theo chiều hướng tích cực. Quá trình xây dựng pháp luật là một quá trình liên tục không phải cứ ban hành một pháp luật ra cứ thế là đủ mà phải thường xuyên cập nhật, chỉnh sữa cho phù hợp với thực tế. Theo tôi nếu không tạo được niềm tin cho người tiêu dùng thì thương mại điện tử ở Việt Nam khó phát triển mạnh mẽ. Ngày 25/06/2007, hiệp hội Thương mại điện tử ở Việt Nam (Vecom) ra đời đây là một tổ chức xã hội nghề nghiệp hoạt động trên cơ sở tự nguyện, phi lợi nhuận nhằm tập hợp đoàn kết, hỗ trợ bảo vệ các hội viên để phát triển lĩnh vực thương mại điện tử ở Việt Nam. Hoạt động tiêu biểu của Vecom là chương trình đánh giá xếp hạng website tmdt “trustvn” mục đích đánh giá chọn ra các website tiêu biểu hàng năm quảng bá rộng rãi các website đó để người tiêu dùng và doanh nghiệp yên tâm tiến hành mua hàng, giao dịch trực tuyến. Hiện nay đã có 176 doanh nghiệp tham gia Vecom. 3.1.2 Khó khăn 3.1.2.1 Khó khăn về cơ sở vật chất kỹ thuật Vụ thương mại điện tử đã tiến hành điều tra hơn 11000 doanh nghiệp trong nước kết quả cho thấy có 40% doanh nghiệp đã xây dựng trang web riêng, 92% doanh nghiệp đã kết nối mạng, 81% doanh nghiệp sử dụng đường truyền băng thông tin rộng(15). Với một số lượng lớn như vậy nhưng khi tham gia các hoạt động thương mại điện tử thì hầu hết các doanh nghiệp chỉ sử dụng trang web giới thiệu sản phẩm, còn các yếu tố khác của hoạt động thương mại điện tử vẫn còn chưa hoàn thiện thậm chí nếu không nói là quá tệ (chưa có hệ thống cần thiết: hệ thống thanh toán, hệ thống phân phối sản phẩm, hệ thống thông tin, hệ thống thanh toán giữa các doanh nghiệp). Ngoài ra mức độ hoàn chỉnh của các trang web còn thấp: — Kết cấu không hợp lý: Trong số các trang web mua bán thì 1/3 là có hệ thống bán lẽ truyền thống, 2/3 chỉ thuần túy có các cửa hàng trên mạng. Tình trạng này hoàn toàn ngược lại so với các nước Âu, Mỹ dẫn đến giá cả trên mạng không thể thấp. Như vậy hàng hóa trên mạng không thu hút được nhiều khách hàng. — Kết cấu không hoàn chỉnh: Hầu hết các trang web trên mạng đều chưa mang ý nghĩa thương mại điện tử hoàn toàn. Như việc đặt hàng qua mạng, nhận thanh toán qua mạng điều lựa chọn phương thức đặt hàng trực tuyến trả tiền trực tiếp. 15( ( ) Nguồn: báo kinh tế Việt Nam GVHD: Nguyễn Mai Hân SVTH: Dương Thanh GiềngTrang 42 Tìm hiểu những quy định của pháp luật về hợp đồng điện tử — Mức phục vụ trên mạng chưa đáp ứng nhu cầu: Cước phí truy cập thông tin điện tử còn quá cao, phí truy cập cả hai bên đều phải chịu như nhau trong khi đó nếu giao kết hợp đồng theo phương thức truyền thống thì không phải tốn loại cước này. Đó là chưa kể đến việc các đối tác có chắc chắn ký được hợp đồng hay không thì họ cũng đã tốn hết một khoản chi phí cho việc truy cập này. 3.1.2.2 Khó khăn về mặt pháp lý Thực tế phát triển của thương mại điện tử đang gặp phải một số trở ngại lớn như hành lang pháp lý về thương mại điện tử vẫn chưa hoàn thiện, vấn đề an ninh mạng, tội phạm liên quan đến thương mại điện tử, dịch vụ logistic chưa phát triển, chưa có những quy định về chuẩn trao đổi dữ liệu điện tử, dịch vụ chứng thực chữ ký số hầu như chưa xuất hiện, hợp tác quốc tế về thương mại điện tử chưa toàn diện. Mặc dù đã được pháp luật công nhận, nhưng hiệu lực thực tế của các chứng từ điện tử không dễ được chấp nhận. Trường hợp bán vé điện tử của Vietnam Airlines là một ví dụ. Trước đây, vé máy bay (cuống vé) được coi là một loại hóa đơn, nhưng khi chuyển sang bán vé điện tử thì sẽ không có cuống vé, thay vào đó là những chứng từ điện tử được lưu giữ trong hệ thống thông tin của công ty hàng không. Mặc dù pháp luật coi chứng từ điện tử có giá trị "như văn bản" và "như bản gốc", nhưng thực tế tổng cục thuế chưa sẵn sàng chấp nhận các chứng từ điện tử này, chính vì thế mà Vietnam Airlines được yêu cầu khi bán vé điện tử vẫn phải kèm theo phiếu thu bằng giấy. Yêu cầu này làm cho vé điện tử chỉ là một giải pháp nửa vời, vì trái với mục tiêu giảm chi phí quản lý gắn với giấy tờ và gây khó khăn cho việc bán vé hoàn toàn qua mạng. Tuy nhiên, Vietnam Airlines mới chỉ là trường hợp đầu tiên. Những khó khăn của doanh nghiệp này cũng chính là những khó khăn mà các doanh nghiệp muốn triển khai thương mại điện tử trong tương lai sẽ gặp phải nếu không được giải quyết ngay từ bây giờ. Bên cạnh đó, một số quy định bất hợp lý cho thương mại điện tử đã được doanh nghiệp nhắc tới từ những năm trước vẫn chưa được khắc phục. Những quy định về cấp phép thành lập website hay mua bán tên miền chưa phù hợp với thực tiễn vẫn còn tồn tại. Tuy nhiên, những vấn đề này chưa phải là những trở ngại lớn nhất đối với sự phát triển của thương mại điện tử. Một vấn đề cần quan tâm hơn là làm sao có thể xác định được năng lực giao kết hợp đồng của các chủ thể khi tiến hành giao kết hợp đồng điện tử. Từ đó có thể khẳng định hành lang pháp lý cho việc giao kết hợp đồng điện tử ở nước ta vẫn còn khá nhiều vấn đề cần quan tâm. GVHD: Nguyễn Mai Hân SVTH: Dương Thanh GiềngTrang 43 Tìm hiểu những quy định của pháp luật về hợp đồng điện tử 3.1.2.3 Khó khăn, yếu kém khác Trong số 289 website thương mại điện tử Việt Nam được khảo sát vào cuối năm 2006, chỉ có 74 website công bố chính sách bảo vệ thông tin khách hàng, chiếm 26% tổng số website. Như vậy, vẫn còn 74% sàn giao dịch thương mại điện tử hoạt động mà thiếu những cam kết cụ thể về chế độ thu nhập và sử dụng thông tin cho các bên tham gia. Phải thấy rằng những sàn giao dịch ở trình độ tổ chức càng cao thì càng quan tâm đến vấn đề này. Vấn đề thông tin hầu như chưa được cả cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng quan tâm một cách thích đáng. Chỉ đến khi những vụ lấy trộm thôn tin về tài khoản ngân hàng, làm giả thẻ thanh toán để mua hàng trên mạng hay rút tiền mặt được báo chí phản ánh mới làm người ta bước đầu quan tâm. Trong trường hợp này, thông tin cá nhân đồng nghĩa với giá trị vật chất cụ thể và rò rỉ thông tin cá nhân gây ra những thiệt hại không nhỏ về tài sản. Bởi thế mà tình trạng ăn cắp dữ liệu cá nhân, thông tin tài khoản đang diễn ra với mức độ ngày phổ biến. Điển hình là vụ án Trần Quang Duy (21 tuổi) đã ăn cắp được số tài khoản thẻ tín dụng của nhiều người để đặt mua gần 100 vé máy bay của hãng Tiger Airway rồi đem bán lại kiếm tiền. Khi hành vi của Duy bị phát hiện, hãng Tiger Airway chỉ kịp hủy một số vé, còn lại 59 vé đã bị bạn bè của Duy sử dụng cho việc du lịch và để bán cho người khác, thu lợi hơn 50 triệu đồng. Cũng liên quan đến việc trộm dữ liệu thẻ tín dụng, Vũ Ngọc Hà đã thực hiện trót lọt việc dùng tiền ăn cắp để mua hàng trên mạng trị giá 44.226.215 đồng (khoảng 28.000 USD) trong suốt quãng thời gian từ năm 2004 đến năm 2006. Hà đã tung virus (keylogger) vào các địa chỉ email của cá nhân khác để các chương trình diệt virus không phát hiện được, rồi bẻ khóa lấy mật mã. Một hình thức vi phạm việc bảo vệ dữ liệu cá nhân khá phổ biến trong thời gian vừa qua là việc hồn nhiên thu thập email nhưng chưa được sự chấp thuận của chủ thể thông tin(16). Và cái khó lại là ở chỗ Việt Nam vẫn chưa có một văn bản quy phạm pháp luật nào nhằm điều chỉnh các hành vi liên quan đến bảo vệ dữ liệu cá nhân mang tính hệ thống mà mới được thể hiện qua những quy định riêng rẽ trong từng mảng nội dung khác nhau. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật công nghệ nghèo nàn, thiếu vốn, ngành ngân hàng kém phát triển, lượng người dụng Internet chưa cao là một vài trong nhiều yếu kém khác của thương mại điện tử nói chung và giao kết hợp đồng điện tử nói riêng ở Việt Nam. 16( ( ) Nguyễn Như Phát, Phan Thảo Nguyên; Pháp luật thương mại dịch vụ Việt Nam và hội nhập kinh tế quốc tế; Nhà xuất bản Bưu Điện; Hà Nội – 2006 GVHD: Nguyễn Mai Hân SVTH: Dương Thanh GiềngTrang 44 Tìm hiểu những quy định của pháp luật về hợp đồng điện tử Những khó khăn đáng kể đối với việc giao kết hợp đồng điện tử hiện nay ở Việt Nam là các cơ quan chức năng chưa thật sự vào cuộc. Nhiều cuộc hội thảo diễn ra chỉ nói về vai trò chung chung của thương mại điện tử và nói đến sự cần thiết để đầu tư cho công nghệ thông tin… Trong khi đó cái doanh nghiệp cần là những vướng mắc về công nghệ, về kỹ thuật và về chứng thực chữ ký điện tử, về giải quyết tranh chấp phát sinh trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử. Những vấn đề này chưa được sự quan tâm xác đáng của nhà nước. Nói cách khác là các cơ quan quản lý của nhà nước vẫn còn ở xa đối với doanh nghiệp và người dân. Nhiều cơ quan có thẩm quyền vẫn chưa hiểu được doanh nghiệp đang cần gì. Đặc biệt, các thủ tục hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử chưa được cải thiện. Hệ thống các quy định về hợp đồng điện tử cũng phải được rà soát, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp thì doanh nghiệp Việt Nam mới có thể giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử thành công. 3.2 Đề xuất và phương hướng hoàn thiện Tìm ra biện pháp để thương mại điện tử ở Việt Nam thật sự phát triển đã trở thành đã trở thành một yêu cầu bức thiết trong thời đại hội nhập và bùng nổ công nghệ thông tin. Với những khó khăn và thuận lợi nêu trên đòi hỏi phải có những bước đi thích hợp để đảm bảo cho việc giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử ở nước ta. Về phương diện lý luận, việc hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật về thương mại điện tử nói riêng luôn có tính tương đối, thích ứng với từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế. Vì vậy, việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về thương mại điện tử phải được xác định là một quá trình liên tục, lâu dài với những bước đi và giải pháp thích hợp. Đảng và Nhà nước Việt Nam đã khẳng định quyết tâm sẵn sàng cải cách hệ thống pháp luật để nha nhập WTO và hội nhập toàn diện vào nền kinh tế quốc tế. Nghị quyết hội nghị lần thứ IX Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX khẳng định Việt Nam sẽ “triển khai khẳng trương và đồng bộ việc chuẩn bị đầy đủ điều kiện để dành thế chủ động trong hội nhập, nhất là sửa đổi và xây dựng mới các văn bản pháp luật phù hợp với yêu cầu hội nhập”(17). Tuy nhiên khi hoàn thiện hệ thống pháp luật về thương mại điện tử cần chú ý các vấn đề sau: Thứ nhất, hội nhập kinh tế quốc tế tất yếu dẫn đến việc sửa đổi bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách phát triển kinh tế nói chung và hệ thống pháp luật về thương mại nói riêng. 17( ( ) Đảng cộng sản Việt Nam (2001) văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX GVHD: Nguyễn Mai Hân SVTH: Dương Thanh GiềngTrang 45 Tìm hiểu những quy định của pháp luật về hợp đồng điện tử Thứ hai, trong thương mại điện tử, hội nhập kinh tế quốc tế là nhu cầu khách quan và tất yếu đối với bản thân các doanh nghiệp trong quan hệ thương mại dịch vụ. Khác với thương mại truyền thống thương mại điện tử có xu hướng vượt tầm biên giới quốc gia và phi địa giới hành chính, do nhiều dịch vụ là các sản phẩm trí tuệ cao, ứng dụng thành quả của cách mạng thông tin. Bên cạnh đó, việc cung cấp thương mại dịch vụ thường mang tính liên quốc gia, người tiêu dùng và nhà cung cấp thường ở các quốc gia khác nhau. Do đó quá trình giao kết hợp đồng cũng diễn ra trên các phương tiện điện tử. Bởi vậy, quá trình hoàn thiện pháp luật thương mại điện tử nước ta phải luôn tính tới sự phù hợp chung với chuẩn mực quốc tế về những vấn đề chung. Như vậy có thể nói, thực chất của hội nhập kinh tế quốc tế, về mặt pháp lý, là việc gia nhập các điều ước quốc tế và tiếp tục đàm phán ký thêm các điều ước quốc tế mới. Việc hoàn thiện pháp luật thương mại điện tử xuất phát từ bản thân phát triển của hoạt động thương mại điện tử và xuất phát từ nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế của mỗi quốc gia trong đó có Việt Nam. Trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và quá trình gia nhập WTO hiện nay, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về thương mại nói chung và thương mại điện tử nói riêng một mặt nhằm khắc phục kịp thời những bất cập của hệ thống pháp luật về thương mại dịch vụ đang gây khó khăn cho các nhà cung cấp và thị trường dịch vụ, mặt khác phải hướng tới việc tạo dựng hành lang pháp lý đầy đủ và phù hợp, đáp ứng nhu cầu phat triển và ổn định lâu dài của thị trường, đồng thời góp phần đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, giúp chúng ta tránh được các thua thiệt trong giao kết hợp đồng điện tử trên toàn cầu. Với cách tiếp cận như vậy, từ những cơ sở lý luận và thực tiễn của Việt Nam, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về thương mại điện tử cần được thực hiện theo tiêu chí nhất định. Làm thương mại điện tử không chỉ có lợi cho người dân, cho doanh nghiệp mà có lợi cho Chính phủ, vì doanh nghiệp không thể gian dối được. Chính vì thế, vai trò của Chính phủ là đầu mối thu gom tất cả các yếu tố nhỏ lẻ này lại là vô cùng quan trọng. Vì vậy cần xây dựng một hệ thống mạng trục quốc gia hay còn gọi là mạng xương sống của quôc gia để cho người sử dụng trong cả nước kết nối vào mạng máy tính của các nhà cung cấp dịch vụ mạng và truy cập Internet một cách dể dàng. Cần phải có khoản kinh phí hỗ trợ người dân, doanh nghiệp và cơ quan nhà nước đẩy mạnh ứng dụng giao dịch điện tử, thay đổi chứng minh thư nhân dân sang GVHD: Nguyễn Mai Hân SVTH: Dương Thanh GiềngTrang 46 Tìm hiểu những quy định của pháp luật về hợp đồng điện tử dạng chứng minh thư thông minh; tổ chức đào tạo, bổ sung thiết bị để các cơ quan Điều tra, Tư pháp, Tòa án có đủ trình độ năng lực tiến hành tố tụng, xét xử trong lĩnh vực giao dịch điện tử; thành lập tổ chức mang tính quốc gia để điều phối việc thực hiện Luật. Cùng với tiến bộ công nghệ, sự phát triển phong phú, đa dạng của thương mại điện tử luôn đặt ra những vấn đề mới cho hệ thống pháp luật về thương mại điện tử: Sự bùng nổ của trò chơi trực tuyến dẫn đến nhu cầu xác định vị trí pháp lý của tài sản ảo; các vụ tranh chấp về tên miền cho thấy cần có tư duy quản lý thích hợp với loại tài nguyên đặc biệt này; việc gửi thư điện tử quảng cáo số lượng lớn đòi hỏi phải có biện pháp bảo vệ người tiêu dùng. Để hoạt động giao kết bằng hợp đồng điện tử phát triển một cách thuận lợi và an toàn nhất thì không chỉ các cá nhân, doanh nghiệp mà có nhà nước phải phát huy tốt vai trò của mình. Chẳng hạn như: — Với vai trò là người tiêu dùng Chính phủ sẽ đẩy nhanh tiến trình xây dựng chính phủ điện tử xuất phát từ điều kiện có lợi cho nhân dân chính phủ sẽ tăng cường công bố các tin tức, thực hiện trực tuyến các hoạt động như khai báo thuế, nộp thuế, mời thầu, báo cáo,… thực thi kế hoạch thương mại điện tử, làm gương cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó chính phủ cũng là người quản lý do đó chính phủ giữ vai trò quy hoạch vĩ mô và chỉ đạo quá trình phát triển thương mại điện tử. Cố gắn làm tốt các công tác:  Thiết lập một tiêu chuẩn có tính chất toàn cầu đảm bảo việc thực thi một cách có lợi cho thương mại điện tử.  Tăng cường công tác tuyên truyền, tư vấn và đào tạo về thương mại điện tử vvới toàn xã hội và kịp thời giải quyết các khúc mắc cũng như những hiểu lầm của nhân dân về thương mại điện tử.  Đẩy mạnh tốc độ xây dựng cơ sở hạ tầng thông tin: thực chất của họat động thương mại điện tử mang tín ứng dụng, vì vậy cần phải có mạng lưới thương mại điện tử toàn diện. — Xây dựng hệ thống mạng thông tin phải đưa vào cơ chế cạnh tranh, cần cổ vũ cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng và trật tự, xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ có hiệu quả, đặt ra các tiêu chuẩn về chi phí thông tin có lợi cho thương mại điện tử đẩy nhanh tiến trình ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành luật thương mại điện tử. Tuy uỷ ban của tổ chức Thương mại thế giới đã thông qua Luật mẫu về Thương mại điện tử vào năm 1996, và Luật mẫu về chứ ký điện tử 2001 nhưng hai bộ luật này chỉ mới đưa ra một số quy định về nguyên tắc và trình tự giao dịch GVHD: Nguyễn Mai Hân SVTH: Dương Thanh GiềngTrang 47 Tìm hiểu những quy định của pháp luật về hợp đồng điện tử thương mại điện tử chứ chưa thể giải quyết các tranh chấp trong thực tế. Nó chỉ có thể là bản mẫu để các nước tham khảo khi xây dựng luật hợp đồng điện tử. — Cổ vũ doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển hình thức thương mại điện tử giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp (B2B). Trong tổng số doanh thu thương mại điện tử thì có đến 90% doanh thu là do phương thức giao dịch B2B mang lại. Nhưng thực tế các doanh nghiệp không mặn mà trong giao dịch B2B do đó cần phải nâng cao ý thức thương mại điện tử cho các doanh nghiệp này. Vì như hiện nay đa số các doanh nghiệp chỉ quen với phương thức gặp mặt đàm phán trực tiếp tại các hội trợ, triển lãm hay gặp mặt trực tiếp. Đối với việc lên mạng tra tìm thông tin về sản phẩm và doanh nghiệp còn rất mơ hồ. Việc cổ vũ các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển hoạt động thương mại điện tử B2B là hoàn toàn phù hợp với tình hình phát triển kinh tế của nước ta . Tóm lại, trong thời kỳ thương mại điện tử, năng lực học tập và sức sáng tạo là những năng lực hạt nhân mà các doanh nghiệp cần phải có. Thương mại điện tử muốn tồn tại và phát triển thì phải có những đột phá về mặt tư duy, sáng tạo ra những mô hình mới. Có như thế mới có thể đưa thương mại điện tử đi sâu vào trong hoạt động kinh doanh cũng như trong cuộc sống hàng ngày của mọi người. Vấn đề xử lý vi phạm trong giao dịch điện tử, tội phạm mạng và tố tụng liên quan đến giao dịch điện tử rất cần sớm có văn bản hướng dẫn để làm chỗ dựa cho tòa án xử lý khi có tranh chấp và đảm bảo an toàn cho giao dịch điện tử. Ngoài ra, vấn đề chứng cứ điện tử, mật mã cho khu vực không thuộc bí mật nhà nước hay vấn đề bảo vệ dữ liệu cá nhân cũng được đề cập đến trong phạm vi xây dựng văn bản mới về thương mại điện tử.  Các giải pháp cụ thể Cuộc cách mạng về công nghệ thông tin đang tiến triển với tốc độ nhảy vọt, trở thành một trong những động lực quan trọng của sự phát triển, làm biến đổi sâu sắc đời sống kinh tế - xã hội, văn hóa của nhân loại. Để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, cơ quan lập pháp nước ta cần hoàn thiện để phù hợp với các Điều ước quốc tế đã ký kết hoặc gia nhập. Ngoài việc xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia, phát triển hạ tầng viễn thông và Internet, đào tạo nguồn nhân lực, thì việc đẩy nhanh tốc độ hoàn thiện môi trường pháp lý về lĩnh vực giao dịch điện tử là hết sức quan trọng và cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Cần ban hành một đạo luật để sữa đổi và bổ sung các văn bản luật có liên quan không phù hợp với quy định của WTO và lộ trình thực hiện các cam kết về thương mại điện tử của Việt Nam (có thể gọi là luật về gia nhập WTO). GVHD: Nguyễn Mai Hân SVTH: Dương Thanh GiềngTrang 48 Tìm hiểu những quy định của pháp luật về hợp đồng điện tử — Hoàn thiện khung pháp lý về hợp đồng điện tử: Khung pháp lý cho thương mại điện tử ở Việt Nam đã và đang từng bước được hoàn thiện với việc sửa đổi ban hành Luật Thương mại điện tử 2005, sửa đổi ban hành Bộ luật dân sự 2005 và ban hành Luật giao dịch điện tử đầu tiên ở Việt Nam (năm 2005). Tháng 6/2006 vừa qua, Nghị định đầu tiên hướng dẫn thực thi Luật giao dịch điện tử 2005 cũng đã được ban hành. Đó là Nghị định số 57/2006/NĐ/CP ngày 09/05/2006 về Thương mại điện tử. Và gần đây nhất là Quốc hội đã ban hành Luật Công nghệ thông tin (ngày 29/06/2006), Nghị định số 27/2007/NĐ-CP Chính phủ ngày 23/2/2007 quy định chi tiết thi hành Luật Giao dịch điện tử trong hoạt động tài chính, Nghị định số 27/2007/NĐ-CP về Giao dịch điện tử trong hoạt động tài chính của Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều này cho thấy khung pháp lý về hợp đồng điện tử đang từng bước được hình thành. Tuy nhiên, trong lĩnh vực giao kết hợp đồng điện tử, khung pháp lý về hợp đồng điện tử cho đến nay vẫn còn thiếu, chưa đầy đủ và do đó vẫn phải được tiếp tục xem xét, sửa đổi bổ sung để hoàn thiện. Việc hoàn thiện khung pháp lý cho hợp đồng điện tử trước hết phải được bắt đầu bằng việc tiếp tục sửa đổi, bổ Sung luật giao dịch điện tử năm 2005 và ban hành văn bản hướng dẫn thi hành luật này. Các nội dung cần bổ sung thêm:  Bổ sung thêm các quy định về giao kết hợp đồng điện tử như: thế nào là một đề nghị giao kết hợp đồng điện tử chắc chắn, thế nào là một chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, khi đã chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng nhưng có nêu điều kiện hoặc sửa đổi một số nội dung của hợp đồng đã được gửi tới thì người này có được coi là đã đưa ra một đề nghị mới hay không… Tất cả những vấn đề này điều chưa được luật giao dịch điện tử quy định. Ngay cả Nghị định 57/2006/NĐ-CP (09/06/2006) cũng chưa quy định cụ thể vấn đề này. Do đó cần phải bổ sung các quy định trên nhằm thuận lợi hơn trong quá trình giao kết hợp đồng điện tử.(18)  Bên cạnh đó cần bổ sung thêm các quy định về khái niệm đề nghị giao kết hợp đồng điện tử, về thời gian hiệu lực của đề nghị giao kết hợp đồng điện tử, về thay đổi, rút lại, hủy bỏ và chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng điện tử. Bổ sung các quy định về trách nhiệm cụ thể khi vi phạm hợp đồng điện tử đối với các bên tham gia giao kết hợp đồng điện tử, bổ sung về thời hiệu tố tụng, thời hiệu khởi kiện khi phát sinh tranh chấp về hợp đồng điện tử. 18( ( ) Nguyễn Thị Mơ, Cẩm nang pháp luật về giao kết hợp đồng điện tử, Nhà xuất bản Lao Động – Xã Hội, Hà Nội 2006 GVHD: Nguyễn Mai Hân SVTH: Dương Thanh GiềngTrang 49 Tìm hiểu những quy định của pháp luật về hợp đồng điện tử — Đào tạo đội ngủ, đẩy công tác phổ biến, tuyên truyền về luật giao dịch điện tử năm 2005 khuyến khích việc giao kết hợp đồng điện tử giữa các doanh nghiệp.  Nguồn nhân lực chính là nhân tố quyết định sự phát triển của thương mại điện tử cũng như giao kết và thực hiện thành công hợp đồng điện tử. Mỗi doanh nghiệp muốn thành công lâu dài trên thương trường thương mại điện tử thì phải có đội ngủ nguồn nhân lực để kinh doanh lĩnh vực mới mẽ này. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào thương mại điện tử nói chung và giao kết hợp đồng điện tử nói riêng có thành công hay không cũng phải nhờ vào nguồn lực con người. Một doanh nghiệp khi tham gia giao kết hợp đồng điện tử không chỉ phải chuẩn bị về mặt nhận thức, về hạ tầng kỹ thuật mà cả về con người. Doanh nghiệp cần phải đầu tư thích đáng cho việc đào tạo nguồn nhân lực, đào tạo cán bộ chuyên trách về mặt kỹ thuật, về công nghệ, về thương mại và cả về pháp luật. Để có thể giao kết một hợp đồng điện tử thành công và có lợi nhất cho mình, doanh nghiệp không chỉ cần hiểu biết về hợp đồng điện tử, các vấn đề pháp lý khi ký kết, mà còn cần đến một đội ngủ cán bộ chuyên trách giỏi thao tác về nghiệp vụ giao kết hợp đồng điện tử. Đội ngủ cán bộ này không chỉ hiều biết về mặt kỹ thuật công nghệ thông tin mà còn cả về mặt pháp lý. Thực tế cho thấy, các cán bộ chuyên trách về thương mại điện tử trong các doanh nghiệp Việt Nam hầu hết đều đi lên từ kinh nghiệm thực tế, tức là chưa qua đào tạo bài bản, chưa có một hiểu biết đầy đủ sâu sắc về mặt kiến thức và kỹ thuật công nghệ thông tin. Chính điều này cũng đã và đang gây bất lợi cho các doanh nghiệp khi có sự thay đổi về mặt chính sách của nhà nước, thay đổi môi trường pháp lý xung quanh. Sự hiểu biết không đầy đủ của các cán bộ từ cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp đến cán bộ chuyên trách về thương mại điện tử sẽ làm cho doanh nghiệp lúng túng khi có sự thay đổi đó, dẫn đến sự vi phạm pháp luật không đáng có, đồng thời dẫn đến việc giao kết hợp đồng điện tử với những điều kiện bất lợi cho mình mà không biết, hay không thể bảo vệ quyền lợi của mình khi xảy ra tranh chấp. Điều đó có nghĩa là doanh nghiệp phải chú ý tới sự đầu tư thích đáng cho việc phát triển nguồn nhân lực của doanh nghiệp mình. Đây là một nhiệm vụ cấp thiết cho các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, nhất là trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.  Có tới 70% trong số các doanh nghiệp được hỏi đến thì họ lại không biết đến sự khác biệt giữa hợp đồng truyền thống và hợp đồng điện tử, nhất là sự khác nhau về độ an toàn và biện pháp phòng ngừa rủi ro. Họ ký các hợp đồng điện tử thông qua người môi giới, thông qua người trung gian là chính. Như vậy, nếu nói GVHD: Nguyễn Mai Hân SVTH: Dương Thanh GiềngTrang 50 Tìm hiểu những quy định của pháp luật về hợp đồng điện tử rằng đa số các doanh nghiệp Việt Nam giao kết hợp đồng điện tử trong điều kiện “điếc không sợ súng” cũng không có gì là quá đáng. Chính vì vậy, chưa bao giờ công tác tuyên truyền, phổ biến nội dung của luật giao dịch điện tử và các văn bản liên quan đến giao dịch điện tử trở nên hết sức cần thiết và cấp bách như hiện nay.  Khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia đào tạo nguồn nhân lực cho công nghệ thông tin nói chung và công nghiệp phần mềm nói riêng với hình thức doanh nghiệp dịch vụ phần mềm và các hình thức khác. Đặc biệt chú trọng tạo môi trường thuận lợi cho số sinh viên học sinh đã tốt nghiệp các ngành khác được tiếp tục đào tạo và bồi dưỡng về công nghệ thông tin để có thể tham gia phát triển công nghiệp phần mềm.  Năng cao năng lực xét xử các tranh chấp về hợp đồng điện tử cho đội ngủ thẩm phán: Nhiều thẩm phán ở nước ta còn đang hiểu mù mờ về hợp đồng điện tử cũng như các vấn đề pháp lý và kỹ thuật liên quan đến vấn đề giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử. Đa số các thẩm phán của nước ta chỉ có kinh nghiệm giải quyết các tranh chấp được giao kết bằng phương thức truyền thống. Do đó cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần phải dành một khoản ngân sách nhất định cho việc bồi dưỡng kiến thức pháp luật về giao kết hợp đồng điện tử, tập huấn kỷ năng xét xử các tranh chấp về hợp đồng mới mẻ này. Có như thế họ mới đưa ra được những phán quyết công bằng góp phần thực thi các quy định của pháp luật về hợp đồng điện tử trong cuộc sống.  Các giải pháp khác Bên cạnh hoàn thiện khung pháp lý về hợp đồng điện tử, về tăng cường đào tạo đội ngũ chuyên trách về thương mại điện tử và tuyên truyền phổ biến pháp luật về thương mại điện tử thì nhà nước cần phải: — Tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng thông tin cho đủ mạnh như hạ tầng cơ sở công nghệ, hạ tầng cơ sở nhân lực, hạ tầng bảo mật an ninh, hạ tầng bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, hạ tầng ngăn chặn những ảnh hương tiêu cực của Internet, hạ tầng điện kực hoàn hả. — Ngoài ra các quốc gia cũng phải có biện pháp bảo đảm an toàn và an ninh thông tin mạng, có các chương trình hữu hiệu chống các tội phạm tin học... Có như thế các doanh nghiệp mới yên tâm khi tham gia giao kết một hợp đồng rất mới mẻ này, đồng thời tạo ra tính an toàn, ổn định cho các hoạt động này. — Có chính sách khuyến khích thỏa đáng để phát triển hệ thống thanh toán điện tử tại các ngân hàng thương mại. — Khẩn chương thành lập cơ quan chứng thực chữ ký điện tử. GVHD: Nguyễn Mai Hân SVTH: Dương Thanh GiềngTrang 51 Tìm hiểu những quy định của pháp luật về hợp đồng điện tử KẾT LUẬN  Giao kết hợp đồng điện tử là hình thức tương đối còn mới đối với các nhà kinh doanh của tế Việt Nam. Mặc dù vậy, nhưng hợp đồng điện tử lại có tác dụng tích cực đối với nhiều doanh nghiệp trong hoạt động mua bán. Năm 2005, Luật giao dịch điện tử ra đời và có hiệu lực thi hành ngày 1 tháng 3 năm 2006 đã đánh dấu bước phát triển mới của nền kinh tế nước ta. Nhiều doanh nghiệp tiến hành ký kết hợp đồng thông qua hệ thống điện tử nhằm mở rộng giao dịch với các đối tác trên thế giới. Sự bùng nổ của công nghệ thông tin đặt chúng ta trước những vận hội và thách thức mới, làm thay đổi sâu sắc toàn bộ đời sống kinh tế xã hội. Trong kinh doanh hiện nay đặc biệt là trong kinh doanh quốc tế, việc áp dụng các công nghệ mới vào kinh doanh là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu để năng cao năng lực cạnh tranh. Sử dụng các phương tiện điện tử là một phương tiện hữu hiệu hỗ trợ đắc lực cho việc kinh doanh và giao kết hợp đồng cũng giống như việc áp dụng công nghệ mới. Các doanh nghiệp, công ty nào đi đầu, áp dụng có hiệu quả các hình thức kinh doanh và giao kết hợp đồng mới này sẽ được lợi thế trong cạnh tranh. Lợi thế này có được là nhờ thương mại điện tử và giao kết hợp đồng điện tử trong thời đại kinh doanh quốc tế và biến đổi không ngừng như hiện nay đem lại. Vấn đề an toàn cho giao dịch thông qua mạng được khẳng định về mặt kỹ thuật phải được tuân thủ nghiêm ngặt các quy trình, quy định về bảo mật. Tuy nhiên, trong giao dịch luôn luôn phát sinh các tranh chấp, để giải quyết các tranh chấp đó cần phải có các quy định pháp luật điều chỉnh khi phát sinh tranh chấp. Chỉ khi có khung pháp lý chặt chẽ, đảm bảo phân định rõ quyền và nghĩa vụ của các bên có liên quan thì giao dịch điện tử mới có thể phát triển mạnh mẽ, rộng khắp. Hợp đồng điện là một vấn đề mới, nó thu hút sự quan tâm của tất cả mọi người không chỉ là các đối tác làm ăn với nhau mà có cả các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Có như thế thì việc giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử mới thật sự trở nên phổ biến đối với mọi thành phần xã hội. GVHD: Nguyễn Mai Hân SVTH: Dương Thanh GiềngTrang 52 Tìm hiểu những quy định của pháp luật về hợp đồng điện tử TÀI LIỆU THAM KHẢO   Luật và nghị định 1.Bộ luật dân sự Việt Nam 2005; 2.Luật thương mại 2005; 3.Luật Giao dịch điện tử 2005 của Việt Nam; 4.Luật mẫu của Uncitral về thương mại điện tử; 5.Luật công nghệ thông tin năm 2006 của Việt Nam; 6.Nghị định số 57/2006/NĐ-CP Chính phủ ngày 09 tháng 06 năm 2006 về Thương mại điện tử; 7.Nghị định số 27/2007/NĐ-CP Chính phủ ngày 23/2/2007 quy định chi tiết thi hành Luật giao dịch điện tử trong hoạt động tài chính; 8.Nghị định số 27/2007/NĐ-CP về Giao dịch điện tử trong hoạt động tài chính của Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; 9.Chỉ thị số 07 /2004/CT-BBCVT ngày 19/07/2004 của Bộ bưu chính viễn thông về việc tăng cường công tác quản lý đại lý Internet công cộng.  Sách 1.Hoàng Thế Lâm, thông tin khoa học pháp lý – chuyên đề bàn về cơ sở pháp lý của thương mại điện tử ở Việt Nam, nhà xất bản Viện Nghiên Cứu Khoa Học Pháp Lý – Bộ Tư Pháp, tháng 08 năm 2000; 2.Nguyễn Ngọc Khánh, “Chế định hợp đồng: Những quy định chung và một số vấn đề cần hoàn thiện”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 12/2003, trang 38 và 39; 3.Nguyễn Thị Mơ, Cẩm nang pháp luật về giao kết hợp đồng điện tử, Nhà xuất bản Lao Động – Xã Hội, Hà Nội 2006; 4.Phan Thảo Nguyên, Nguyễn Như Phát, Pháp luật thương mại dịch vụ Việt Nam và hội nhập kinh tế quốc tế, Nhà xuất bản Bưu Điện, Hà Nội – 2006; 5.Vụ Công Tác Lập Pháp, Những nội dung cơ bản của luật giao dịch điện tử, Nhà xuất bản Tư Pháp, Hà Nội – 2006.  Báo, tạp chí 1.Báo kinh tế Việt Nam số 27, 39, 48(11/2007); 2.Cầu nối các doanh nghiệp, giải pháp đẩy mạnh ứng dụng thương mại điện tử cho các doanh nghiệp Việt Nam, Tạp chí kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương số 41(2006); GVHD: Nguyễn Mai Hân SVTH: Dương Thanh GiềngTrang 53 Tìm hiểu những quy định của pháp luật về hợp đồng điện tử 3.Phát triển thươngmại điện tử: Được và chưa được, nghiên cứu trao đổi luật giao dịch điện tử, Tạp chí khoa học thương mại số 21 (2007); 4.Mai Hồng Quỳ, một số vấn đề pháp lý của thương mại điện tử và việc áp dụng ở Việt Nam, Nhà nước và pháp luật số 2 (142)/2000; 5.Mai Hồng Quý, pháp lý của thương mại điện tử áp dụng ở Việt Nam, Khoa học pháp lý số 2/2000, tr.8; 6.Nhị Nguyễn, một số vấn đề phát triển thương mại điện tử, Khoa học pháp lý số 3/2000, tr.33; 7.Trần Văn Biên, những vấn đề pháp lý về giao kết hợp đồng điện tử, Tạp chí Tòa án nhân dân tháng 1 năm 2007 (số 1).  CÁC WEBSITE 1. www://eureka.com.vn 2. 3. www.mot.gov.vn 4. h 5. http:www.luatvietnam.com.vn GVHD: Nguyễn Mai Hân SVTH: Dương Thanh GiềngTrang 54

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfTamp204M HI7874U NH7918NG QUY 2727882NH C7910A PHamp193P LU7852T V7872 Hamp7.PDF