Năm là, về lấy phiếu tín nhiệm:
Điều 6, Luật Tổ chức CQĐP quy định:
“4. Ban của HĐND là cơ quan của HĐND,
có nhiệm vụ thẩm tra dự thảo nghị quyết, báo
cáo, đề án trước khi trình HĐND, giám sát,
kiến nghị về những vấn đề thuộc lĩnh vực
Ban phụ trách; chịu trách nhiệm và báo cáo
công tác trước HĐND”, trong khi Trưởng
ban thường là hoạt động kiêm nhiệm, Phó
Trưởng ban hoạt động chuyên trách th́ì các
Phó Trưởng ban của HĐND là những người
cần có năng lực chuyên môn, năng nổ, mẫn
cán trong công việc để giúp cấp Trưởng thực
hiện hiệu quả theo các mảng, lĩnh vực khác
biệt. Vì vậy, đề nghị xem xét, bổ sung việc
lấy phiếu tín nhiệm đối với Phó Trưởng ban
của HĐND.
Sáu là, về mối quan hệ giữa HĐND
các cấp: Luật chưa quy định rõ về vấn đề
này, nhất là trách nhiệm của Thường trực
HĐND các cấp trong cơ chế phối hợp, tổ
chức và hoạt động. Song trên thực tế, mối
quan hệ này thể hiện rất rõ như đã trình bày
ở trên. Cần có quy định về việc giao ban
giữa Thường trực HĐND cấp tỉnh, huyện,
xã và có mối quan hệ liên kết giữa HĐND
các tỉnh, thành phố
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 380 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Luật tổ chức chính quyền địa phương - Thực tế áp dụng và một số kiến nghị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬT TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG -
THỰC TẾ ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
Tóm tắt:
Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 có hiệu lực thi hành
từ ngày 01/01/2016 đã góp phần thể chế hóa Hiến pháp năm 2013 về
địa vị pháp lý, cơ cấu tổ chức và hoạt động của bộ máy chính quyền
địa phương. Trong hơn ba năm triển khai thực hiện Luật, đã có hơn
ba mươi lần Hội nghị Thường trực Hội đồng nhân dân các tỉnh, thành
phố của 06 khu vực trong cả nước đã được tổ chức. Tại mỗi Hội nghị,
vấn đề thực hiện Luật luôn được bàn bạc, thảo luận, trao đổi những
kinh nghiệm và tìm cách tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc bên
cạnh việc khẳng định những thành tựu, thuận lợi mà Luật Tổ chức
chính quyền địa phương năm 2015 mang lại. Đã có rất nhiều đánh giá
cho rằng, bên cạnh những kết quả đạt được trong quá trình triển khai
thi hành, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 đã bộc lộ
những hạn chế, gây khó khăn, vướng mắc khi áp dụng. Do đó, một số
quy định của Luật cần được tiếp tục nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung
cho phù hợp với chủ trương, định hướng của Đảng và đáp ứng yêu
cầu thực tiễn.
Nguyễn Thị Hường*
* ThS. Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Lập pháp, Viện Nghiên cứu Lập pháp.
Abstract
The Law on Organization of Local Administration of 2015, taking
its enforcement from January 01, 2016 has made the contribution
of the institutionalization of the Constitution of 2013 on the legal
status, organizational structure and operation of the local government
administration. For over three years of the law enforcement, there
have been more than thirty meeting sessions of the People's Councils
of provinces and cities of 06 regions throughout the country. At
each meeting session, the enforcement of the Law are always under
discussions, exchange of experience and seeking remedies for difficulties
and obstacles besides affirming the achievements and advantages that the
Law on Organization of Local Administration of 2015. There have been
assessments that, in addition to the results achieved in the emforcement
process, the Law on Organization of Local Administration of 2015
has revealed limitations causing difficulties and obstacles during its
enforcement. Therefore, some provisions of the Law should continue
to be reviewed for amendments in accordance with the guidelines and
orientations of the Party and meet practical requirements
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Luật Tổ chức chính quyền
địa phương, hạn chế, nguyên nhân
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 01/06/2019
Biên tập : 19/06/2019
Duyệt bài : 27/06/2019
Article Infomation:
Keywords: Law on Organization of
Local Administration; limitations;
reasons
Article History:
Received : 01 Jun 2019
Edited : 19 Jun 2019
Approved : 27 Jun 2019
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
34 Số 12(388) T6/2019
1. Những vướng mắc, hạn chế và nguyên nhân
1.1 Các vấn đề liên quan tới cơ cấu, tổ chức
- Quy định về chức danh người đứng
đầu cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân
dân (UBND), Luật Tổ chức chính quyền địa
phương (CQĐP) quy định các thành viên
UBND là thủ trưởng các cơ quan chuyên
môn của UBND, do Hội đồng nhân dân
(HĐND) bầu1 và tại Điều 3 Nghị định số
08/2016/NĐ-CP ngày 25/01/2016 của Chính
phủ quy định về số lượng Phó Chủ tịch
UBND và quy trình, thủ tục bầu, từ chức,
miễn nhiệm, bãi nhiệm, điều động, cách
chức thành viên UBND. Tuy nhiên, Luật
Tổ chức CQĐP lại chưa quy định cụ thể về
trình tự, thủ tục bầu Ủy viên UBND, cụ thể
là bầu Ủy viên UBND trước hay bổ nhiệm
giữ chức vụ người đứng đầu cơ quan chuyên
môn thuộc UBND trước và nếu bầu không
được chức danh Ủy viên UBND thì người
đó có được bổ nhiệm vào chức danh người
đứng đầu cơ quan chuyên môn hay không2.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH)
đã có Hướng dẫn số 1138/HD-UBTVQH13
ngày 03/6/2016, hướng dẫn một số nội
dung về việc tổ chức kỳ họp thứ nhất của
HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021, tại
điểm 5 có nêu “Căn cứ vào kết quả bầu của
HĐND, Chủ tịch UBND cấp tỉnh, cấp huyện
ra quyết định bổ nhiệm Ủy viên UBND vào
chức danh người đứng đầu cơ quan chuyên
môn tương ứng thuộc UBND cùng cấp (trừ
Ủy viên phụ trách công an và Ủy viên phụ
trách quân sự)”. Tuy nhiên, do đây là Hướng
dẫn chỉ áp dụng cho việc tổ chức kỳ họp thứ
nhất, không phải là văn bản quy phạm pháp
luật, nên các địa phương không có cơ sở
pháp lý để áp dụng lâu dài.
- Về cơ cấu tổ chức của HĐND: Tổ
1 Các Điều 20, 27, 41, 48, 55 và Điều 123 của Luật Tổ chức CQĐP năm 2015.
2 Nguyễn Quốc Ca, Có làm giảm vai trò, tính linh hoạt của Thường trực HĐND?
?tabid=76&NewsId=419386), truy cập ngày 25/4/2019.
chức bộ máy của HĐND những năm vừa
qua chưa có sự ổn định, trong khi nhiệm
vụ, quyền hạn của đại biểu HĐND rất nặng
nề, để HĐND các cấp thực hiện có hiệu quả
nhiệm vụ theo quy định, có đủ năng lực
hoạch định chính sách, đề xuất chính sách thì
việc đề xuất giảm số lượng cấp phó chuyên
trách (Phó Chủ tịch HĐND, Phó Trưởng ban
của HĐND cấp tỉnh) sẽ ảnh hưởng đến việc
bảo đảm chất lượng, hiệu quả hoạt động của
cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương.
Trong khi hầu hết các đại biểu HĐND đang
hoạt động kiêm nhiệm, vị trí, vai trò của Phó
Chủ tịch, Phó Trưởng ban chuyên trách của
HĐND cấp tỉnh trong triển khai công việc là
rất quan trọng. Việc tăng từ 01 Phó Chủ tịch
HĐND cấp tỉnh lên 02 Phó Chủ tịch HĐND
cấp tỉnh (so với quy định tại Luật Tổ chức
HĐND và UBND năm 2003) thực chất chỉ
là đưa vị trí Ủy viên Thường trực HĐND cấp
tỉnh lên Phó Chủ tịch HĐND cấp tỉnh chứ
không phải làm tăng biên chế. Chính vì thế,
cần phải đặt ra câu hỏi: có nên giảm số lượng
cấp phó chuyên trách của HĐND cấp tỉnh?
- Hoạt động của Thường trực HĐND
cấp xã: Khoản 2 Điều 32 Luật Tổ chức CQĐP
quy định: “Thường trực HĐND xã gồm Chủ
tịch HĐND, một Phó Chủ tịch HĐND”.
Như vậy, Thường trực HĐND cấp xã chỉ có
2 người. Điều này dẫn đến trong quá trình
tổ chức các hoạt động, Thường trực HĐND
xã gặp không ít khó khăn, nhất là hoạt động
tổ chức phiên họp hàng tháng của Thường
trực HĐND cấp xã. Đồng thời, nếu tổ chức
đầy đủ các phiên họp hàng tháng, các nội
dung của phiên họp sẽ khó đảm bảo tính
khách quan, đặc biệt là trong những trường
hợp 2 người có ý kiến khác nhau trong việc
xử lý công việc thuộc nhiệm vụ, quyền hạn
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
35Số 12(388) T6/2019
của Thường trực HĐND (trong trường hợp
biểu quyết quyết định các vấn đề thuộc thẩm
quyền, số phiếu sẽ luôn chỉ là 50/50, không
quá bán. Đó là chưa kể đến việc có thời điểm
họp Thường trực HĐND nhưng vắng 01
người, trường hợp Chủ tịch hoặc Phó Chủ
tịch HĐND xã bị kỷ luật...).
Tại phiên họp ngày 15/7/2019,
UBTVQH đã xem xét đề xuất tăng số
lượng Phó Chủ tịch UBND cấp xã loại
II và giảm Phó Chủ tịch HĐND cấp tỉnh.
Theo phương án tăng số lượng Phó Chủ
tịch UBND cấp xã loại II từ 1 người lên
2 người, cả nước sẽ tăng khoảng 5.500
người. Còn với cấp tỉnh, nếu giảm đồng
loạt tại các địa phương, thì sẽ giảm 63 Phó
Chủ tịch HĐND cấp tỉnh.
Cho ý kiến về những vấn đề liên
quan, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim
Ngân cho biết: Định hướng cơ quan dân cử
là ngày càng tăng số lượng chuyên trách
(cả Quốc hội và HĐND), đồng thời nâng
cao chất lượng cơ quan dân cử để thực
hiện chức năng kiểm soát quyền lực. Trung
ương đã có nghị quyết nên phải cụ thể hóa
và nếu còn vướng mắc thì báo cáo lại.
Chủ tịch Quốc hội không đồng tình
với ý kiến cho rằng, thời gian vừa qua có
2 Phó Chủ tịch HĐND ở địa phương nên
làm tăng biên chế. Từ thực tế đã làm Bí
thư Tỉnh ủy ở địa phương, Chủ tịch Quốc
hội cho rằng, HĐND có 1 Phó Chủ tịch
nhưng có 1 Ủy viên Thường trực. Họp
thường trực HĐND bao giờ cũng có 3
người. “Bây giờ lấy lý do đề xuất giảm
không có cơ sở. Vừa rồi HĐND các tỉnh
họp đều đề nghị không giảm số lượng
này” Chủ tịch Quốc hội cho biết.
Theo Báo Tin tức - TTXVN
ngày 15/07/2019.
- Không thành lập Tổ đại biểu HĐND
xã, phường, thị trấn: việc không thành lập
Tổ đại biểu HĐND cấp xã đã gây khó khăn
trong hoạt động của HĐND cấp xã khi
xem xét, quyết định và thực hiện các vấn
đề thuộc nhiệm vụ quyền hạn của Thường
trực HĐND nói riêng, HĐND cấp xã nói
chung. Trên thực tế, việc thành lập Tổ đại
biểu HĐND đối với chính quyền cấp xã có ý
nghĩa quan trọng trong hoạt động phân chia
đơn vị bầu cử để tiếp xúc cử tri, nắm bắt tâm
tư nguyện vọng của cử tri; tổng hợp, theo
dõi, thông báo kết quả giải quyết ý kiến,
kiến nghị của cử tri ở đơn vị bầu cử
1.2 Các vấn đề liên quan tới hoạt động
- Về thẩm quyền của HĐND giữa
hai kỳ họp, Khoản 1 Điều 106 của Luật Tổ
chức CQĐP năm 2015 quy định: “Phiên
họp Thường trực HĐND là hình thức hoạt
động chủ yếu của Thường trực HĐND. Tại
phiên họp, Thường trực HĐND thảo luận và
quyết định những vấn đề thuộc nhiệm vụ,
quyền hạn của mình theo quy định của pháp
luật”. Nhưng Luật chưa quy định cụ thể về
những vấn đề mà HĐND có thể ủy quyền
cho Thường trực HĐND quyết định giữa hai
kỳ họp, vì quá trình điều hành của UBND
có nhiều vấn đề phát sinh không thuộc thẩm
quyền, hay cần xin ý kiến của HĐND để giải
quyết kịp thời. Tại Khoản 2, Điều 1, Nghị
quyết số 629/2019/NQ-UBTVQH14 ngày
30/01/2019 của UBTVQH Hướng dẫn một
số hoạt động của HĐND quy định: “Đối với
các vấn đề thuộc thẩm quyền của HĐND
có tính cấp bách, cần quyết định ngay, phát
sinh trong thời gian giữa 2 kỳ họp thường lệ
của HĐND thì Thường trực HĐND tự mình
hoặc theo yêu cầu của Chủ tịch UBND cùng
cấp hoặc ít nhất 1/3 tổng số đại biểu HĐND
quyết định triệu tập kỳ họp bất thường của
HĐND để xem xét, quyết định...” Quy định
này chưa thể hiện rõ vai trò, vị trí, tính linh
hoạt, chủ động của Thường trực HĐND
trong việc phối hợp với UBND để xử lý các
vấn đề cấp bách, phát sinh giữa hai kỳ họp.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
36 Số 12(388) T6/2019
- Vai trò, trách nhiệm Tổ đại biểu
HĐND: theo quy định hiện hành3, Tổ đại
biểu HĐND cấp tỉnh, cấp huyện có vai trò
quan trọng, tích cực trong các hoạt động:
giám sát, đóng góp ý kiến về nội dung kỳ
họp HĐND, tổ chức cho đại biểu tiếp xúc cử
tri, thu thập ý kiến, kiến nghị của cử tri, báo
cáo với cử tri về kết quả trước và sau mỗi
kỳ họp. Tuy nhiên, Luật chưa quy định trách
nhiệm của Tổ trưởng, Tổ phó, cách thức tổ
chức hoạt động của Tổ đại biểu và mối quan
hệ phối hợp giữa Tổ đại biểu với Thường
trực HĐND.
1.3 Một số vấn đề khác
- Về lấy phiếu tín nhiệm, Nghị quyết số
85/2014/QH13 ngày 28/11/2014 của Quốc
hội về việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín
nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc
hội, HĐND bầu hoặc phê chuẩn quy định:
“1. Lấy phiếu tín nhiệm là việc Quốc hội,
HĐND thực hiện quyền giám sát, đánh giá
mức độ tín nhiệm đối với người giữ chức
vụ do Quốc hội, HĐND bầu hoặc phê chuẩn
để làm cơ sở cho việc xem xét đánh giá cán
bộ”. Điểm a, khoản 1, Điều 88 Luật Tổ chức
CQĐP quy định lấy phiếu tín nhiệm đối với
Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND, Trưởng ban
của HĐND; Chánh Văn phòng HĐND cấp
tỉnh. Tuy nhiên, thực tế hiện nay rất nhiều
nơi, Trưởng ban HĐND là kiêm nhiệm còn
Phó Trưởng ban hoạt động chuyên trách
nhưng lại không thuộc đối tượng được lấy
phiếu tín nhiệm.
- Về mối quan hệ giữa HĐND các
cấp, Luật chưa quy định rõ mối quan hệ
giữa HĐND các cấp, nhất là trách nhiệm của
Thường trực HĐND cấp trên với Thường trực
HĐND cấp dưới trong công tác phối hợp, tổ
chức và hướng dẫn hoạt động. Tuy nhiên,
trong thực tiễn nảy sinh những vấn đề như:
việc định hướng, hướng dẫn hoạt động, phối
3 Điều 112, Luật Tổ chức CQĐP năm 2015.
hợp giám sát việc thực hiện các nghị quyết
HĐND đã ban hành, giải quyết các vấn đề
vượt quá thẩm quyền của HĐND cấp dưới,
rất cần sự phối hợp, tổ chức và hướng dẫn
hoạt động Thường trực HĐND cấp trên đối
với Thường trực HĐND cấp dưới.
1.4 Nguyên nhân
Luật Tổ chức CQĐP năm 2015 và một
số văn bản hướng dẫn thi hành được ban
hành trước thời điểm có Văn kiện Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ XII, các Nghị quyết,
Kết luận của Trung ương, đặc biệt là Nghị
quyết Trung ương 6 khóa XII ‘‘Một số vấn
đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ
máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt
động hiệu lực, hiệu quả”. Vì vậy, Luật chưa
cụ thể hóa được kịp thời các chủ trương,
định hướng lớn và mới được ban hành của
Đảng, dẫn đến các quy định của Luật chưa
làm cho tổ chức bộ máy của CQĐP các cấp
bớt cồng kềnh, giảm tầng nấc; hiệu lực, hiệu
quả hoạt động chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm
vụ. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu
tổ chức bộ máy, mối quan hệ của một số cơ
quan, tổ chức trong CQĐP còn chồng chéo,
trùng lắp... Việc phân công, phân cấp, phân
quyền giữa các ngành, các cấp và trong từng
cơ quan, tổ chức chưa hợp lý, mạnh mẽ và
đồng bộ.
Hiến pháp năm 2013 được ban hành với
nhiều tư tưởng mới về CQĐP, nhưng Luật Tổ
chức CQĐP năm 2015 chưa hoàn toàn cụ thể
hóa được đầy đủ, toàn diện các quy định mới
của Hiến pháp, có những quy định đã được
“chuyển hóa” nhưng chưa thể hiện đầy đủ
chức năng, nhiệm vụ, bản chất của cơ quan
đại diện quyền lực nhân dân, cơ quan quyền
lực nhà nước ở địa phương. Mô hình tổng
thể về tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của CQĐP chưa được hoàn thiện,
một số quy định của Luật chưa phù hợp với
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
37Số 12(388) T6/2019
yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới, đáp ứng
điều kiện ứng dụng những thành tựu công
nghệ hiện đại của cuộc cách mạng 4.0 vào
quản lý nền hành chính nhà nước.
2. Một số kiến nghị
Tổ chức CQĐP là một trong những
vấn đề vô cùng quan trọng trong tiến trình
xây dựng, cải cách hành chính của một quốc
gia. Việc xác định chức năng, nhiệm vụ, cơ
cấu và định biên cho một tổ chức cần phải
căn cứ vào mức độ phức tạp để đạt mục tiêu
của tổ chức đó; căn cứ vào thể chế, mô hình
về quản lý nhà nước, cơ chế hoạt động (ở
Việt Nam là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản
lý, Nhân dân làm chủ); khắc phục được
tình trạng chồng chéo, trùng lắp chức năng,
nhiệm vụ và xác định rõ mối quan hệ giữa
các cơ quan trong hệ thống bộ máy quản lý.
Vì vậy, việc sửa đổi, bổ sung một số điều,
khoản, điểm của Luật Tổ chức CQĐP năm
2015 nhất là về cơ cấu, tổ chức sẽ tác động
không nhỏ đến chất lượng, hiệu quả, hiệu
lực hoạt động của bộ máy CQĐP. Do vậy,
chúng ta cần xem xét, nghiên cứu, cân nhắc,
từ đó có các đề xuất hợp lý nhằm nâng cao
chất lượng, hiệu quả hoạt động để thực hiện
từ nhiệm kỳ 2021-20264. Theo chúng tôi,
chúng ta cần làm rõ một số vấn đề sau:
Một là, thực hiện chủ trương của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (BCHTW) về
việc tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ
máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt
động hiệu lực, hiệu quả5; căn cứ Nghị quyết
số 56/2017/QH14 ngày 24/11/2017 của
Quốc hội về việc tiếp tục cải cách tổ chức
4 Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ 6 BCHTW khóa XII. Tlđd.
5 Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ sáu BCHTW khóa XII về một số vấn đề về tiếp tục
đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; Kế hoạch số 07-KH/
TW ngày 27/11/2017 của BCHTW về thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu BCHTW Đảng khóa XII “Một số vấn
đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”; Kết luận
số 34-KL/TW ngày 07/8/2018 của Bộ Chính trị về thực hiện một số mô hình thí điểm theo nghị quyết số 18-NQ/TW,
ngày 25/10/2017 của BCHTW khóa XII một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính
trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn, hoạt
động hiệu lực, hiệu quả; ngày 04/10/2018
UBTVQH đã ban hành Nghị quyết số
580/2018/UBTVQH14 về việc thí điểm hợp
nhất Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội,
Văn phòng HĐND và Văn phòng UBND
cấp tỉnh, Khoản 5, Điều 8 có ghi: “5. Các
địa phương thực hiện thí điểm tổng kết việc
thực hiện Nghị quyết này, báo cáo UBTVQH
và Chính phủ trước ngày 01/01/2020”, tức
là cho đến hiện nay, chúng ta vẫn đang thí
điểm hợp nhất Văn phòng Đoàn đại biểu
Quốc hội, Văn phòng HĐND và Văn phòng
UBND cấp tỉnh, chưa tổng kết việc thực
hiện Nghị quyết này, nên việc đưa cơ cấu tổ
chức cụ thể vào trong Luật Tổ chức CQĐP
năm 2015 là chưa phù hợp.
Hai là, về chức danh người đứng đầu
cơ quan chuyên môn của UBND: Đối với
hầu hết các chức danh khi trình HĐND bầu
làm Ủy viên UBND cấp tỉnh, cấp huyện thì
trước đó, các chức danh này đều đã được bổ
nhiệm làm người đứng đầu cơ quan chuyên
môn thuộc UBND cùng cấp. Nếu sau khi
trình HĐND bầu làm Ủy viên UBND, lại
tiến hành bổ nhiệm chức danh này vào vị trí
người đứng đầu cơ quan chuyên môn UBND
lần nữa sẽ dẫn đến tình trạng ‘‘bổ nhiệm lại’’
chức danh này (vì thời điểm đó vẫn đang là
người đứng đầu cơ quan chuyên môn). Nếu
thực hiện việc bổ nhiệm người đứng đầu cơ
quan chuyên môn sau khi HĐND cùng cấp
bầu làm Ủy viên UBND thì Luật Tổ chức
CQĐP, Quy chế tổ chức và hoạt động của
HĐND cần quy định cụ thể quy trình, thủ
tục tiến hành bổ nhiệm chức danh này vì
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
38 Số 12(388) T6/2019
hiện nay chưa có quy định và cần làm rõ
thời điểm tính thời hạn bổ nhiệm là như thế
nào? Thời điểm bổ nhiệm sẽ tính theo nhiệm
kỳ của HĐND, UBND hay theo Quyết định
số 27/2003/QĐ-TTg ngày 19/02/2003 của
Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy
chế bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, luân chuyển, từ
chức, miễn nhiệm cán bộ, công chức lãnh
đạo. Đối với quy trình, thủ tục bầu Ủy viên
UBND, cần cân nhắc, quy định người nào
được HĐND tín nhiệm bầu đạt chức danh
Ủy viên UBND mới đủ cơ sở để thực hiện
thủ tục bổ nhiệm vị trí đứng đầu cơ quan
chuyên môn của UBND.
Ba là, về cơ cấu, tổ chức của HĐND:
+ Đề nghị nghiên cứu, đánh giá kỹ
hơn về các căn cứ giảm đại biểu HĐND
nhưng phải đảm bảo chất lượng, hiệu quả
hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước ở
địa phương và để thể chế hóa chủ trương của
Đảng6, đó là “nghiên cứu, thực hiện giảm
hợp lý số lượng đại biểu HĐND các cấp và
giảm đại biểu HĐND công tác ở các cơ quan
quản lý nhà nước”, việc cơ cấu đông số đại
biểu HĐND ở các cấp cũng không nâng cao
chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND,
mà còn làm tốn kém thêm ngân sách, kinh
phí, điều kiện vật chất, thời gian...
+ Đối với dự kiến giảm số lượng Phó
Chủ tịch HĐND và Phó Trưởng ban HĐND
cấp tỉnh hoạt động chuyên trách, cần nghiên
cứu, cân nhắc, xem xét để từ đó có đề xuất
hợp lý nếu thấy cần thiết phải giữ nguyên
số lượng cấp phó nêu trên, nên có quy định
rõ tỷ lệ đại biểu HĐND hoạt động chuyên
trách từ 30-35% để đồng bộ với quy định
của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại
biểu HĐND. Xem xét, bổ sung quy định các
Phó Trưởng ban HĐND chuyên trách được
tham dự các kỳ họp của Thường trực HĐND,
có quyền phát biểu chính kiến của mình về
6 Nghị quyết số 18-NQ/TW, tlđd.
những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn
của Ban, được Trưởng ban ủy quyền tham
dự, biểu quyết tại các phiên họp của Thường
trực HĐND khi Trưởng ban vắng mặt.
+ Nếu thành lập Tổ đại biểu HĐND
xã, phường, thị trấn thì cần quy định rõ
nhiệm vụ, chức năng hoạt động của Tổ đại
biểu HĐND cấp xã và không nhất thiết quy
định chức năng giám sát của Tổ. Cân nhắc
việc các Ban của HĐND cấp xã, mặc dù hoạt
động kiêm nhiệm, song các địa phương đã
kiến nghị cần có quy định về chế độ, chính
sách đối với các chức danh kiêm nhiệm này.
Bốn là, các vấn đề liên quan tới hoạt
động:
+ Cần có quy định cụ thể về việc tổ
chức phiên họp của Thường trực HĐND
các cấp (nên có quy chế mẫu từ Trung ương
để địa phương thực hiện cho thống nhất).
Nghiên cứu, bổ sung trong Luật hoặc văn
bản dưới Luật hướng dẫn, quy định cụ thể
trình tự, thủ tục, cách thức giám sát của Tổ
đại biểu cũng như quy định trách nhiệm
của Tổ trưởng, Tổ phó, cách thức tổ chức
hoạt động của Tổ đại biểu và mối quan hệ
phối hợp giữa Tổ đại biểu với Thường trực
HĐND.
+ Việc xem xét, cho ý kiến để quyết
định kịp thời các vấn đề phát sinh giữa hai
kỳ họp có ý nghĩa rất quan trọng trong công
tác chỉ đạo, điều hành của UBND tỉnh, của
các cấp, các ngành ở địa phương, đặc biệt
trong giải quyết những vấn đề bức xúc của
cử tri và người dân, những vấn đề cần kịp
thời tháo gỡ khó khăn, ách tắc, bởi nếu chậm
trễ có thể gây ảnh hưởng đến tốc độ phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh. Do đó, cần nghiên
cứu theo hướng bổ sung quy định HĐND
ủy quyền cho Thường trực HĐND cùng cấp
quyết định những vấn đề thuộc thẩm quyền
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
39Số 12(388) T6/2019
của HĐND giải quyết một số vấn đề cụ thể,
có tính cấp thiết phát sinh giữa hai kỳ họp,
tạo sự linh hoạt, chủ động trong công tác
quản lý, chỉ đạo, điều hành của CQĐP.
Năm là, về lấy phiếu tín nhiệm:
Điều 6, Luật Tổ chức CQĐP quy định:
“4. Ban của HĐND là cơ quan của HĐND,
có nhiệm vụ thẩm tra dự thảo nghị quyết, báo
cáo, đề án trước khi trình HĐND, giám sát,
kiến nghị về những vấn đề thuộc lĩnh vực
Ban phụ trách; chịu trách nhiệm và báo cáo
công tác trước HĐND”, trong khi Trưởng
ban thường là hoạt động kiêm nhiệm, Phó
Trưởng ban hoạt động chuyên trách th́ì các
Phó Trưởng ban của HĐND là những người
cần có năng lực chuyên môn, năng nổ, mẫn
cán trong công việc để giúp cấp Trưởng thực
hiện hiệu quả theo các mảng, lĩnh vực khác
biệt. Vì vậy, đề nghị xem xét, bổ sung việc
lấy phiếu tín nhiệm đối với Phó Trưởng ban
của HĐND.
Sáu là, về mối quan hệ giữa HĐND
các cấp: Luật chưa quy định rõ về vấn đề
này, nhất là trách nhiệm của Thường trực
HĐND các cấp trong cơ chế phối hợp, tổ
chức và hoạt động. Song trên thực tế, mối
quan hệ này thể hiện rất rõ như đã trình bày
ở trên. Cần có quy định về việc giao ban
giữa Thường trực HĐND cấp tỉnh, huyện,
xã và có mối quan hệ liên kết giữa HĐND
các tỉnh, thành phố■
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ sáu BCHTW khóa XII về một
số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động
hiệu lực, hiệu quả;
2. Kế hoạch số 07-KH/TW ngày 27/11/2017 của BCHTW về thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ
sáu BCHTW Đảng khóa XII “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ
thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”;
3. Kết luận số 34-KL/TW ngày 07/8/2018 của Bộ Chính trị về thực hiện một số mô hình thí điểm
theo Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25/10/2017 của BCHTW khóa XII một số vấn đề về tiếp tục
đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả;
4. Hiến pháp năm 2013;
5. Luật Tổ chức CQĐP năm 2015;
6. Nghị quyết số 85/2014/QH13 ngày 28/11/2014 của Quốc hội về việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu
tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, HĐND bầu hoặc phê chuẩn;
7. Nghị quyết số 1130/2016/NQ-UBTVQH13, ngày 14/01/2016 của UBTVQH về tiêu chuẩn, điều
kiện thành lập Ban Dân tộc của HĐND tỉnh, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;
8. Hướng dẫn số 1138/HD-UBTVQH13 ngày 03/6/2016 của UBTVQH hướng dẫn một số nội dung
về việc tổ chức kỳ họp thứ nhất HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021;
9. Nghị định số 08/2016/NĐ-CP ngày 25/01/2016 của Chính phủ quy định số lượng Phó Chủ tịch
UBND và quy trình, thủ tục bầu, từ chức, miễn nhiệm, bãi nhiệm, điều động, cách chức thành
viên UBND;
10. Nghị quyết số 629/2019/NQ-UBTVQH14 ngày 30/01/2019 của UBTVQH hướng dẫn một số
hoạt động của HĐND./.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
40 Số 12(388) T6/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luat_to_chuc_chinh_quyen_dia_phuong_thuc_te_ap_dung_va_mot_s.pdf