Kết luận
Luật tục Raglai được hình thành từ nhu cầu
quản lý xã hội và được cộng đồng thừa
nhận, thực hiện một cách tự giác. Qua một
thời gian dài áp dụng, được sàng lọc và
kiểm nghiệm tính hợp lý trong thực tiễn, nó
đã trở thành truyền thống, trở thành những
chuẩn mực mang tính phong tục. Luật tục
có thể coi là tri thức của tộc người với
những quy định cấm đoán, khích lệ hay xử
phạt, được mọi người thừa nhận và mọi cá
nhân, gia đình, dòng họ phải tuân theo.
Trong những điều kiện và hoàn cảnh nhất
định, luật tục là nền tảng của pháp luật nhà
nước, và người ta sợ sự trừng phạt của luật
tục hơn là sự trừng phạt từ pháp luật. Luật
tục đã góp phần quan trọng xây dựng một
xã hội Raglai đoàn kết, tương trợ nhau
trong sản xuất và trong đời sống, một xã hội
giàu tính nhân văn.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 211 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Luật tục Raglai về hôn nhân và gia đình, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
81
Luật tục Raglai về hôn nhân và gia đình
Nguyễn Ngọc Thanh 1
1 Viện Dân tộc học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
Email: thanhvdth@gmail.com
Nhận ngày 20 tháng 5 năm 2019. Chấp nhận đăng ngày 31 tháng 5 năm 2019.
Tóm tắt: Luật tục Raglai bao quát hầu hết các vấn đề trong cuộc sống hôn nhân và gia đình của
cộng đồng nên có sức sống mãnh liệt trong đời sống tộc người. Đó là những điều khoản được thông
qua bằng “lời nói vần” và được cộng đồng nghiêm chỉnh thực hiện. Luật tục góp phần vào điều
chỉnh các mối quan hệ xã hội giữ gìn trật tự, an toàn trong cuộc sống và bảo vệ quyền lợi của các
thành viên trong gia đình, cộng đồng. Ngày nay, luật tục không điều chỉnh hoàn toàn đời sống cá
nhân và cộng đồng như trong xã hội truyền thống nhưng nó vẫn tồn tại với sức sống lâu bền, chi
phối đời sống của đồng bào Raglai.
Từ khóa: Dân tộc Raglai, hôn nhân và gia đình, luật tục.
Phân loại ngành: Dân tộc học
Abstract: Raglai ethnic people’s customary law covers most of the issues in the marriage and
family life of the community, so it has a strong vitality in their life. The law includes terms in
“rhyming words” and is strictly implemented by the community. It contributes to the adjustment of
social relations to maintain order and safety in life and protect the rights of family and community
members. Today, customary law no longer completely regulates the personal and community life
as in the traditional society, but it still exists with enduring vitality, strongly impacting the life of
Raglai people.
Keywords: Raglai ethnic group, marriage and family, customary law.
Subject classification: Ethnology
1. Mở đầu
Luật tục là một hiện tượng xuất hiện từ lâu
đời, có tác động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực
đời sống vật chất, tinh thần của con người
trong cộng đồng xã hội của các tộc người.
Có nhiều cách gọi về luật tục (như: luật
không thành văn, luật dân gian, luật bản
địa, luật nguyên thủy) [3, tr.38]. Trong
tiếng Việt, các thuật ngữ “tập tục”, “lệ
Khoa học xã hội Việt Nam, số 7 - 2019
82
làng”, “hương ước”, và những năm gần đây
là “hương ước mới”, “quy ước làng văn
hóa”, “quy ước nông thôn mới” cũng có thể
coi là hợp phần của luật tục.
Luật tục là một hệ thống các quy tắc xử
sự mang tính dân gian, quy định về mối
quan hệ ứng xử của con người đối với môi
trường tự nhiên và con người với con người
trong cộng đồng, thể hiện ý chí của toàn thể
cộng đồng, được thực hiện một cách tự
giác, theo thói quen, nhưng vẫn có tính
cưỡng chế và bắt buộc đối với những ai
không tuân theo [5, tr.30]. Luật tục có thể
mang những tên gọi khác nhau nhưng vẫn
đảm bảo mang hai yếu tố luật nước và lệ
làng, trong đó lệ làng dù được khai thác đến
mức tối đa và được trình bày hết sức cụ thể,
chi tiết vẫn phải phục tùng luật nước [4,
tr.66].
Luật tục Raglai có từ lâu đời, được thể
hiện dưới dạng “lời nói có vần”2 nên dễ
đọc, dễ nhớ. Tất cả được xếp chung vào
một hệ thống mang tính giáo dục từ thấp
lên cao gồm từ “thành ngữ, tục ngữ” đến
những “sự vụ, sự việc”, phong tục tập quán,
những điều “kiêng to, cữ lớn” [2, tr.394].
Đây đều là các quy phạm xã hội có phạm vi
điều chỉnh rộng lớn, thiết lập nên toàn bộ
giá trị, nền tảng cho các phán xét cả về đạo
đức, luân lý lẫn pháp luật, từ đó quy định và
chi phối mạnh mẽ các phong tục, tập quán ở
địa phương. Nó góp phần đắc lực vào sự ổn
định trật tự xã hội và bảo vệ quyền lợi của
các thành viên trong gia đình, dòng họ,
cộng đồng buôn làng.
Trong cuốn Luật tục Chăm và Luật
tục Raglai, phần luật tục Raglai gồm 5
chương, riêng chương “Nội dung luật tục
truyền thống Raglai” có 18 mục, 209 điều,
được trình bày phần lớn là “lời nói có vần”.
Trong đó có sự phân định rõ ràng về các
nhóm hành vi vi phạm [9, tr.465]. Chiếm
dung lượng nhiều nhất trong luật tục truyền
thống là 61 điều thuộc lĩnh vực hôn nhân,
quan hệ gia đình, quan hệ vợ chồng. Điều
đó cho thấy vị trí quan trọng của gia tộc, gia
đình mẫu hệ trong cộng đồng Raglai [9,
tr.465]. Một điểm quan trọng trong luật tục
là các hình phạt luôn sát đúng với từng mức
độ sai phạm. Tuy rất nghiêm khắc, nhưng
chế tài xử phạt không quá nặng, mục đích
để người vi phạm có khả năng chấp hành.
Luật tục Raglai3 có 5 đặc tính cơ bản: (1)
Tính giáo dục; (2) Tính dân chủ; (3) Tính
hòa giải; (4) Tính nhân đạo; (5) Tính tâm
linh [3, tr.411-421], [1, tr.69]. Bài viết này
tìm hiểu Luật tục về hôn nhân và gia đình ở
dân tộc Raglai và việc vận dụng luật tục đó
vào thực hiện Luật Hôn nhân và Gia đình ở
người Raglai.
2. Luật tục Raglai về hôn nhân
Ở người Raglai, trai gái có quyền tự do yêu
đương, tìm hiểu và quyết định kết hôn.
Trong trường hợp trai gái không còn ưng
nhau thì vẫn có thể dừng việc cưới hỏi, dù
đã làm lễ dạm hỏi trao vòng. Việc “đứt
gánh giữa đường” như vậy không được ủng
hộ, nhưng cũng không vì thế mà bắt ép cưới
xin nếu đôi trai gái không còn tình nguyện.
Trong tình huống này, hai bên tổ chức trả
của. Nếu do chàng trai chủ động thì phải
đền lại toàn bộ lễ vật ban đầu đã đưa để
cúng ma nhà cô gái, nếu cô gái bỏ chàng
trai phải đền gấp đôi lễ vật để cúng ma nhà
chàng trai và phải mổ heo, gà, rượu tạ lỗi
hai bên mối lái, gia đình [1, tr.101].
Đối với tội loạn luân, Luật tục Raglai
xếp loạn luân thuộc loại kiêng to cữ lớn,
người Raglai quan niệm, đây là nguồn gốc
Nguyễn Ngọc Thanh
83
làm cho thần mặt trời, mặt trăng, thần sấm,
thần sét, thần mưa, thần bão... nổi giận làm
cho lụt lội nước biển dâng tràn. Luật tục
quy định tội này có hai mức độ khác nhau.
Một là, loạn luân trực hệ (anh em ruột
thịt), đại loạn luân. Cặp hôn nhân nào vi
phạm phải chịu hình phạt chui vào chuồng
heo, ăn cám trong máng, bò đi như heo và
lo lễ vật trâu trắng, heo, gà để thực hiện bốn
nghi lễ: cúng chịu phạt với tổ tiên, cúng làm
lành vị tổ sanh và tổ tiên ông bà, cúng tạ ơn
tổ sanh và những người đứng ra lập đàn
cúng tế; lập đàn xin tạ tội, tẩy rửa ô uế
trước thần linh. Sau hình phạt, hai bên
không được tiếp tục quan hệ vợ chồng với
nhau, còn lén lút quan hệ với nhau, thì làng
tổ chức xử phạt lần hai với hình phạt nặng
hơn. Nếu tiếp tục vi phạm sẽ chịu hình phạt
cao nhất là đuổi vào rừng, cắt đứt mọi quan
hệ với làng và người trong làng. Ai gặp gỡ
hoặc giúp đỡ sẽ bị xử phạt rất nặng. Hai là,
loạn luân trong dòng họ xa có mức độ thấp
hơn. Tội này được xét xử tùy theo từng đối
tượng, nhưng cũng phải lập đàn để cầu
cúng xin tạ tội với thần linh [1, tr.141].
Người Raglai coi việc cưới xin là mốc
quan trọng đánh dấu sự trưởng thành trong
cuộc đời mỗi người. Vì vậy, luật tục hôn
nhân có rất nhiều quy định về các khâu tổ
chức đám cưới. Trước lễ cưới, đôi trai gái
không được phép đi quá giới hạn. Nếu
phạm phải những điều cấm kỵ, không còn
“trai trắng gái lành” là xúc phạm đến “Ông
chúa coi giữ sự trong trắng, Bà chúa coi giữ
sự trinh bạch” (đây cũng là thần linh trông coi
gìn giữ sự sinh tồn và phát triển giống bắp
giống lúa). Bởi thế, giữ gìn sự trắng trong,
trinh bạch trước hôn nhân được coi là điều
thiêng liêng. Nếu đã quan hệ tình dục trước
hôn nhân mà còn giấu giếm, không khai báo
trung thực với mọi người xung quanh để làm
lễ cưới phạt thì tội càng thêm nặng, vì đó là
hành vi vô đạo, coi thường ông bà tổ tiên, coi
thường các đấng linh thiêng ngự trị khắp trần
thế. Nếu đã làm lễ cưới phạt, cô dâu chú rể
phải chấp nhận nội dung quy định trong lễ
cưới, đặc biệt là không được để mẹ đội khăn
lên đầu cho, không có được sự chúc phúc của
gia đình, dòng họ, không có sự chia vui của
bạn bè và xóm làng. Đó là sự trừng phạt lớn
nhất nên rất ít cặp hôn nhân nào dám phạm
phải [10, tr.81].
3. Luật tục Raglai về gia đình
Đối với quan hệ gia đình, luật tục nêu các
quy định trong việc sinh đẻ, nuôi con, trách
nhiệm của cha mẹ, trách nhiệm của người
phụ nữ, người chồng, trách nhiệm của cha
mẹ trong việc nuôi nấng, dưỡng dục con
cái...
Bên cạnh các điều luật khẳng định vai
trò của cha mẹ đối với con cái thì còn nhiều
điều luật quy định về chuẩn mực, hành vi
ứng xử của con cái đối với ông bà, cha mẹ.
Những tội danh như: con cháu hỗn láo với
ông bà, cha mẹ; con bỏ rơi cha mẹ không
chăm sóc; con không vâng lời cha mẹ... đều
bị xử phạt nghiêm khắc. Điều đó đã thể
hiện tính nhân văn sâu sắc trong quan hệ
ứng xử trong gia đình cũng như trong cộng
đồng người Raglai.
Trách nhiệm của cha mẹ đối với con cái
cũng được quy định rõ ràng. Khi con cái
gây tội vạ với làng nước, cha mẹ cũng bị
liên đới theo. Tuy vậy, Luật tục Raglai
không khuyến khích việc cha mẹ đối xử hà
khắc, nặng lời chửi mắng hay đánh đập
thậm tệ khi con mắc lỗi.
Luật tục quy định con cháu phải lễ phép
với người bề trên và phải luôn nhớ (hướng
Khoa học xã hội Việt Nam, số 7 - 2019
84
đến) đến họ cho trọn đạo làm con. Con
cháu dù bất cứ lý do gì cũng không được bỏ
mặc, mà phải thương yêu, dưỡng nuôi ông
bà, cha mẹ. Trường hợp con cái bỏ cha mẹ
đi chỗ khác ở thì cha mẹ phải đi tìm con về,
nếu con không về thì cha mẹ có quyền báo
cho cộng đồng để huy động người đưa con
về. Khi đứa con được mang về thì cha mẹ
được phép đánh mắng, nếu người con hứa
không đi nữa thì sẽ tha thứ. Con cái có
ngôn từ xúc phạm ông bà, cha mẹ thì phải
cúng lại cho họ một con gà. Con cháu
không chăm sóc ông bà, cha mẹ thì bị bắt
phạt hai con heo, một con tạ lỗi cho ông bà,
một con tạ lỗi với dân làng, đồng thời phải
lo ché rượu, quần áo mới để làm lễ tạ tội
với ông bà. Trường hợp người đó không
chịu thì già làng đứng ra xét xử. Người đó
sẽ không được thừa kế tài sản của ông bà,
cha mẹ để lại.
Luật tục có quy định rõ hình thức xử
phạt đối với con rể có hành vi bất kính với
cha mẹ vợ hoặc những người họ hàng bên
đó. Con rể mà đánh cha mẹ vợ thì tội nặng
hơn là đánh cha mẹ đẻ. Trường hợp này anh
ta chịu phạt vạ. Lễ vật phạt vạ gồm heo và
gà. Nếu phạt vạ xong mà vẫn tái diễn thì bố
mẹ vợ có quyền đuổi con rể ra khỏi nhà.
Về quan hệ vợ chồng, người Raglai có
quan niệm: con trai con gái xây dựng gia
đình không đơn thuần là hạnh phúc lứa đôi,
gia đình yên ấm mà còn là nghĩa vụ duy trì,
phát triển cộng đồng dân tộc. Do đó, luật
tục nêu ra nhiều chi tiết cụ thể về cuộc sống
vợ chồng trong gia đình mẫu hệ về sau. Đa
phần đó là sự phê phán các hành vi lố lăng,
không giữ được sự chung thủy, tình yêu
trọn vẹn giữa vợ và chồng. Trường hợp
chồng bỏ vợ đi biệt tích lâu năm, gia đình
nhà chồng và ông mai khi xưa phải đứng ra
nhận trách nhiệm trước bên thông gia.
Trường hợp vợ chồng ngoại tình, tục gọi là
“bắt vợ nhau”, cả hai kẻ ngoại tình đều phải
bị phạt, nhưng với mức độ khác nhau.
Những người đã có vợ có chồng mà
ngoại tình với nhau thì không chỉ có tội với
vợ/chồng chính thức của mình mà còn bị
coi là xúc phạm đến tổ tiên ông bà, xúc
phạm đến thần linh. Sau khi xử việc, bên
cạnh khoản đền bù vật chất, việc cúng tế tẩy
rửa không chỉ phải làm một lần mà còn phải
làm nhiều lần, kéo dài vài ba năm.
Trường hợp đàn ông có vợ mà ngoại tình
với gái chưa chồng, vì cô gái được xem là
“gái lành”, nhẹ dạ mà bị “đàn ông hư thân
mất nết” dụ dỗ, lừa gạt, nên không phải
chịu phạt trước gia đình và dân làng. Người
đàn ông lăng nhăng phải chịu phạt một mặt
Mã la, heo 3-6 gang tay, ché rượu tạ tội cho
cô gái và gia đình cô gái, trên danh nghĩa là
đền bù sự mất mát trinh tiết cho cô gái (hayar
valơu), lại chịu phạt heo, gà cho cả gia đình
vợ. Đồng thời phải hứa cắt đứt quan hệ,
không đi lại với cô gái nữa, nếu tiếp tục vi
phạm sẽ bị làng phạt gấp đôi, gấp ba.
Người Raglai rất trân trọng đức tính thật
thà, cho nên người nào ghen tuông mà nói
dối, vu khống vợ mình (với) chồng người,
vợ người (với) chồng mình... thì phải chịu
phạt. Sau cuộc xử việc với sự có mặt của
mẹ cha, cậu, chú, mối lái hai bên (để biện
hộ phân xử), người vu khống sẽ phải nộp
ché rượu cần, heo, gà để cúng cho người bị
vu khống, tạ tội và nói lời cam đoan.
Luật tục hoàn toàn không ủng hộ bạo lực
giữa vợ và chồng. Chuyện vợ đánh chồng là
rất hãn hữu cho nên không có quy định xử
lý cụ thể, nhưng trường hợp ngược lại thì
có. Người chồng vì ghen tuông, hay vì một
nguyên nhân nào đó mà làm hại vợ, làm vợ
bị thương thì phải tìm thầy, tìm thuốc về
chữa cho vợ lành, đồng thời phải tạ lỗi cha
Nguyễn Ngọc Thanh
85
mẹ, ông bà nhà vợ. Còn nếu chủ ý cài bẫy
để vợ bị thương hay chết thì bắt buộc phải
đền mạng. Đây là một đặc điểm trọng yếu
cho thấy luật tục mang tính chất bảo vệ
người phụ nữ, bảo vệ chế độ mẫu hệ.
4. Vận dụng Luật tục Raglai vào thực
hiện Luật hôn nhân và gia đình
Luật tục Raglai tồn tại dưới dạng lời nói có
vần, điệu, giàu hình ảnh, cụ thể, sinh động,
đa phần là truyền miệng, làm cho người ta
có thể hình dung và nhận thức bằng trực
giác. Điều này khác hẳn với ngôn ngữ pháp
luật là những văn bản được khái quát hóa
cao, ngắn gọn, chính xác. Mặt khác, luật tục
được hình thành do nhu cầu quản lý xã hội
cộng đồng, tính chất của hoạt động quản lý
tuy còn khá đơn giản nhưng lại tác động
mạnh đến nhận thức và hành vi của các
thành viên trong cộng đồng.
Trong điều kiện các quan hệ hôn nhân
ngày càng trở nên phức tạp, thì những
phong tục tập quán tốt đẹp và các quy định
tiến bộ của luật tục đang phát huy vai trò
tích cực. Ngược lại, Luật hôn nhân và gia
đình cũng có sự tác động trở lại luật tục một
cách mạnh mẽ. Nhờ có luật, các quy định
tiến bộ trong luật tục được củng cố và phát
huy, các quy định lỗi thời như hôn nhân nối
nòi, đánh đuổi người vi phạm luật tục ra
khỏi làng, con đã thành niên vi phạm luật
tục nhưng bắt cha mẹ bồi thường... đã từng
bước được xóa bỏ. Các tội hiếp dâm, trộm
cắp, tranh chấp về đất đai, thừa kế, bồi
thường thiệt hại trước đây do chủ làng và
các đầu khôn người già xử lý theo luật tục
thì nay đã được đưa đến Tòa án nhân dân
để giải quyết.
Đặc biệt, nhiều quy định tiến bộ của
Luật tục Raglai được phản ánh khá rõ nét
trong Luật hôn nhân và gia đình. Luật đã đề
cập đến các hành vi phải nghiêm cấm để
bảo vệ chế độ hôn nhân gia đình như vi
phạm chế độ một vợ một chồng; kết hôn giả
tạo, ly hôn giả tạo; cưỡng ép kết hôn/ly hôn,
lừa dối kết hôn/ly hôn; người đang có vợ,
có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như
vợ chồng với người khác (hoặc chưa có vợ,
chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống
như vợ chồng với người đang có chồng, có
vợ); kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng
giữa những người cùng dòng máu về trực
hệ, giữa những người có họ trong phạm vi
ba đời, giữa cha chồng với con dâu, mẹ vợ
với con rể (điều 5, chương I, Luật hôn nhân
và gia đình 2014) [7]; ngược đãi, hành hạ,
xúc phạm ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con,
cháu, anh, chị em và các thành viên khác
trong gia đình; xúi giục, ép buộc con làm
những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã
hội (điều 4, chương I và điều 34 chương IV,
Luật hôn nhân và gia đình 2000) [6]...
Luật khuyến khích thực hiện các quyền
và nghĩa vụ: hôn nhân tự nguyện, vợ chồng
bình đẳng; xây dựng gia đình ấm no, hạnh
phúc; các thành viên gia đình tôn trọng,
quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau (điều 2,
chương I, Luật hôn nhân và gia đình 2014);
vợ chồng thương yêu, chung thủy, tôn trọng
nhau (điều 19, chương III, Luật hôn nhân
và gia đình 2014); cha mẹ chăm lo việc học
tập, giáo dục để con phát triển lành mạnh về
thể chất, trí tuệ, đạo đức, trở thành người
con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích
cho xã hội; cha mẹ không được phân biệt
đối xử với con trên cơ sở giới hoặc theo
tình trạng hôn nhân của cha mẹ (điều 69,
chương V, Luật hôn nhân và gia đình
2014); cha mẹ phải bồi thường thiệt hại do
con chưa thành niên (điều 74, chương V,
Luật hôn nhân và gia đình 2014); con có
Khoa học xã hội Việt Nam, số 7 - 2019
86
bổn phận yêu quý, kính trọng, biết ơn, hiếu
thảo, phụng dưỡng cha mẹ, giữ gìn danh
dự, truyền thống tốt đẹp của gia đình (điều
70, chương V, Luật hôn nhân và gia đình
2014); con có nghĩa vụ và quyền chăm sóc,
nuôi dưỡng cha mẹ, đặc biệt khi cha mẹ ốm
đau, già yếu, khuyết tật (điều 71, chương V,
Luật hôn nhân và gia đình 2014); cháu có
nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc, phụng
dưỡng ông bà nội, ông bà ngoại (điều 104,
chương VI, Luật hôn nhân và gia đình
2014); anh, chị, em thương yêu, chăm sóc,
giúp đỡ nhau, nuôi dưỡng nhau trong
trường hợp không còn cha mẹ (điều 105,
chương VI, Luật hôn nhân và gia đình
2014); cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu
ruột thương yêu, chăm sóc, giúp đỡ nhau,
có quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau trong
trường hợp người cần được nuôi dưỡng
không còn cha, mẹ, con (điều 106, chương
VI, Luật hôn nhân và gia đình 2014) [7]...
Có thể nói, so với các lĩnh vực pháp luật
khác, Luật hôn nhân và gia đình và lĩnh vực
hôn nhân trong Luật tục Raglai có mối quan
hệ khá gần gũi. Các quy định trong chương
các trọng tội của Luật tục Raglai có sự
tương đồng với các quy định của phần “bảo
vệ chế độ hôn nhân gia đình” trong Luật
Hôn nhân và Gia đình (và cả phần “các tội
phạm” trong Luật Hình sự) của Nhà nước.
Đồng thời, luật ghi nhận hầu hết những
điểm tinh hoa nhất của Luật tục Raglai
trong quan hệ hôn nhân và quan hệ giữa các
thành viên trong gia đình, đề cao sự đoàn
kết gắn bó của các thế hệ cùng chung sống,
làm việc, tương trợ nhau, chịu trách nhiệm
về hành vi của nhau [9, tr.497].
Bên cạnh những ưu điểm trên, Luật tục
Raglai còn một số hạn chế. So với Luật hôn
nhân và gia đình nói riêng và pháp luật Việt
Nam nói chung (vốn đề cao quan hệ bình
đẳng ngang nhau giữa các cá nhân), các quy
định về hôn nhân trong Luật tục Raglai bảo
vệ chế độ hôn nhân theo chế độ mẫu hệ,
quan hệ trong gia đình do đó là quan hệ một
chiều, đề cao vai trò của người phụ nữ
trong gia đình. Theo quan niệm của người
Raglai, vai trò quyết định trong gia đình
thuộc về người vợ, người chị gái hoặc
người phụ nữ lớn tuổi nhất. Đàn ông không
có quyền từ chối đi ở rể (nếu nhà gái yêu
cầu), và quyền để lại thừa kế cho mẹ đẻ hay
những người trong dòng tộc của mình thì bị
hạn chế. Tuy họ có thể đề xuất ly hôn trong
một số trường hợp, song, nhìn chung xã hội
bộc lộ sự thiên vị cho người vợ hơn khi xử
lý các vấn đề phát sinh trong ly hôn và hậu
ly hôn.
Có những điều trong luật tục thể hiện
khoảng “vênh” hay xung đột trực tiếp với
luật của Nhà nước. Cụ thể, người Raglai
không cấm người chồng lấy hai vợ trong
trường hợp vợ đầu không sinh được con,
không cấm chồng ly hôn khi người vợ đang
mang thai hoặc nuôi con sơ sinh. Thay vì
cho phép người có quan hệ huyết thống từ 3
đời trở lên lấy nhau, một số nơi chỉ cho
phép khi đủ 7 đời trở lên, hoặc khi hai
người khác họ hoặc chi họ. Trường hợp cha
mẹ đều qua đời mà không để lại di nguyện,
tài sản cha mẹ làm ra (và tài sản cha mẹ kế
thừa từ ông bà) không được chia đều cho
các con mà thường trao cho con gái cả hoặc
con gái út mà không trao cho con trai trong
nhà. Do đó, việc áp dụng quy định của Luật
hôn nhân và gia đình, Luật Thừa kế, Luật
Đất đai khi giải quyết tranh chấp trong lĩnh
vực hôn nhân gia đình nhiều khi vấp phải
sự phản ứng của cộng đồng Raglai [9,
tr.498].
Phương thức xử việc theo cách truyền
thống cũng có điểm chưa tiến bộ. Trước
Nguyễn Ngọc Thanh
87
đây, các vụ xử kiện chủ yếu theo hình thức
họp dân làng tuyên bố tội trạng của người
vi phạm bằng cách đọc những đoạn thi ca
truyền khẩu và tuyên phạt đền bằng hiện
vật. Hoạt động này tuy nhanh gọn nhưng
không có bất cứ một cơ quan nào giám sát,
người phạm tội không có quyền khiếu nại,
không có quyền được kêu oan trong trường
hợp bị xét xử oan.
Nhìn từ góc độ khác, có nhiều phong tục
tập quán tiến bộ được quy định trong luật
tục đã được pháp luật ghi nhận và bảo vệ,
nhưng chưa nghiêm khắc, chưa triệt để,
xuất phát từ việc thiếu chế tài thích hợp,
hoặc hạn chế từ chính bản thân phương
thức thực hiện luật. Chẳng hạn: tội loạn
luân trong Luật tục Raglai, bị xử lý bằng
những hình phạt hết sức nặng nề, cho nên
trong xã hội truyền thống gần như không có
ai phạm tội này. Song, tội loạn luân được
quy định trong hệ thống pháp luật Việt
Nam chỉ được coi như một điều cấm chứ
không có chế tài xử lý riêng mang tính răn
đe. Tội này hầu như chỉ bị phạt hành chính,
hoặc được tính như một tình tiết tăng nặng
cho một tội khác được quy định trong Luật
Hình sự (giao cấu với trẻ em có yếu tố loạn
luân, cố tình lây truyền bệnh truyền nhiễm
bằng quan hệ tình dục có yếu tố loạn luân,
ngoại tình có yếu tố loạn luân) [9, tr.499].
Các tội ngược đãi, bạo hành trong gia
đình, các cơ quan pháp luật chỉ vận dụng
được luật khi người bị hại có đơn yêu cầu
và họ xác minh được người bị hại đã chịu
tổn hại về thể chất hoặc tinh thần, còn
không thì không có căn cứ để xét xử. Trong
khi đó, đối với người Raglai, cha mẹ
thường không đưa đơn tố cáo con cái ngược
đãi mình mà trưởng thôn, buôn tự biết việc
xảy ra trong cụm dân cư để áp dụng luật
tục. Như vậy, việc xử lý bằng Luật tục
Raglai trong trường hợp này sẽ nhanh
chóng và triệt để hơn pháp luật.
Vấn đề quan hệ tình dục trước hôn nhân,
pháp luật Việt Nam hiện nay mới chỉ có
quy định xử lý tội quan hệ tình dục trước
tuổi quy định gắn với hành vi giao cấu với
trẻ em (thường là nam trên tuổi vị thành
niên quan hệ với nữ tuổi vị thành niên), chứ
hoàn toàn không có chế tài xử lý hành vi
quan hệ tình dục tự nguyện giữa nam và nữ
vị thành niên như quy định về đám cưới tẩy
rửa trong Luật tục Raglai.
Nan giải nhất là pháp luật chỉ xử lý được
các vấn đề phát sinh trong quan hệ gia đình
khi hôn nhân giữa vợ và chồng được thừa
nhận trên luật định, tức là phải có giấy đăng
ký kết hôn. Những trường hợp không có
giấy đăng ký kết hôn mà tổ chức đám cưới
hay chung sống như vợ chồng thì không thể
giải quyết vấn đề bằng pháp luật được.
Không như luật tục vốn xác định quan hệ
vợ chồng bằng đám cưới (đám cưới chính
thức hay cưới phạt đều được), pháp luật xác
định mối quan hệ này bằng chứng nhân
đăng ký kết hôn có đóng dấu đỏ của chính
quyền cấp xã (điều này còn xa lạ với đồng
bào ở nhiều khu vực vùng sâu vùng xa).
Sự lúng túng, thiếu kiên quyết đối với
các trường hợp kể trên là một thực tế đã và
đang diễn ra ở tộc người Raglai nói riêng và
vùng dân tộc thiểu số nói chung. Vì vậy,
cần phải có sự nghiên cứu, điều chỉnh lại hệ
thống pháp luật từ các cơ quan Trung ương
trong thời gian tới.
5. Kết luận
Luật tục Raglai được hình thành từ nhu cầu
quản lý xã hội và được cộng đồng thừa
nhận, thực hiện một cách tự giác. Qua một
Khoa học xã hội Việt Nam, số 7 - 2019
88
thời gian dài áp dụng, được sàng lọc và
kiểm nghiệm tính hợp lý trong thực tiễn, nó
đã trở thành truyền thống, trở thành những
chuẩn mực mang tính phong tục. Luật tục
có thể coi là tri thức của tộc người với
những quy định cấm đoán, khích lệ hay xử
phạt, được mọi người thừa nhận và mọi cá
nhân, gia đình, dòng họ phải tuân theo.
Trong những điều kiện và hoàn cảnh nhất
định, luật tục là nền tảng của pháp luật nhà
nước, và người ta sợ sự trừng phạt của luật
tục hơn là sự trừng phạt từ pháp luật. Luật
tục đã góp phần quan trọng xây dựng một
xã hội Raglai đoàn kết, tương trợ nhau
trong sản xuất và trong đời sống, một xã hội
giàu tính nhân văn.
Chú thích
(2) Xem lời nói vần từ trang 509 đến trang 684 trong
cuốn Luật tục Chăm và Luật tục Raglai [3].
(3) “Nội dung Luật tục truyền thống Raglai” được
sắp thành 1 chương, 18 mục, với 209 điều, cụ thể
như sau: 69 điều về những quy định chung về tổ
chức xét xử, thành phần xét xử, phương thức xét xử
sự vụ, sự việc từ nhẹ đến nặng; 3 điều về quyền sở
hữu đất đai, rừng núi không ai được xâm phạm đến;
6 điều về bảo vệ môi trường, nguồn nước, thú rừng;
10 điều về bảo vệ rừng, bảo vệ đất; 11 điều về bảo
vệ của cải, tài sản; 4 điều về tội trộm cắp, lừa gạt,
chiếm đoạt tài sản; 8 điều về quản lý, bảo vệ trâu bò,
gia súc; 21 điều về hôn nhân, cưới xin và nhiệm vụ
đối với gia đình; 4 điều tội về tình dục, 6 điều về tội
loạn luân; 11 điều về quan hệ giữa cha mẹ và con
cái, 19 điều về quan hệ vợ chồng; 4 điều về lời ăn
tiếng nói; 12 điều về hành vi chung trong xã hội; 22
điều về những tội nặng.
Tài liệu tham khảo
[1] Nguyễn Hữu Bài, Trần Kiêm Hoàng, Lê Văn
Hoa, Trần Vũ, Chamaliaq Riya Tiẻnq (2014),
Văn hóa dân gian Raglai ở Khánh Hòa, Nxb
Văn hóa - Văn nghệ, Tp. Hồ Chí Minh.
[2] Phan Đăng Nhật (Chủ biên) (2003), Luật tục
Chăm và Luật tục Raglai, Nxb Văn hóa dân
tộc, Hà Nội.
[3] Phan Đăng Nhật (2007), “Luật tục - một giá trị
văn hóa phi vật thể đặc sắc”, Tạp chí Di sản
văn hóa, số 1.
[4] Nguyễn Quang Ngọc (2003), “Nguyên tắc xây
dựng và các thời điểm xuất hiện hương ước”,
Đào Trí Úc (Chủ biên), Hương ước trong quá
trình thực hiện dân chủ ở nông thôn Việt Nam
hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[5] Hoàng Văn Quynh (2018), Luật tục về bảo vệ
tài nguyên thiên nhiên và môi trường ở Việt
Nam (Qua luật tục của các dân tộc thiểu số ở
Tây Bắc và Tây Nguyên), Luận án Tiến sĩ,
Học viện khoa học xã hội, Hà Nội.
[6] Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam (2000), Luật Hôn nhân và Gia đình.
[7] Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam (2014), Luật Hôn nhân và Gia đình.
[8] Lê Hồng Sơn (2003), “Mối quan hệ giữa
hương ước, quy ước của cộng đồng dân cư và
pháp luật của Nhà nước”, Đào Trí Úc (Chủ
biên), Hương ước trong quá trình thực hiện
dân chủ ở nông thôn Việt Nam hiện nay, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[9] Nguyễn Ngọc Thanh (Chủ biên) (2018), Hôn
nhân và gia đình của dân tộc Raglai ở Khánh
Hòa, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
[10] Nguyễn Ngọc Thanh, Nguyễn Linh Hương
(2016), “Luật tục Raglai về Hôn nhân”, Tạp
chí Văn hóa học, số 3. ................................
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luat_tuc_raglai_ve_hon_nhan_va_gia_dinh.pdf