Cơ chế tự chủ, cạnh tranh
Tính đến năm 2017, ở các Bộ, cơ
quan trung ương có 1.109 ĐVSNCL được
giao tự chủ về tài chính, gồm: 208 đơn vị
tự bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động; 526
đơn vị đơn vị sự nghiệp đảm bảo một phần
chi phí và 256 đơn vị do NSNN bảo đảm
toàn bộ kinh phí hoạt động. Ở địa phương
có 49.465 ĐVSNCL được giao tự chủ về tài
chính, gồm: 1.366 đơn vị tự bảo đảm toàn
bộ chi phí hoạt động; 8.966 đơn vị đơn vị sự
nghiệp đảm bảo một phần chi phí và 39.009
đơn vị do NSNN bảo đảm toàn bộ kinh phí
hoạt động23.
Chính sách của Đảng và Nhà nước
đang ủng hộ tăng cường cơ chế tự chủ của
các ĐVSNCL. Bên cạnh việc tự chủ, cần
tính đến cơ chế “cạnh tranh” lành mạnh
giữa các ĐVSNCL nhằm thúc đẩy tính hiệu
quả và năng động. Thậm chí còn phải tạo
sự cạnh tranh bình đẳng giữa khu vực công
và khu vực tư24. Có thể học tập kinh nghiệm
Australia, khi gần như toàn bộ các trường đại
học là đại học công và các trường này phải
cạnh tranh với nhau để nhận được nguồn tài
trợ từ nhà nước. Các trường phải đạt các yêu
cầu, tiêu chuẩn và thành tích nhất định mới
được nhà nước cấp kinh phí
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 221 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Luật viên chức năm 2010: Những vấn đề đặt ra trong cải cách pháp luật về dịch vụ công, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬT VIÊN CHỨC NĂM 2010: NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
TRONG CẢI CÁCH PHÁP LUẬT VỀ DỊCH VỤ CÔNG 1
1 Bài viết có sử dụng kết quản nghiên cứu của Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ: “Pháp luật về dịch vụ công ở Việt
Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” do GS.TS. Phan Trung Lý làm Chủ nhiệm.
Tóm tắt:
Luật Viên chức năm 2010 là văn bản pháp luật quan trọng trong
khung pháp lý về dịch vụ công. Bài viết phân tích một số kết quả
đạt được và những hạn chế trong việc thực hiện Luật Viên chức
năm 2010 và nêu lên những vấn đề cần giải quyết khi sửa đổi Luật
này trong bối cảnh cải cách pháp luật về dịch vụ công ở Việt Nam.
Phan Trung Lý*
* GS. TS. nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội
Abstract
The Law on Public Employees of 2010 plays an important role in
the legal framework of public services. This article provides analysis
of the achievements and shortcomings from the enforcement of the
Law on Public Employees and also a number of critical issues during
the reviews and amendments of the Law in the context of the public
service reform.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Luật Viên chức năm 2010;
dịch vụ công; đơn vị sự nghiệp công
lập; viên chức
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 26/04/2019
Biên tập : 12/05/2019
Duyệt bài : 17/05/2019
Article Infomation:
Keywords: Law on Public Employees
of 2010; public services; public non-
business units; public employee.
Article History:
Received : 26 Apr. 2019
Edited : 12 May 2019
Approved : 17 May 2019
1. Đơn vị sự nghiệp công lập và vai trò
cung ứng dịch vụ công
Vai trò của nhà nước trong việc cung
ứng dịch vụ công
Dịch vụ công là dịch vụ do Nhà nước
cung cấp cho người dân một cách trực tiếp
thông qua các cơ quan, tổ chức trong khu
vực công hoặc gián tiếp tài trợ cho các tổ
chức khác. Thuật ngữ này gắn với đồng
thuận xã hội - tức Nhà nước có trách nhiệm
cung cấp một số dịch vụ nhất định cho tất cả
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
24 Số 9(385) T5/2019
mọi người2. Một định nghĩa khác tương tự là
“dịch vụ công là những dịch vụ đáp ứng các
nhu cầu cơ bản, thiết yếu chung của người
dân và cộng đồng, bảo đảm ổn định và công
bằng xã hội do Nhà nước chịu trách nhiệm,
hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận”3.
Dịch vụ công có thể được hiểu rất
rộng như là hoạt động của nhà nước/chính
phủ: “Nếu dịch vụ công phần nhiều quyết
định mức sống của người dân, dịch vụ công
ưu việt là một dấu hiệu thể hiện chính phủ
tốt. Các dịch vụ công tác động lớn đến đời
sống thường nhật của người dân và định
nghĩa về dịch vụ công vừa rộng lại vừa hẹp,
bởi hầu như tất cả dịch vụ do chính phủ cung
cấp phục vụ người dân có thể được xem là
dịch vụ công. Do vậy, ở một số quốc gia,
thuật ngữ “dịch vụ công” cũng đồng nghĩa
với bộ máy của chính phủ. “Dịch vụ công”
theo nghĩa hẹp là những hàng hóa và dịch
vụ chính phủ có trách nhiệm cung cấp hoặc
quản lý công tác cung cấp dịch vụ công đảm
bảo mức độ hài lòng của người dân”4.
Theo các lý thuyết hiện đại, các chức
năng của Nhà nước cũng chính là việc thực
hiện các dịch vụ công, được miêu tả bằng
bảng sau5:
Theo Giáo trình Luật Hành chính Việt
Nam của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà
Nội, “dịch vụ công là hoạt động của các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền hay hoạt động
của các cá nhân, cơ quan, tổ chức do các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền ủy quyền,
nhằm phục vụ, đáp ứng những nhu cầu thiết
2 McGregor Jr., Eugene B.; Campbell, Alan K.; Macy, John W.; Cleveland, Harlan (July–August 1982). "Symposium:
The Public Service as Institution". Public Administration Review. Washington. 42 (4): 304-320. JSTOR i240003.
3 Chu Văn Thành (2007), Dịch vụ công - Đổi mới quản lý và tổ chức cung ứng ở Việt Nam hiện nay, NXB Chính trị Quốc
gia, tr. 49.
4 Chương trình phát triển của Liên hiệp quốc tại Việt Nam (2009), Cải cách nền hành chính Việt Nam, Nxb. Chính trị
Quốc gia, tr. 260.
5 Ngân hàng Thế giới (1998), Báo cáo Phát triển thế giới 1997: Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi, Nxb. Chính
trị Quốc gia, tr. 38.
6 Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Nguyễn Cửu Việt chủ biên (2010), Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Nxb.
Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 234.
7 Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Nguyễn Cửu Việt chủ biên (2010), Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, sđd,
tr. 233, 234.
yếu, đa dạng và những quyền và nghĩa vụ
của cá nhân, cơ quan, tổ chức vì lợi ích công
cộng, không vì mục tiêu lợi nhuận”6. Theo
đó, các đại học tư phi lợi nhuận nếu được
Nhà nước hỗ trợ kinh phí cũng được coi là
cung ứng dịch vụ công vì đây là loại hình
dịch vụ tư phục vụ lợi ích công.
Tuy quan niệm về dịch vụ công chưa
có sự thống nhất hoàn toàn, nhưng có thể chỉ
ra một số đặc điểm cơ bản của dịch vụ công
như sau:
(i) Dịch vụ công phục vụ lợi ích chung
của xã hội, đáp ứng nhu cầu đa dạng và
bảo đảm những quyền và nghĩa vụ cho các
cá nhân, cơ quan, tổ chức. Phục vụ lợi ích
chung là tính chất thuộc về bản chất của dịch
vụ công, nên nó là tiêu chí chủ yếu để xem
xét một loại dịch vụ nào đó có đúng là dịch
vụ công hay không.
(ii) Dịch vụ công là hoạt động thuộc
trách nhiệm của Nhà nước, nên Nhà nước
có trách nhiệm bảo đảm cung ứng (trực tiếp
cung ứng hoặc quản lý việc cung ứng như
tổ chức, giám sát, kiểm tra việc cung ứng)
nhằm bảo đảm nhu cầu của xã hội.
(iii) Dịch vụ công có tính chất phi lợi
nhuận. Đây là hệ quả của hai tính chất trên.
Dịch vụ công không chịu sự ràng buộc chặt
chẽ của các quy luật thị trường. Nhà nước
có thể quy định những ưu đãi nào đó đối
với nhiều loại dịch vụ công, nghĩa là không
đặt chúng trong quy luật cạnh tranh của thị
trường, nhằm bảo đảm chất lượng các dịch
vụ công đó7.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
25Số 9(385) T5/2019
Có tác giả đã đưa ra các đặc điểm
của dịch vụ công tương tự nhưng ngắn gọn
hơn: (i) Đó là việc làm của chính phủ, chính
quyền, hoặc của tư nhân được chính phủ ủy
nhiệm phục vụ cho cộng đồng, nhân dân; (ii)
Vì lợi ích chung; (iii) Tự nguyện, mang ý
nghĩa giúp đỡ, không vì lợi nhuận8.
Trong pháp luật Việt Nam hiện nay
tồn tại hai khái niệm về dịch vụ công. Thứ
nhất, Điều 10 Luật Viên chức năm 2010
quy định: “Nhà nước tập trung xây dựng
hệ thống các đơn vị sự nghiệp công lập
(ĐVSNCL) để cung cấp những dịch vụ công
mà Nhà nước phải chịu trách nhiệm chủ yếu
bảo đảm nhằm phục vụ nhân dân trong lĩnh
vực y tế, giáo dục, khoa học và các lĩnh vực
khác mà khu vực ngoài công lập chưa có
khả năng đáp ứng; bảo đảm cung cấp các
dịch vụ cơ bản về y tế, giáo dục tại miền núi,
biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng
dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế
- xã hội đặc biệt khó khăn”. Thứ hai, Nghị
quyết 36a/NQ-CP về Chính phủ điện tử nêu:
“Các giấy phép, các thủ tục hành chính (dịch
vụ công) được nhiều bộ ngành, địa phương
thực hiện cấp qua mạng điện tử”. Như vậy
dịch vụ công ở đây là các “dịch vụ hành
chính công” liên quan đến việc thực hiện
các thủ tục hành chính. Tổng hợp hai khái
niệm trên, có thể thấy dáng dấp của khái
niệm dịch vụ công theo nghĩa rộng bao gồm
cả dịch vụ sự nghiệp công và dịch vụ hành
chính công.
Vai trò cung ứng dịch vụ công của
các ĐVSNCL
ĐVSNCL
“Sự nghiệp” dùng để chỉ những hoạt
động phi sản xuất vật chất, phục vụ cho các
nhu cầu, lợi ích công cộng trong lĩnh vực
8 Chu Văn Thành (2007), Dịch vụ công - Đổi mới quản lý và tổ chức cung ứng ở Việt Nam hiện nay, sđd, tr. 33.
9 Chu Văn Thành (2007), Dịch vụ công - Đổi mới quản lý và tổ chức cung ứng ở Việt Nam hiện nay, sđd, tr. 31.
10 “ĐVSNCL nói tại Nghị định này là các tổ chức được cơ quan có thẩm quyền của Đảng, cơ quan Nhà nước và tổ chức
chính trị - xã hội thành lập và quản lý theo quy định của pháp luật, có tư cách pháp nhân, con dấu, tài khoản, hoạt động
trong các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, y tế, nghiên cứu khoa học, văn hóa, thể dục thể thao, du lịch, lao động - thương
binh và xã hội, thông tin truyền thông và các lĩnh vực sự nghiệp khác được pháp luật quy định” (khoản 1 Điều 11 Nghị
định số 06/2010/NĐ-CP).
giáo dục, y tế, văn hóa - xã hội, khoa học,
nghệ thuật do các đơn vị chuyên môn thực
hiện và thường được ngân sách nhà nước hỗ
trợ. Các đơn vị thực hiện các hoạt động này
được gọi là các đơn vị sự nghiệp”9. Những
đơn vị sự nghiệp do Nhà nước lập ra được
gọi là ĐVSNCL.
Hiện nay, các văn bản quy phạm pháp
luật sử dụng một số thuật ngữ khác nhau
để chỉ ĐVSNCL như “đơn vị sự nghiệp”,
“đơn vị sự nghiệp nhà nước”, “tổ chức sự
nghiệp công”, “cơ quan sự nghiệp”. Ví dụ,
Điều 9 Luật Viên chức năm 2010 quy định:
“ĐVSNCL là tổ chức do cơ quan có thẩm
quyền của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị - xã hội thành lập theo quy
định của pháp luật, có tư cách pháp nhân,
cung cấp dịch vụ công, phục vụ quản lý
nhà nước”; Nghị định 06/2010 về những
người là công chức cũng nêu định nghĩa về
ĐVSNCL10 Mặc dù tồn tại nhiều thuật ngữ
khác nhau, thuật ngữ “ĐVSNCL” được coi
là chính thức vì nó được quy định trong văn
bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý
cao hơn là Luật Viên chức 2010.
Phân tích trên, có thể rút ra các đặc
điểm của ĐVSNCL như sau:
(i) ĐVSNCL do cơ quan có thẩm
quyền của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị - xã hội thành lập theo quy
định của pháp luật. Điều ngày có nghĩa là
ĐVSNCL không chỉ phái sinh từ cơ quan
nhà nước (mang quyền lực nhà nước) mà
còn từ các tổ chức được Nhà nước trao
quyền thực hiện hoạt động hành chính như
tổ chức chính trị (Đảng Cộng sản Việt Nam)
và các tổ chức chính trị - xã hội.
(ii) ĐVSNCL là một tổ chức có tư
cách pháp nhân. Tức là nó có tài sản riêng,
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
26 Số 9(385) T5/2019
có tư cách pháp lý độc lập, có thể nhân danh
chính nó trong các quan hệ xã hội. Như vậy,
mặc dù ĐVSNCL do các cơ quan có thẩm
quyền của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị - xã hội thành lập, nó vẫn có
tư cách độc lập với các cơ quan, tổ chức đó.
(iii) ĐVSNCL có chức năng cung cấp
dịch vụ công, tức là phục vụ lợi ích chung
của xã hội.
(iv) Thông qua việc thực hiện chức
năng cung cấp dịch vụ công của mình,
ĐVSNCL cũng phục vụ quản lý nhà nước
mặc dù nó không có chức năng quản lý nhà
nước. Khi được thành lập bởi các cơ quan
nhà nước hay các tổ chức được Nhà nước
trao quyền, các ĐVSNCL không chỉ đơn
thuần thực hiện hoạt động cung ứng dịch vụ
công cho xã hội mà còn phục vụ trực tiếp
cho chức năng của đơn vị chủ quản nói riêng
và cho Nhà nước nói chung.
Luật Viên chức năm 2010 và vai trò
cung ứng dịch vụ công của các ĐVSNCL
Theo Điều 10 Luật Viên chức 2010,
chính sách xây dựng và phát triển các
ĐVSNCL và đội ngũ viên chức tựu trung ở
mấy điểm sau:
- Nhà nước tập trung xây dựng hệ
thống các ĐVSNCL để cung cấp những
dịch vụ công mà Nhà nước phải chịu trách
nhiệm chủ yếu bảo đảm nhằm phục vụ nhân
dân mà khu vực ngoài công lập chưa có khả
năng đáp ứng.
- Không tổ chức ĐVSNCL chỉ thực
hiện dịch vụ kinh doanh, thu lợi nhuận.
11 Tính đến thời điểm 31/12/2016, tổng số ĐVSNCL thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và địa
phương là 53.858 đơn vị, cụ thể như sau: ĐVSNCL thuộc Bộ, ngành: 1.109 đơn vị; ĐVSNCL thuộc địa phương: 52.749
đơn vị, trong đó, chia theo lĩnh vực: Đơn vị sự nghiệp giáo dục: 37.833 đơn vị; Đơn vị sự nghiệp y tế: 7.812 đơn vị; Đơn
vị sự nghiệp văn hóa, thể thao và du lịch: 1.455 đơn vị; Đơn vị sự nghiệp thuộc ngành, lĩnh vực khác: 5.649 đơn vị
Tổng số người làm việc trong ĐVSNCL của Bộ, ngành, địa phương đến 31/12/2016 là: 1.918.0623 người. Trong đó ở
trung ương là 155.474 người; địa phương là 1.762.588 người. Cụ thể như sau: Số lượng người làm việc được cấp có
thẩm quyền giao: 1.743.937 người; Số lượng người làm việc đơn vị tự quyết định: 96.169 người; Hợp đồng lao động
theo Nghị định số 68/2000/NĐ-CP: 77.956 người.
(Ban Cán sự Đảng Bộ Nội vụ, Đề cương đề án đổi mới cơ chế quản lý, cơ chế tài chính, tổ chức lại hệ thống các ĐVSNCL,
2017, tr. 15 - https://moha.gov.vn/DATA/DOCUMENT/2017/06/DA%20to%20chuc%20lai%20%C4%90VSN%20
cong%20lap%2006_2017%2019.6.pdf).
12 Pháp lệnh về “cán bộ, công chức” nhưng điều chỉnh cả viên chức.
- Cơ chế hoạt động của các ĐVSNCL
theo hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm, thực
hiện hạch toán độc lập; tách chức năng quản
lý nhà nước của bộ, cơ quan ngang bộ với
chức năng điều hành các ĐVSNCL.
- Nhà nước có chính sách xây dựng,
phát triển đội ngũ viên chức có đạo đức
nghề nghiệp, có trình độ và năng lực chuyên
môn đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của khu
vực cung ứng dịch vụ công.
2. Thực hiện Luật Viên chức năm 2010:
Những kết quả đạt được và hạn chế
2.1 Kết quả đạt được
(i) Quy chế pháp lý riêng cho viên chức
Kết quả đạt được lớn nhất của Luật
Viên chức năm 2010 là đã tạo một quy chế
pháp lý riêng cho viên chức (những người
làm việc chuyên môn, nghiệp vụ liên quan
đến chức năng cung ứng dịch vụ công trong
các ĐVSNCL)11. Lần đầu tiên có một văn
bản mang tính chất luật (luật/pháp lệnh)
điều chỉnh chuyên biệt về viên chức, góp
phần khắc phục sự “nhập nhằng” giữa cán
bộ, công chức, viên chức như dưới thời kỳ
của Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 1998
trước đây12.
(ii) Bãi bỏ chế độ “biên chế” cho viên chức
Nhằm tạo cơ chế linh hoạt, năng động,
hiệu quả, Luật Viên chức đã không còn áp
dụng chế độ “biên chế” mà thay bằng chế
độ “hợp đồng làm việc” cho viên chức. Đây
là sự khác biệt cơ bản giữa Luật Viên chức
năm 2010 và Luật Cán bộ, Công chức năm
2008 khi cán bộ và công chức được coi là
“trong biên chế” nhà nước.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
27Số 9(385) T5/2019
2.2 Hạn chế
(i) Biên chế hóa viên chức
Mặc dù Luật Viên chức không còn sử
dụng thuật ngữ “biên chế” và cũng không
thực hiện chính sách về chế độ biên chế đối
với viên chức, các quy định của Luật này và
các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi
hành vẫn thể hiện tính biên chế của viên chức.
Thứ nhất, các ĐVSNCL (đặc biệt
nhóm phụ thuộc toàn bộ hoặc một phần ngân
sách nhà nước) không thể tự ý quyết định
số lượng vị trí việc làm mà chỉ có quyền đề
xuất các vị trí việc làm cho cơ quan cấp trên
phê duyệt.
Thứ hai, nhiều ĐVSNCL muốn tự
quyết định số lượng viên chức thông qua tự
xác định vị trí việc làm nhưng không được
cấp trên chấp thuận, nên họ không thể tuyển
số lượng viên chức như mong muốn được.
Thay vào đó, nhiều ĐVSNCL phải tuyển
dụng người làm việc theo chế độ hợp đồng
lao động để bù đắp sự thiếu hụt đó. Việc ký
các hợp đồng lao động này dựa trên sự tự
chủ tài chính về các nguồn thu sự nghiệp.
Thứ ba, hợp đồng làm việc không xác
định thời hạn đối với viên chức cũng gần
như “biên chế suốt đời” của công chức vì
sẽ rất hãn hữu xảy ra trường hợp viên chức
bị chấm dứt hợp đồng lao động hay kỷ luật
buộc thôi việc.
Thứ tư, trong thực tiễn, các nhà quản
lý vẫn sử dụng thuật ngữ “biên chế” khi nói
về tuyển dụng viên chức. Ví dụ như “ưu tiên
bố trí biên chế của các địa phương để tuyển
dụng giáo viên, không xảy ra tình trạng có
học sinh mà không có giáo viên dạy học”,
hay tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng
13 https://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/nguoi-thay/bo-gd-dt-khong-chu-dong-duoc-trong-viec-dieu-tiet-thua-thieu-giao-vi-
en-474258.html
14 Bộ Nội vụ, Báo cáo tổng kết, đánh giá việc thi hành Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức (Dự thảo 2018), tr. 5-6.
15 https://dantri.com.vn/viec-lam/thanh-hoa-so-ldtbxh-tuyen-dung-hang-loat-vien-chuc-20190408222933805.htm
16 Ví dụ, trong các cơ sở giáo dục đại học công lập, mã số và phân hạng chức danh nghề nghiệp viên chức giảng dạy bao
gồm: giảng viên cao cấp (hạng I) mã số V.07.01.01; giảng viên chính (hạng II) mã số V.07.01.02; giảng viên (hạng III)
mã số V.07.01.03 (Điều 2 Thông tư liên tịch 36/2014/TTLT-BGDĐT-BNV quy định mã số và tiêu chuẩn chức danh
nghề nghiệp viên chức giảng dạy trong các cơ sở giáo dục đại học công lập).
5/2018, Thủ tướng đã chỉ đạo và giao Bộ Nội
vụ chủ trì phối hợp với Bộ GD-ĐT xem xét,
điều chỉnh chỉ tiêu biên chế ngành giáo dục
của một số địa phương cho phù hợp với mức
tăng dân số cơ học13. Ngay cả các Báo cáo
vẫn sử dụng thuật ngữ “biên chế sự nghiệp”14.
Thứ năm, cơ quan nhà nước có thể tiếp
cận việc giao chỉ tiêu biên chế theo nghĩa
rộng, tức cùng một thời điểm xác định cả
“biên chế công chức hành chính” và “số
lượng người làm việc trong các ĐVSNCL
và lao động hợp đồng theo Nghị định số
68/2000/NĐ-CP”15. Theo cách tiếp cận này,
số lượng người làm việc trong các ĐVSNCL
được xác định trong mối tương quan tổng thể
với chỉ tiêu biên chế công chức và số lượng
người làm việc theo hợp đồng lao động.
(ii) Công chức hóa viên chức
- Thiết lập chế độ về hạng chức danh
nghề nghiệp của viên chức
Mặc dù Luật Viên chức không còn
quy định về xếp “ngạch” như đối với ngạch
công chức, Nghị định 29/2012 đưa ra khái
niệm “hạng chức danh nghề nghiệp” của
viên chức. Theo đó, hạng chức danh nghề
nghiệp là “cấp độ thể hiện trình độ, năng lực
chuyên môn, nghiệp vụ của viên chức trong
từng ngành, lĩnh vực” (khoản 3 Điều 2).
Theo chức danh nghề nghiệp, viên
chức được phân loại trong từng lĩnh vực
hoạt động nghề nghiệp với các cấp độ từ
cao xuống thấp thành 4 hạng: viên chức giữ
chức danh nghề nghiệp hạng I; viên chức
giữ chức danh nghề nghiệp hạng II; viên
chức giữ chức danh nghề nghiệp hạng III;
viên chức giữ chức danh nghề nghiệp hạng
IV (khoản 2 Điều 3 Nghị định 29/2012)16.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
28 Số 9(385) T5/2019
Chế độ phân hạng chức danh nghề
nghiệp viên chức không hoàn toàn đồng
nhất với chế độ bổ nhiệm ngạch công chức.
Tuy nhiên, vẫn có thể thấy sự tương đồng
nhất định giữa hạng viên chức và ngạch
công chức.
Thứ nhất, hạng viên chức cần được
công nhận thông qua bổ nhiệm;
Thứ hai, hạng viên chức vẫn là cơ sở
để xếp lương;
Thứ ba, yêu cầu viên chức phải có một
số năm thâm niên giữ hạng hiện tại để được
thăng hạng cao hơn;
Thứ tư, hạng viên chức cũng được
phân thành 4 hạng.
- Thăng hạng chức danh nghề nghiệp
viên chức
Thăng hạng chức danh nghề nghiệp là
việc viên chức được bổ nhiệm giữ chức danh
nghề nghiệp ở hạng cao hơn trong cùng một
ngành, lĩnh vực (khoản 4 Điều 2 Nghị định
29). Cụ thể hơn, có thể xem ví dụ về thăng
hạng viên chức tại các cơ sở giáo dục đại
học công lập17.
- Quy định về xếp lương, nâng lương
Chế độ nâng bậc lương viên chức được
quy định bởi Thông tư 08/2013/TT-BNV
hướng dẫn thực hiện chế độ nâng bậc lương
thường xuyên và nâng bậc lương trước thời
hạn đối với cán bộ, công chức, viên chức
và người lao động. Đây là khung pháp lý về
nâng bậc lương được áp dụng chung cho bốn
nhóm người vừa nêu vốn đều làm việc trong
17 “Viên chức thăng hạng từ chức danh giảng viên (hạng III) lên chức danh giảng viên chính (hạng II) phải có thời gian
giữ chức danh giảng viên (hạng III) hoặc tương đương tối thiểu là 09 (chín) năm đối với người có bằng thạc sĩ, 06 (sáu)
năm đối với người có bằng tiến sĩ; trong đó thời gian gần nhất giữ chức danh giảng viên (hạng III) tối thiểu là 02 (hai)
năm” (điểm e, khoản 3, Điều 5 Thông tư liên tịch 36/2014).
“Viên chức thăng hạng từ chức danh giảng viên chính (hạng II) lên chức danh giảng viên cao cấp (hạng I) phải có
thời gian giữ chức danh giảng viên chính (hạng II) hoặc tương đương tối thiểu là 06 (sáu) năm, trong đó thời gian gần
nhất giữ chức danh giảng viên chính (hạng II) tối thiểu là 02 (hai) năm” (điểm g, khoản 3, Điều 4 Thông tư liên tịch
36/2014).
18 Nghị định này đã được thay thế bởi Nghị định số 15/2016 quy định cơ chế tự chủ của ĐVSNCL. Ngoài ra có một số
văn bản khác cũng quy định về vấn đề này như: Nghị định số 141/2016 quy định cơ chế tự chủ của ĐVSNCL trong lĩnh
vực sự nghiệp kinh tế và sự nghiệp khác.
khu vực công. Người đứng đầu ĐVSNCL và
người lao động không thể tự thỏa thuận mức
lương như ở khu vực tư.
- Quy định về đào tạo, bồi dưỡng
Tương tự chế độ nâng bậc lương,
chế độ đào tạo, bồi dưỡng viên chức được
quy định cùng với cán bộ, viên chức trong
Nghị định 101/2017/NĐ-CP về đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức, viên chức (thay
thế và bãi bỏ những quy định về đào tạo,
bồi dưỡng viên chức được quy định tại Nghị
định 29/2012/NĐ-CP về tuyển dụng, sử
dụng và quản lý viên chức).
Có thể thấy dù pháp luật đã tách biệt
quy chế pháp lý của viên chức so với cán
bộ và công chức, sự tách biệt này chỉ ở mức
tương đối. Việc đào tạo, bồi dưỡng viên chức
mặc dù có những khác biệt nhưng vẫn tuân
thủ các chính sách chung về những người
làm trong khu vực công (cán bộ, công chức,
viên chức).
(iii) Cơ chế tự chủ nửa vời của
ĐVSNCL
Cơ chế tự chủ của ĐVSNCL đã được
thực hiện hơn một thập kỷ (có thể tính từ
Nghị định 43/2006 quy định quyền tự chủ,
tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ,
tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với
ĐVSNCL)18, nhưng vẫn còn tồn tại những
hạn chế sau:
Một là, cơ chế tự chủ này chủ yếu là
tự chủ tài chính chứ chưa chú trọng đến tự
chủ về nhân sự. Hơn nữa sự tự chủ tài chính
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
29Số 9(385) T5/2019
cũng vẫn bị giới hạn bởi pháp luật (ví dụ:
pháp luật quy định mức trần học phí ở các
trường đại học công lập).
Hai là, cơ chế tự chủ nửa vời, thiếu
đồng bộ vì tự chủ tài chính mà không đi kèm
tự chủ nhân sự. ĐVSNCL rất khó khăn khi
muốn cắt giảm nhân sự để tăng lương cho
nhân viên.
3. Sửa đổi Luật Viên chức: Những vấn đề đặt
ra trong cải cách pháp luật về dịch vụ công
Trước nhu cầu sửa đổi Luật Viên
chức19, cần lưu ý một số vấn đề đặt ra trong
cải cách pháp luật về dịch vụ công như sau:
Xác định công chức hay viên chức
chưa rõ ràng ở một số trường hợp
(i) Người được tuyển dụng từ trước
01/7/2003 (khi pháp luật còn chưa phân biệt
rõ ràng giữa công chức và viên chức và gọi
chung hai nhóm này là công chức) mà chưa
được ĐVSNCL chuyển sang ký hợp đồng
làm việc.
(ii) Những “người giữ các vị trí việc
làm gắn với nhiệm vụ quản lý nhà nước
trong ĐVSNCL được giao thực hiện nhiệm
vụ quản lý nhà nước” cũng có thể được xác
định là công chức chứ không phải viên chức
(Điều 11 Nghị định 06/2010/NĐ-CP ngày
25/01/2010 quy định những người là công
chức).
Quy định vừa nêu của Nghị định
06/2010 có thể được áp dụng cho các cơ
quan thuộc Chính phủ vì các cơ quan này
“có chức năng phục vụ nhiệm vụ quản lý
nhà nước của Chính phủ; thực hiện một số
dịch vụ công có đặc điểm, tính chất quan
trọng mà Chính phủ phải trực tiếp chỉ đạo”
(khoản 1 Điều 2 Nghị định 10/2016 quy
định về cơ quan thuộc Chính phủ).
19 Xem Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức (https://moha.gov.vn/DATA/
DOCUMENT/2019/01/CCVC/Du%20thao%20Luat.pdf).
20 Nghị định số 69/2000 áp dụng đối với các đơn vị sự nghiệp hoạt động bằng kinh phí do ngân sách nhà nước cấp (theo khoản
3 Điều 2). Do đó có thể suy đoán các đơn vị sự nghiệp tự chủ hoàn toàn không chịu sự điều chỉnh của Nghị định này.
21 Ví dụ: hợp đồng lao động với giảng viên ở các cơ sở đào tạo đại học.
(iii) Người là công chức được luân
chuyển, điều động, biệt phái đến làm việc ở
ĐVSNCL (ví dụ: thẩm phán được biệt phái
đến Học viện Tòa án, kiểm sát viên được
biệt phái đến trường Đại học Kiểm sát).
(iv) Người đứng đầu và cấp phó người
đứng đầu ĐVSNCL (là công chức) sau khi
hết nhiệm kỳ quản lý mà vẫn làm công tác
chuyên môn, nghiệp vụ tại ĐVSNCL đó thì
có chuyển thành viên chức không?
Căn cứ pháp lý của chế độ hợp đồng
lao động tại các ĐVSNCL
Bộ luật Lao động hay Nghị định
68/2000?
Hiện nay, việc ký kết hợp đồng lao
động tại ĐVSNCL thường căn cứ vào hai
văn bản. Một là, căn cứ vào Điều 1 Nghị
định 68/200020 (trước khi được sửa đổi,
bổ sung bởi Nghị định 181/2018) đối với
những công việc nhất định được nêu trong
Nghị định này: Sửa chữa, bảo trì đối với
hệ thống cấp điện, cấp, thoát nước ở công
sở, xe ô tô và các máy móc, thiết bị khác
đang được sử dụng trong cơ quan, đơn vị
sự nghiệp; lái xe; bảo vệ; vệ sinh; trông giữ
phương tiện đi lại của cán bộ, công chức và
khách đến làm việc với cơ quan, đơn vị sự
nghiệp; công việc thừa hành, phục vụ khác
có yêu cầu trình độ đào tạo từ trung cấp trở
xuống. Hai là, căn cứ vào Bộ luật Lao động
đối với những công việc không được nêu
trong Nghị định 68 nhưng ĐVSNCL vẫn có
nhu cầu tuyển dụng và trả lương cho người
lao động bằng nguồn thu sự nghiệp21.
Đáng lưu ý, gần đây Nghị định
181/2018 đã sửa đổi Nghị định 68 ở điểm:
“Điều 3. Các công việc không thực
hiện ký hợp đồng lao động trong cơ quan
hành chính, ĐVSNCL
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
30 Số 9(385) T5/2019
1. Không thực hiện việc ký hợp đồng
lao động đối với các đối tượng sau:
a) Những người làm công việc chuyên
môn, nghiệp vụ ở các vị trí việc làm được xác
định là công chức trong các cơ quan hành
chính hoặc là viên chức trong ĐVSNCL do
Nhà nước bảo đảm toàn bộ hoặc một phần
chi thường xuyên” (khoản 1 Điều 3 Nghị
định 29, sửa đổi bổ sung bởi Nghị định
181/2018).
Như vậy, Nghị định 181 đã không
còn cho phép các ĐVSNCL do Nhà nước
bảo đảm toàn bộ hoặc một phần chi thường
xuyên thực hiện việc ký hợp đồng lao động
đối với những người làm công việc chuyên
môn, nghiệp vụ ở các vị trí việc làm được
xác định là viên chức. Điều này đặt ra câu
hỏi, liệu các trường đại học có được ký hợp
đồng lao động với giảng viên, các bệnh viện
có được ký hợp đồng lao động với bác sĩ?
Người làm việc theo chế độ hợp đồng
lao động không xác định thời hạn: chế độ
gần như viên chức?
Như trên đã phân tích, hiện nay pháp
luật vẫn cho phép các ĐVSNCL tuyển dụng
nhân sự làm việc theo chế độ hợp đồng lao
động theo Bộ luật Lao động. Những người
làm việc theo chế độ hợp đồng lao động (gọi
tắt là người lao động), mặc dù trên nguyên
tắc có quy chế pháp lý điều chỉnh khác biệt
so với viên chức, trên thực tế có các quyền
và nghĩa vụ pháp lý tương tự như viên chức.
Người lao động vẫn phải chấp hành pháp
luật liên quan đến viên chức, pháp luật liên
quan đến nhiệm vụ của họ22 và quy chế của
ĐVSNCL.
Nhà nước có cách tiếp cận chung trong
việc xếp lương và nâng lương đối với cán
bộ, công chức, viên chức và người lao động
(những người làm trong khu vực công), theo
Thông tư 08/2013/TT-BNV hướng dẫn thực
hiện chế độ nâng bậc lương thường xuyên
và nâng bậc lương trước thời hạn đối với cán
bộ, công chức, viên chức và người lao động.
22 Ví dụ: giảng viên theo hợp đồng vẫn có nghĩa vụ chấp hành Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học
Hợp đồng làm việc xác định thời hạn
đối với viên chức
Theo dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung
Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức,
sẽ không còn áp dụng hợp đồng làm việc
không xác định thời hạn đối với viên chức
được tuyển dụng kể từ ngày Luật có hiệu
lực. Liệu đây có phải là sự hoàn toàn chấm
dứt chế độ “biên chế” đối với viên chức?
Khi Luật sửa đổi, bổ sung này có hiệu
lực từ 01/01/2020, sẽ xảy ra hai vấn đề.
Một là, sẽ có tình trạng 2 nhóm viên chức
làm việc như nhau nhưng một nhóm có hợp
đồng làm việc không xác định thời hạn (do
tuyển dụng trước 01/01/2020) và một nhóm
có hợp đồng làm việc xác định thời hạn (do
tuyển dụng sau 01/01/2020). Hai là, sẽ có
tình trạng viên chức được tuyển dụng sau
01/01/2020 chỉ làm việc theo hợp đồng có
thời hạn, trong khi những người làm việc
theo chế độ hợp đồng lao động lại vẫn áp
dụng hợp đồng không xác định thời hạn theo
Bộ luật Lao động.
Người đứng đầu, cấp phó người
đứng đầu: công chức hay viên chức?
Theo dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung
Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức,
người đứng đầu và cấp phó người đứng đầu
sẽ không còn là công chức mà là viên chức
giống như những viên chức làm chuyên
môn, nghiệp vụ ở ĐVSNCL.
Đánh giá viên chức
Do cơ chế tự chủ nửa vời, người đứng
đầu ĐVNSCL không có động lực, sức ép
thực sự để thực hiện đánh giá viên chức như
tinh thần Luật Viên chức mong muốn. Hiếm
khi ĐVNSCL đánh giá viên chức không hoàn
thành nhiệm vụ, và do đó khiến cho việc
chấm dứt hợp đồng với viên chức xảy ra.
Việc khen thưởng viên chức hiện nay
vẫn chủ yếu theo Luật Thi đua, khen thưởng
mà chưa có sự năng động. Chẳng hạn, nhiều
trường đại học công lập sử dụng cơ chế đánh
giá việc giảng dạy từ người học đối với giảng
viên, nhưng chưa sử dụng kết quả đánh giá
cho việc khen thưởng.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
31Số 9(385) T5/2019
Cơ chế tự chủ, cạnh tranh
Tính đến năm 2017, ở các Bộ, cơ
quan trung ương có 1.109 ĐVSNCL được
giao tự chủ về tài chính, gồm: 208 đơn vị
tự bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động; 526
đơn vị đơn vị sự nghiệp đảm bảo một phần
chi phí và 256 đơn vị do NSNN bảo đảm
toàn bộ kinh phí hoạt động. Ở địa phương
có 49.465 ĐVSNCL được giao tự chủ về tài
chính, gồm: 1.366 đơn vị tự bảo đảm toàn
bộ chi phí hoạt động; 8.966 đơn vị đơn vị sự
nghiệp đảm bảo một phần chi phí và 39.009
đơn vị do NSNN bảo đảm toàn bộ kinh phí
hoạt động23.
23 https://www.moha.gov.vn/baucu/tin-tuc-su-kien/hoi-thao-xin-y-kien-de-an-doi-moi-co-che-quan-ly-co-che-tai-chinh-
to-chuc-lai-he-thong-cac-don-vi-su-nghiep-cong-lap-34006.html.
24 https://www.moha.gov.vn/baucu/tin-tuc-su-kien/hoi-thao-xin-y-kien-de-an-doi-moi-co-che-quan-ly-co-che-tai-chinh-
to-chuc-lai-he-thong-cac-don-vi-su-nghiep-cong-lap-34006.html.
Chính sách của Đảng và Nhà nước
đang ủng hộ tăng cường cơ chế tự chủ của
các ĐVSNCL. Bên cạnh việc tự chủ, cần
tính đến cơ chế “cạnh tranh” lành mạnh
giữa các ĐVSNCL nhằm thúc đẩy tính hiệu
quả và năng động. Thậm chí còn phải tạo
sự cạnh tranh bình đẳng giữa khu vực công
và khu vực tư24. Có thể học tập kinh nghiệm
Australia, khi gần như toàn bộ các trường đại
học là đại học công và các trường này phải
cạnh tranh với nhau để nhận được nguồn tài
trợ từ nhà nước. Các trường phải đạt các yêu
cầu, tiêu chuẩn và thành tích nhất định mới
được nhà nước cấp kinh phí
Cùng với sự có mặt của báo chí, quy
định này có thể khắc phục tính hình thức và
đảm bảo hiệu quả hoạt động thẩm tra, giải
trình. Hơn nữa, quy định về thành phần đa
dạng cũng nhằm cung cấp cho các thành
viên của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban
thêm những nguồn thông tin có giá trị để có
cơ sở hoàn thiện báo cáo trình Quốc hội và
Ủy ban thường vụ Quốc hội. Bên cạnh đó,
quy định như vậy cũng tăng tính công khai,
minh bạch với sự tham gia rộng rãi của công
chúng và báo chí.
4. Kết luận
Hoạt động báo cáo, giải trình tại Hội
đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội
đã và đang trở thành công cụ đắc lực cho các
cơ quan của Quốc hội trong việc tham mưu,
giúp Quốc hội giám sát, thẩm tra các dự
án luật, pháp lệnh, tờ trình. Thông qua báo
cáo, giải trình, những vấn đề nóng, phức tạp
trong quản lý nhà nước, hoạch định chính
sách đã được đưa ra thảo luận công khai,
đa chiều, làm tăng lòng tin của dư luận, cử
tri vào quy trình làm việc công khai, minh
bạch của Quốc hội, các cơ quan của Quốc
hội. Phiên họp báo cáo, giải trình đã góp
phần thay đổi theo hướng tích cực, thúc đẩy
cơ quan, cá nhân có trách nhiệm thực hiện
nhiệm vụ trong lĩnh vực liên quan; thay đổi
chính sách, các quy định pháp luật. Hoạt
động của cơ quan nhà nước trở nên minh
bạch hơn, các chủ thể liên quan có thêm cơ
hội tham gia vào quá trình xây dựng ban
hành chính sách.
Thời gian vừa qua, hoạt động báo cáo,
giải trình đã được Hội đồng Dân tộc, các Ủy
ban của Quốc hội đổi mới. Tuy nhiên để hoạt
động này thực sự có hiệu quả, chúng ta cần
tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện từ cơ sở pháp
lý cho đến kinh nghiệm tổ chức thực hiện để
đưa ra phương thức hoạt động phù hợp nhất
đối với từng cơ quan, từng nội dung báo cáo
giải trình cụ thể
HOẠT ĐỘNG BÁO CÁO, GIẢI TRÌNH...
(Tiếp theo trang 14)
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
32 Số 9(385) T5/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luat_vien_chuc_nam_2010_nhung_van_de_dat_ra_trong_cai_cach_p.pdf