Kết luận
Tóm lại, khi nghiên cứu mô hình quản
lý công mới chúng ta thấy rằng đây là một
mô hình quản lý hiện đại, có rất nhiều ưu
điểm, là một gợi ý tốt cho các quốc gia
chuyển đổi mô hình quản lý như Việt Nam
tham khảo. Tuy nhiên, từ hai điểm phân
tích về điều kiện để áp dụng mô hình và
khả năng giải quyết những hạn chế, yếu
kém của nền hành chính Việt Nam của mô
hình quản lý công mới nếu được áp dụng,
chúng tôi cho rằng “mô hình quản lý công
mới” không phải là “chìa khóa vạn năng”
giải quyết được hết những vấn đề bất cập
của nền hành chính Việt Nam. Cải cách
hành chính ở Việt Nam có thể “vận dụng
những yếu tố hợp lý của mô hình quản
lý công mới” song song với việc giải quyết
những hạn chế mang tính đặc thù của hành
chính Việt Nam, tạo ra “các tiền đề điều
kiện” trước khi áp dụng toàn bộ “mô hình
quản lý công mới”.
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 326 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mô hình quản lý công mới và tính khả thi khi áp dụng ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 32 (57) - Thaùng 9/2017
136
Mô hình quản lý công mới và
tính khả thi khi áp dụng ở Việt Nam
New public management and its feasibility for Vietnam
ThS. Lê Minh Thảo, Trường Chính trị tỉnh Hải Dương
Le Minh Thao, M.A., Hai Duong Province School of Political
Lê Thị Nga, Trường Chính trị tỉnh Hải Dương
Le Thi Nga, Hai Duong Province School of Political
Tóm tắt
“Quản lý công mới” (New public management, NPM) là một mô hình lý luận quản lý công được đưa ra
vào thập niên 80 của thế kỷ 20 tại các quốc gia như Anh, Mỹ, cũng là một trong những tư tưởng chủ đạo
trong cải cách hành chính công ở phương tây những năm gần đây. Quản lý công mới dựa vào lý luận cơ
bản của kinh tế học hiện đại. Chủ trương Chính phủ trong các hoạt động quản lý áp dụng cơ chế cạnh
tranh và các phương pháp quản lý thành công của quản lý kinh tế tư nhân, coi trọng hoạt động phục vụ
của nền công vụ. Bài viết này chúng tôi làm rõ những vấn đề sau: Bối cảnh ra đời, một số tư tưởng lý
luận tiêu biểu, nội dung cơ bản của quản lý công mới và bàn về tính khả thi khi áp dụng “mô hình quản
lý công mới” ở Việt Nam.
Từ khóa: quản lý công mới, tính khả thi, Việt Nam.
Abstract
New public management (NPM) is a public management model theory that has been introduced in the
United States and UK since the 1980s. It also has been one of the main ideas to manage the public
administration reform in the West in recent years. NPM is based on basic theories of the modern
economic. The management policies of the government are performed by applying the competitive
mechanism and successful management methods of the individual economic management as well as
attaching much importance to service activities of the public administration. This article clarifies the
following issues: background, some typical theoretical ideas, basic contents of the new public
management, and the feasibility of "New public management” application to Vietnam.
Keywords: new public administration, feasibility, Vietnam.
1. Đặt vấn đề
“Quản lý công mới” (New public
management, NPM) là một mô hình lý
luận quản lý công được đưa ra vào thập
niên 80 của thế kỷ 20 tại các quốc gia như
Anh, Mỹ, cũng là một trong những tư
tưởng chủ đạo trong cải cách hành chính
công ở phương tây những năm gần đây.
Vậy “Mô hình Quản lý công mới” là gì và
có thích hợp khi áp dụng ở Việt Nam hay
không. Để làm rõ điều này chúng tôi tiến
hành nghiên cứu bối cảnh ra đời, một số tư
tưởng lý luận tiêu biểu, nội dung cơ bản
của quản lý công mới và bàn về tính khả
thi khi áp dụng “Mô hình quản lý công
mới” ở Việt Nam.
LÊ MINH THẢO - LÊ THỊ NGA
137
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Về bối cảnh ra đời của mô hình
quản lý công mới
Từ giữa thế kỷ trước, các quốc gia tư
bản phát triển ở phương tây thực hiện phổ
biến chế độ “quốc gia phúc lợi”. Họ vận
dụng kinh tế học của John Maynard
Keynes để điều hành hoạt động kinh tế của
quốc gia, dựa vào trò điều tiết nền kinh tế
của Chính phủ để khắc phục những khuyết
tật của cơ chế thị trường. Song đã qua
nhiều năm, “Chính phủ phúc lợi” lại không
đạt được sự tăng trưởng kinh tế như mong
muốn. Những năm 60, 70 của thế kỷ XX,
kinh tế đình trệ do lạm phát, đặc biệt là
cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973,
Chính phủ mở rộng chi tiêu dẫn tới tăng
thuế, phục vụ công của Chính phủ không
hiệu quả, tạo thành sự không hài lòng trong
xã hội. Cuối cùng dẫn tới sự nhận thức tất
yếu phải tiến hành cải cách.
Trên phương diện chính trị người ta
bắt đầu phê phán những chính sách cơ bản
của mô hình “Chính phủ phúc lợi”. Họ chủ
trương tự do hóa thị trường. Trên hình thái
ý thức, nổi lên tư tưởng “tân phái hữu”,
khởi nguồn từ tư tưởng kinh tế tự do và lý
thuyết lựa chọn công để xây dựng mô hình
kinh tế và sắp đặt các chế độ quản lý thích
hợp; nhấn mạnh lại vai trò của thị trường
tự do, phê phán sự can dự quá mức của
Chính phủ vào thị trường. Họ cho rằng
Chính phủ là lực lượng phi thị trường, sẽ
làm biến dạng quá trình bố trí hiệu quả các
nguồn lực xã hội, làm giảm tăng trưởng
kinh tế và cắt giảm phúc lợi xã hội. Họ
khuyến nghị các biện pháp cần áp dụng
như: tư nhân hóa doanh nghiệp nhà nước,
thị trường hóa cung ứng dịch vụ công, cạnh
tranh trong khu vực công, cạnh tranh giữ
khu vực công với khu vực tư trong cung
ứng dịch vụ công.
Cải cách hóa thị trường, trên một giác
độ nhất định mà nói, chính là giảm bớt
chức năng của Chính phủ, đồng thời cũng
là sự ủy quyền đầy thú vị của Chính phủ
cho khu vực tư nhân. Chính phủ đồng thời
đóng hai vai quan trọng (i) là người cung
ứng phúc lợi cho xã hội (ii) định hướng
cho tăng trưởng và ổn định kinh tế. Chính
phủ có trách nhiệm bảo đảm thúc đẩy công
bằng xã hội, bình đẳng trong giáo dục,
chăm sóc sức khỏe, bảo vệ môi trường,
phân bổ tài nguyên. Xã hội yêu cầu Chính
phủ “chi tiêu ít, đạt được hiệu quả cao.
Như vậy bắt buộc Chính phủ phải tiến
hành cải cách bằng việc áp dụng phương
thức quản lý hiệu quả của khu vực tư nhân,
cuối cùng hình thành nên “mô hình quản lý
công mới”.
2.2. Một số tư tưởng lý luận tiêu biểu
Mọi người thông thường cho rằng
quản lý công mới là để phân biệt giữa
hành chính công truyền thống với sự xuất
hiện của mô hình quản lý công mới.
C.Heckscher chỉ ra cải cách Chính phủ đã
phá vỡ quan hệ chỉ huy mệnh lệnh hành
chính một chiều, thiết lập nên quan hệ tác
động lẫn nhau giữa chủ thể quản lý với đối
tượng quản lý, đồng thời khởi xướng, thay
thế thành tổ chức hậu quan liêu. Michael
Barzelay cho rằng từ bỏ thời đại chế độ
quan liêu đã tới, quản lý công chuyển từ
coi trọng hiệu suất tới coi trọng chất lượng
phục vụ và sự hài lòng của khách hàng, đề
cao sự cạnh tranh tạo thành hiệu quả là sứ
mệnh của tổ chức. George Osborne và Ted
Gaebler đã tổng kết kinh nghiệm cải cách
Chính phủ ở Hoa Kỳ khởi xướng hoạt
động “sáng tạo lại Chính phủ”. Năm 1989,
Christopher Hood đã tổng kết hoạt động
cải cách Chính phủ của các quốc gia
phương tây gọi thành “quản lý công mới”.
Như vậy, thực tế đã thúc đẩy sự ra đời của
MÔ HÌNH QUẢN LÝ CÔNG MỚI VÀ TÍNH KHẢ THI KHI ÁP DỤNG Ở VI T NAM
138
Quản lý công mới mà không phải xuất
phát từ lý luận quản lý hành chính công
truyền thống.
Nền tảng lý luận của Quản lý công
mới có sự khác biệt rất lớn với lý luận quản
lý công truyền thống. Nếu nói hành chính
công truyền thống lấy lý luận chính trị của
Wilson, Frank Johnson Goodnow “phân
khai giữa chính trị và hành chính” và mô
hình “quan liêu” của Max Weber làm trụ
cột cho lý luận thì Quản lý công mới lại lấy
kinh tế học hiện đại, lý luận và phương
pháp quản lý của doanh nghiệp tư nhân làm
cơ sở lý của của mình:
Thứ nhất, quản lý công mới từ kinh tế
học hiện đại đã thu được rất nhiều căn cứ
lý luận của mình, ví như từ “con người lý
tính” (người lý tính là ai cũng vì lợi ích của
bản thân mình, đều hy vọng bỏ ra nguồn
lực ít nhất mà thu về lợi ích nhiều nhất) giả
định này là căn cứ của lý luận “hiệu quả
quản lý”, từ quy luật giá trị trong trao đổi
hàng hóa và lý thuyết lựa chọn công cộng
là căn cứ của nguyên tắc “Chính phủ nên
lấy thị trường và khách hàng là tín hiệu để
chỉ đạo các hoạt động của mình”, nâng cao
hiệu quả, hiệu lực và chất lượng trong phục
vụ công; từ phân tích giá cả, hiệu quả và
lợi ích hình thành nên nguyên tắc “đánh giá
hiệu quả hoạt động của Chính phủ dựa vào
mục tiêu và phân tích kết quả hoạt động”...
Thứ hai, từ phương pháp quản lý của
khu vực tư, quản lý công mới đã áp dụng
vào hoạt động quản lý công như: hình thức
tổ chức linh hoạt thích ứng với môi trường
mà không phân tầng cứng nhắc như mô
hình quan liêu của Max Weber, coi trọng
đầu ra và kết quả chứ không chỉ quản đầu
vào, trên phương diện quản lý nhân sự áp
dụng linh hoạt chế độ hợp đồng, thuê
ngoài, trả lương theo vị trí việc làm và hiệu
quả hoạt động, quản lý theo mục tiêu, phát
triển nguồn nhân lực...
Trên cơ sở lý luận của kinh tế học hiện
đại và phương pháp quản lý của khu vực
kinh tế tư nhân đã phát triển nhiều học
thuyết quản lý công mới theo các hướng
khác nhau:
(1) Lý luận “Chính phủ nhỏ xã hội
lớn” của Milton Friedman và Friedrich
Hayek
Khi nghiên cứu bối cảnh sự can thiệp
không hiệu quả của Chính phủ vào thị
trường Milton Friedman và Friedrich
Hayek đã cho rằng Chính phủ cần phải thu
hẹp phạm vi không gian quản lý, không
can thiệp quá sâu vào thị trường, bởi vì khi
thị trường làm không được thì Chính phủ
cũng sẽ làm không tốt. Tức nhiệm vụ của
Chính phủ chỉ cung cấp biệt lập hoạt động
phục vụ và các sản phẩm công cộng. Ở
quan điểm này, “Chính phủ nhỏ” được hiểu
là Chính phủ thu hẹp phạm vi tác động
bằng cách chuyển giao các chức năng
không cần thiết cho các tổ chức khác trong
xã hội chứ không có nghĩa là nhỏ yếu trong
năng lực quản lý và điều hành.
(2 ) Lý luận “Tái tạo lại quy trình
quản lý”, của Armand Hammer và James
Champy
Nội dung chủ yếu của lý luận này như
sau:
(1) Đối với quy trình công việc cần
phải thiết kế lại, lấy đề cao hiệu quả, hiệu
lực và chất lượng.
(2) Lấy quy trình nghiệp vụ là đối
tượng trung tâm của cải cách, lấy nhu cầu
và độ hài lòng của khách hàng làm mục
tiêu. Đối với quy trình nghiệp vụ hiện tại
tiến hàng khảo sát lại toàn bộ và thiết kế lại
một cách triệt để, phá vỡ chức năng và cơ
cấu của tổ chức quan liêu truyền thống,
thiết lập mới quy trình và cơ cấu tổ chức,
từ đó các mặt giá trị, chất lượng, quá trình
LÊ MINH THẢO - LÊ THỊ NGA
139
phục vụ... đều được hoàn thiện.
(3) Lý luận “đánh giá kết quả hoạt
động của Chính phủ” của Marc Holzer
Marc Holzer đã tiếp cận quá trình đánh
giá kết quả họa động của Chính phủ, đề
xuất biến quá trình đánh giá kết quả hoạt
động của Chính phủ thành một loại công
cụ để cải tiến kết quả hoạt động của Chính
phủ, tác giả này đã thiết kế một bộ quy
trình cụ thể để đánh giá kết quả hoạt động
của Chính phủ, trong đó nhấn mạnh và đề
cao có sự tham gia đánh giá của công dân
đối với hoạt động của Chính phủ. Lấy kết
quả quá trình đánh giá và những thông tin
thu được từ quá trình này để hoàn thiện
chính sách và cải tiến các hoạt động quản
lý, điều hành của Chính phủ.
(4 ) Lý luận “Quy trình quản lý chất
lượng toàn diện của Chính phủ” của
Marc Holzer
Marc Holzercòn đề ra một bộ quy trình
quản lý chất lượng toàn diện của Chính
phủ, thiết lập cơ cấu quản lý công lấy
khách hàng làm trung tâm, cải tiến liên tục,
nhấn mạnh trao quyền và hợp tác để đưa
vào quy trình quản lý của Chính phủ nhằm
loại bỏ các trở lực của mô hình quan liêu
đem lại như lợi ích nhóm, tầng nấc
cứng nhắc...
(5) Lý luận “Sáng tạo lại Chính phủ”
của George Osborne và Ted Gaebler
Trong hoạt động “cải cách Chính phủ”
quản lý công mới được xem là một bộ phận
của cải cách Chính phủ, đồng thời chỉ ra
mô hình “quản lý công mới” bao gồm 10
nội dung cơ bản mang tính nguyên tắc
sau đây:
1. Chức năng điều phối của Chính phủ:
“là người cầm lái mà không phải là kẻ chèo
thuyền”
2. Quan hệ giữa Chính phủ với công
dân: Nhân dân làm chủ, Chính phủ nhận sự
ủy quyền từ nhân dân và có nhiệm vụ phục
vụ nhân dân.
3. Tính cạnh tranh của Chính phủ: đưa
cơ chế cạnh tranh vào trong các hoạt động
cung ứng dịch vụ công.
4. Chính phủ có sứ mệnh: Cải cách
việc xử lý công việc dựa vào giấy tờ hành
chính.
5. Hiệu quả hoạt động của Chính phủ:
Coi trọng hiệu quả mà không phải là cấp
phát ngân sách đầu vào.
6. Quan hệ với đối tượng quản lý: thỏa
mãn nhu cầu khách hàng mà không phải là
nhu cầu cai trị như ở mô hình quan liêu.
7. Hoạt động của Chính phủ: có hiệu
quả mà không phải là lãng phí.
8. Hoạt động dự báo của Chính phủ:
phòng bệnh chứ không phải là trị bệnh.
9. Phân quyền của Chính phủ: Từ
cơ chế tầng nấc thành cơ chế điều hòa,
hợp tác.
10. Chính phủ lấy thị trường là tín hiệu
chỉ đạo: Thông qua lực lượng thị trường
tiến hành cải cách.
(6) “7 đặc trưng Quản lý công mới”
của Christopher hoor
1. Chuyên nghiệp hóa quản lý.
2. Có tiêu chuẩn và đánh giá rõ ràng
kết quả hoạt động.
3. Coi trọng hoạt động khống chế
(dùng kết quả và chế độ dự toán kế hoạch
thay thế cho chế độ dự toán hạng mục hữu
tính truyền thống).
4. Hành chính nội bộ có xu hướng
phân hóa hỗn hợp.
5. Áp dụng cơ chế cạnh tranh.
6. Áp dụng phương pháp quản lý của
doanh nghiệp.
7. Sử dụng tài nguyên hợp lý và tiết
kiệm.
(7) Quan điểm của Tổ chức Hợp tác
và Phát triển Kinh tế (0ECD)
MÔ HÌNH QUẢN LÝ CÔNG MỚI VÀ TÍNH KHẢ THI KHI ÁP DỤNG Ở VI T NAM
140
1. Đề cao trình độ quản lý nguồn nhân
lực của nhân viên vào quá trình quyết sách,
nâng cao hiệu quả của cơ chế tiền lương.
2. Tăng cường hoạt động kiểm soát
theo mục tiêu.
3. Ứng dụng kỹ thuật thông tin.
4. Phục vụ khách hàng.
5. Kết hợp giữa nhu cầu và cung ứng.
6. Mở rộng hình thức hợp đồng, thuê
ngoài.
7. Quy định cơ chế kiểm soát, triệt tiêu
tính lũng đoạn.
Như vậy, quản lý công mới lấy tinh
thần của doanh nghiệp để tiến hành cải
cách Chính phủ. Đồng thời đưa rất nhiều
những phương pháp quản lý kinh doanh
thành công của doanh nghiệp vào hoạt
động của Chính phủ, làm cho các tổ chức
công thuộc Chính phủ hoạt động đạt được
hiệu quả cao như các doanh nghiệp tư
nhân. Trong đó điểm quan trọng nhất là lấy
khách hàng (người dân) làm trung tâm, tức
nhấn mạnh trách nhiệm của người cung
ứng dịch vụ công (Chính phủ) đối với
khách hàng (người dân), trong quá trình
cung ứng dịch vụ công phải không ngừng
đổi mới, tìm kiếm các phương pháp để
giảm thiểu chi phí và nâng cao chất lượng,
lắng nghe khách hàng, từ quyền lợi của
người dân mà cung ứng dịch vụ, tôn trọng
quyền chọn lựa của người dân trong việc
tiếp cận các dịch vụ công công.
2.3. Nội dung cơ bản của quản lý
công mới
Từ những tư tưởng về quản lý công
mới nêu trên có thể khái quát thành những
nội dung cơ bản của quản lý công mới
như sau:
2.3.1. Lấy khách hàng (nhân dân) làm
hướng dẫn chỉ đạo hành động của Chính phủ
Theo đuổi quan niệm hoàn toàn mới
coi “khách hàng (nhân dân) là thượng đế”.
Quản lý công mới đã cải cách hoàn toàn
mối quan hệ truyền thống giữa Chính phủ
với người dân. Chính phủ không “mệnh
lệnh hành chính” như trong cơ cấu của mô
hình quan liêu mà Chính phủ đóng vai trò
người cung ứng sự phục vụ cho người dân,
hành chính công của Chính phủ không phải
là “hành chính cai trị’ mà là “hành chính
phục vụ”. Công dân là “khách hành” thụ
hưởng sự phục vụ công của Chính phủ,
Chính phủ lấy nhu cầu của người dân làm
hướng chỉ đạo, tôn trọng quyền làm chủ
của nhân dân kiên trì lấy đó là phương
hướng phục vụ. Quản lý công mới coi
trọng hiệu quả trong các hoạt động của
Chính phủ, biểu hiện trung tâm của điều
này được thể hiện trong phương hướng
mục tiêu hoạt động, từ thẩm quyền hành
chính đến hành vi hành chính phải xuất
phát từ sự hài lòng của người dân. Chính
phủ lấy việc cung cấp các sản phẩm công
có chất lượng toàn diện, cung ứng sự phục
vụ công bằng và liêm chính là yêu cầu
nghĩa vụ đầu tiên của mình. Trong quản lý
công mới “Chính phủ có trách nhiệm là
doanh nghiệp” còn “người dân có quyền
được tôn trọng như khách hàng”. Đây
chính là nguyên tắc của thị trường được
quản lý công mới tiếp thu. Coi Chính phủ
là “nhà doanh nghiệp” song mục tiêu hoạt
động lại “phi lợi nhuận”, tái phân bổ lại các
nguồn lực kinh tế từ lĩnh vực hoạt động
hiệu quả thấp sang lĩnh vực hoạt động đạt
hiệu quả cao. “Khách hàng điều khiển
Chính phủ”, Chính phủ có nhiệm vụ cung
ứng đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ
công với chất lượng không ngừng được cải
tiến. Như vậy trong hoạt động phục vụ
công với sự tham gia của khách hàng
(người dân) là chủ thể đã thay đổi hoàn
toàn vị thế của người dân trong mối quan
hệ với nền hành chính.
LÊ MINH THẢO - LÊ THỊ NGA
141
2.3.2. Xác định lại vai trò của Chính phủ
Theo David Osborne và Ted Gaebler,
Chính phủ đóng vai từ người “chèo thuyền”
thành người “cầm lái”. Hai tác giả này cho
rằng một trong những nguyên nhân quan
trọng của việc Chính phủ truyền thống hoạt
động hiệu quả thấp là quá bận với thao tác
chèo thuyền, làm quá nhiều thì làm sẽ làm
không tốt, tựa như bỏ phần gốc tìm phần
ngọn. Chính phủ tập trung thực hiện chức
năng định ra chính sách mà không là cấp thi
hành chính sách. Chính phủ nên phân khai
giữa hoạt động quản lý kinh tế với các hoạt
động sản xuất kinh doanh. Chính phủ thông
qua cơ chế thị trường, không ngừng tiến
hành các hoạt động thích hợp và có lợi làm
đòn bẩy hướng khu vực tư nhân thành
người “chèo thuyền” còn Chính phủ tập
trung thực hiện nhiệm vụ “người cầm lái”,
định ra chính sách.
2.3.3. Đưa cơ chế cạnh tranh vào khu
vực công
Trong hành chính công truyền thống
cung ứng dịch vụ và hàng hóa công cộng
là việc của chính quyền, chủ trương mở
rộng sự can thiệp hành chính của Chính
phủ vào các hoạt động xã hội. Quản lý
công mới lại chủ trương mở rộng cơ chế
cạnh tranh của thị trường vào các hoạt
động quản lý của Chính phủ. Thông qua cơ
chế thị trường làm cho càng nhiều doanh
nghiệp tư nhân tham gia cung ứng hàng
hóa và dịch vụ công. Đề cao hiệu quả, chất
lượng, tiết kiệm giảm giá thành trong phục
vụ công. Lấy cạnh tranh để sinh tồn, lấy
cạnh tranh để yêu cầu chất lượng, lấy cạnh
tranh để tạo hiệu quả. Tính cạnh tranh sẽ
buộc Chính phủ phải phản ứng nhanh
chóng đối với nhu cầu biến đổi của khách
hàng. Hợp đồng thuê ngoài là cơ chế hoàn
toàn mới giúp cho Chính phủ thực nghiệm
các chính sách cung ứng công mới, thông
qua sự kiểm nghiệm của thị trường giúp
Chính phủ hình thành các chính sách có
tính hợp lý.
2.3.4. Coi trọng yêu cầu hiệu quả (kết
quả - chi phí)
Yêu cầu hiệu quản là điểm xuất phát
đồng thời cũng là mục tiêu hướng tới của
quản lý công mới. Để đạt được hiệu quả
“quản lý công mới” áp dụng 4 biện pháp
chủ yếu sau đây:
(1) Thực hiện rõ ràng việc khống chế
mục tiêu hiệu quả. Đối với hành chính
công truyền thống lấy việc tôn trọng tuyệt
đối pháp luật và các mệnh lệnh hành chính
là mục tiêu hàng đầu, coi nhẹ việc xác định
hiệu quả và phương pháp đánh giá hiệu quả
không thống nhất. Quản lý công mới chủ
trương giảm nhẹ sự nghiêm ngặt của các
quy chế hành chính, thực hiện nghiêm
minh việc khống chế mục tiêu hiệu quả, đã
xác định nhiệm vụ cụ thể cho từng cá nhân
và mục tiêu chung của tổ chức, đồng thời
căn cứ vào mục tiêu hiệu quả để tiến hành
đánh giá, đo lường mức độ hoàn thành mục
tiêu trong thực tế.
(2) Coi trọng kết quả. Hành chính công
truyền thống chú trọng yếu tố đầu vào của
quá trình quản lý mà không coi trọng kết
quả đầu ra. Chỉ coi trọng tới quá trình phân
bổ dự toán ngân sách cho các tổ chức theo
các hạng mục công việc được giao, đối với
kết quả việc tiêu phí và lợi ích thu được thì
không được quan tâm thích đáng. Quản lý
công mới dựa vào lý thuyết giá trị và
nguyên tắc trao đổi ngang giá của kinh tế
thị trường, coi trọng hiệu quả và chất lượng
trong quá trình cung ứng hàng hóa và dịch
vụ công, Chủ trương đối với sự biến đổi
của bên ngoài và các nhu cầu lợi ích không
thống nhất phải phản ứng chủ động, linh
hoạt, giảm giá thành tăng hiệu quả các hoạt
động phục vụ công.
MÔ HÌNH QUẢN LÝ CÔNG MỚI VÀ TÍNH KHẢ THI KHI ÁP DỤNG Ở VI T NAM
142
(3) Áp dụng các biện pháp quản lý
thành công của khu vực tư nhân vào quá
trình cung ứng hàng hóa và dịch vụ công
như: coi trọng quản lý nguồn nhân lực, nhấn
mạnh giá trị của tổ chức, phân tích hiệu
suất, quản lý chất lượng toàn diện, nhấn
mạnh giảm giá thành tăng chất lượng...
(4) Trong sử dụng các nguồn lực công
(chủ yếu là ngân sách, tài nguyên quốc gia
và nhân lực) phải tăng cường tính hiệu quả
và tiết kiệm. Theo Christopher Hoor từ
phương pháp của doanh nghiệp giảm giá
thành, tăng kỷ luật, đối kháng với nhu cầu
của công đoàn, giảm bớt quyền lợi của
nhân viên, đối với khu vực công yêu cầu
tiến hành kiểm tra lại toàn bộ việc sử dụng
nguồn lực công, giảm giá thành trong xử lý
công vụ. Mục tiêu của quá trình này là
giảm giá thành của các sản phẩm và dịch
vụ công song với một tiêu chuẩn chất
lượng cao hơn.
2.3.5. Cải cách chế độ công chức,
công vụ
Cải cách chế độ công chức, công vụ
được tiến hành theo một số nguyên tắc và
biện pháp sau:
(1) Thông qua áp dụng chế độ làm việc
tạm thời và chế độ hợp đồng công việc thay
thế cho quan chế truyền thống: “quan lại
không sai phạm thì không thể miễn chức”.
(2) Từ bỏ nguyên tắc “giá trị trung
lập” (value-neutrality) của công chức.
Quản lý công mới cho rằng tuyệt nhiên
không thể tác rời giữa hành chính chính trị
với hành chính quản lý. Nhấn mạnh giữa
công chức và quan chức chính trị có tác
động qua lại và thẩm thấu lẫn nhau. Chủ
trương một bộ phận công chức cấp cao nên
đảm nhiệm vai trò chính trị, để cho họ
được tham gia quá trình hoạch định chính
sách, đồng thời đảm đương các chức vụ
tương xứng, duy trì tính mẫn cảm chính trị
của họ. Quản lý công mới cho rằng lẩn
tránh kết cấu hành chính với chức năng
chính trị của công chức không thể làm cho
công chức đi tới tận cùng trách nhiệm và
bổn phận chấp hành thực thi chính sách.
Nhìn nhận vai trò chính trị của công chức
sẽ làm cho họ có tinh thần chủ động trong
thiết kế chính sách công, làm cho chính
sách càng phát huy được hiệu quả chức
năng xã hội của nó.
(3) Chuyên nghiệp hóa trong lĩnh vực
chính sách công. Theo christopher hoor
nhà quản lý cao cấp kiểm soát cơ quan một
cách tích cực, rõ ràng, tự quyết trong phạm
vi thẩm quyền. Do vậy cần phân biệt rõ
ràng tiền đề của việc ủy quyền với hành vi
thực hiện trách nhiệm, đề cao trách nhiệm
cá nhân.
(4) Rõ ràng trong mục tiêu và đo lường
hiệu quả hoạt động. Điều này yêu cầu thiết
lập mục tiêu đồng thời phải thiết định các
tiêu chuẩn để đánh giá kết quả thực hiện.
Mục tiêu phải được miêu tả rõ ràng, đề cao
hiệu quả và các biện pháp bảo đảm không
chệch mục tiêu. Những người ủng hộ quan
điểm này trong khi nghiên cứu đã chỉ ra:
khi giao phó nhiệm vụ (trách nhiệm) và khi
muốn nâng cao hiệu quả công việc thì cần
xác định rõ mục tiêu đặt ra.
(5) Cơ chế kiểm soát. Căn cứ vào hiệu
quả công việc mà phân bổ các nguồn lực.
Vì vậy, kiểm soát coi trọng vào kết quả
thực hiện mục tiêu mà không phải là quá
trình thực hiện.
(6) Trong nội bộ khu vực công, từ cơ
chế tập trung thành xu hướng phân hóa,
liên kết và hợp tác. Nó bao gồm việc chia
nhỏ những cơ quan lớn thành các đơn vị
nhỏ hơn, các đơn vị này có ngân sách độc
lập song có mối liên hệ qua lại trên cơ sở
hợp tác với nhau để cùng cung ứng các sản
phẩm và dịch vụ công. Xu hướng này làm
LÊ MINH THẢO - LÊ THỊ NGA
143
cho hoạt động của khu vực công sẽ trở nên
linh hoạt, hiệu quả, hình thành thị trường
cung ứng dịch vụ công.
2.3.6. Chính quyền phải chịu trách
nhiệm đối với các quyết định của mình
Học thuyết quản lý công mới cho rằng
chính quyền cần dựa vào việc thu phí để dự
trù ngân sách, thông qua việc tạo ra các
nguồn thu mới để bảo đảm nguồn ngân
sách chi cho tương lai, không chỉ có thế,
chính quyền cần thay đổi quan niệm về giá
trị, trên cơ sở chuyển đổi động cơ lợi
nhuận sang yêu cầu phục vụ, học cách chi
tiêu để tiết kiệm, đầu tư sao cho có hiệu
quả. Đồng thời, học thuyết quản lý mới còn
cho rằng, hành chính công truyền thống chỉ
chú trọng cung cấp dịch vụ chứ không để ý
đến công tác dự phòng, khi có hậu quả xảy
ra thì phải tiêu tốn rất nhiều tiền của, công
sức để giải quyết. Theo quản lý công mới:
Chính phủ phải chú trọng công tác dự
phòng, tức là giải quyết vấn đề chứ không
phải chỉ là cung cấp dịch vụ. Vì vậy, chính
quyền cần đầu tư nhiều hơn nữa vào công
tác dự phòng. Chính quyền phải làm được
2 việc chính sau:
1. Dùng nguồn kinh phí ít để dự
phòng, chứ không phải là tiêu nhiều tiền để
chữa trị (phòng bệnh hơn chữa bệnh).
2. Khi đưa ra quyết định quan trọng
cần tính đến hệ quả lâu dài và phải chịu
trách nhiệm trước dân về các quyết định đó.
2.4. Bàn về tính khả thi khi áp dụng
mô hình quản lý công mới ở Việt Nam
Trong cải cách hành chính việc áp
dụng các kinh nghiệm và bài học thực tế từ
nước này sang nước khác là một việc làm
được nhiều quốc gia áp dụng. Quản lý
công mới ra đời vào những năm 80 của thế
kỷ trước tại Anh quốc và Hoa kỳ đã nhanh
chóng được nhiều quốc gia áp dụng thành
công như New Zealand, Canada, Australia,
Nhật Bản... đã tạo ra sự thay đổi căn bản về
hiệu quả, chất lượng phục vụ của nền hành
chính trong cung ứng các hoàng hóa, dịch
vụ công tại các quốc gia đó. Tuy nhiên thế
giới đã ghi nhận không ít trường hợp các
quốc gia đã thất bại khi áp dụng “mô hình
quản lý công mới” như Mongolia, Pakistan,
Ghana, Kenya, Malawi, Tanziania Điều
này đã cho thấy việc áp dụng một mô hình
quản lý từ nước này sang nước khác không
phải là việc dễ dàng đơn giản. Đó không
chỉ là việc sao chép mô hình mà còn cần
phải xem xét thật thấu đáo các yếu tố đặc
thù của mỗi quốc gia. Vậy “mô hình quản
lý công mới” có khả thi khi áp dụng ở Việt
Nam? Để trả lời câu hỏi này cần phải xem
xét hai vấn đề sau: (i) Những điều kiện để
áp dụng “mô hình quản lý công mới” và
(ii) “mô hình quản lý công mới” có khắc
phục được những hạn chế, yếu kém của
nền hành chính nước hay không?
(i) Những điều kiện để áp dụng “mô
hình quản lý công mới”
Phân tích từ bối cảnh ra đời, các lý
luận tư tưởng tiêu biểu và nội dung quản lý
công mới chúng ta thấy có một số đặc điểm
về điều kiện khi áp dụng:
Thứ nhất, mô hình quản lý công mới
được áp dụng ở các quốc gia tư bản pháp
triển, trên một nền quản trị hiện đại, thể
chế, tổ chức bộ máy khoa học hoàn thiện,
năng lực của bộ máy hành chính và cơ sở
vật chất để cung cấp hàng hóa và dịch vụ
công đã rất phát triển. Đây là tiền đề để
thực hiện được nội dung lấy khách hàng
(nhân dân) làm hướng dẫn chỉ đạo hành
động của Chính phủ, xây dựng nền hành
chính phục vụ.
Thứ hai, quản lý công mới áp dụng cơ
chế thị trường cạnh tranh trong cung ứng
hàng hóa và dịch vụ công. Cơ sở để các chủ
thể cung ứng cạnh tranh với nhau là “giá cả
MÔ HÌNH QUẢN LÝ CÔNG MỚI VÀ TÍNH KHẢ THI KHI ÁP DỤNG Ở VI T NAM
144
thấp” và “chất lượng cao”, người dân khi
thụ hưởng dịch vụ, hàng hóa phải “trả phí”
theo nguyên tắc “trao đổi ngang giá”.
Thứ ba, quản lý công mới tăng quyền
lực giám sát của người dân đối với các hoạt
động của chính quyền. Như vậy, phải có
một hệ thống pháp luật giám sát quyền lực
công có hiệu lực buộc chính quyền phải
công khai, minh bạch quá trình hoạt động
và thực hiện chế độ “giải trình và chịu
trách nhiệm cá nhân khi ra các quyết định”
như: Luật trưng cầu ý dân, luật biểu tình,
luật bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với Chính
phủ, luật về quyền tiếp cận thông tin
Đối chiếu với hoàn cảnh cụ thể của
Việt Nam trong hiện tại chúng ta thấy ba
điều kiện trên chưa hoàn thiện, đang trong
quá trình hình thành. Vì Vậy, nếu cải cách
hành chính của Việt Nam hướng tới “mô
hình quản lý công mới” thì điều kiện tiên
quyết là phải cải cách thể chế và hoàn thiện
cơ sở vật chất của nền hành chính để tạo ra
các tiền đề trên.
(ii) “Mô hình quản lý công mới” có
khắc phục được những hạn chế, yếu kém
của nền hành chính nước ta hay không?
Xét về cấu trúc nền hành chính nhà
nước được xác định bao gồm bốn yếu tố:
(1) Hệ thống thể chế hành chính (là hệ
thống văn bản qui phạm pháp luật quy định
về tổ chức, hoạt động của hành chính nhà
nước và tài phán hành chính); (2) Bộ máy
quản lý hành chính nhà nước từ trung ương
tới địa phương; (3) Đội ngũ cán bộ, công
chức hành chính; (4) Nguồn lực tài chính
và cơ sở vật chất kỹ thuật bảo đảm yêu cầu
thực thi công vụ của các cơ quan và công
chức hành chính.
Đánh giá về những yếu kém của nền
hành chính Việt Nam Nghị quyết Hội nghị
lần thứ năm của Ban chấp hành trung ương
khóa X “về đẩy mạnh cải cách hành chính,
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ
máy nhà nước” đã chỉ rõ: “nền hành chính
nhà nước còn nhiều hạn chế, yếu kém. Hệ
thống thể chế, pháp luật, nhất là thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa vẫn còn nhiều bất cập, vướng mắc.
Chức năng, nhiệm vụ của một số cơ quan
trong hệ thống hành chính nhà nước chưa
đủ rõ, còn trùng lặp và chưa bao quát hết
các lĩnh vực quản lý nhà nước; cơ cấu tổ
chức bộ máy còn cồng kềnh, chưa phù hợp.
Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chưa
đáp ứng kịp yêu cầu; tình trạng quan liêu,
lãng phí còn nghiêm trọng. Thể chế, luật
pháp về quản lý tài chính công tuy có nhiều
đổi mới, nhưng còn bất cập. Thủ tục hành
chính còn nhiều vướng mắc, gây phiền hà
cho tổ chức và công dân; kỷ luật, kỷ cương
cán bộ, công chức chưa nghiêm; hiệu lực,
hiệu quả của quản lý nhà nước còn nhiều
yếu kém.”. Như vậy, những yếu kém trên
mang tính đặc thù của Việt Nam, “vượt
quá khả năng giải quyết của mô hình
quản lý công mới”.
Tuy nhiên, sáu nội dung của quản lý
công mới nêu ra như đã phân tích ở trên
“có nhiều điểm tương đồng phù hợp với
bản chất của nền hành chính và những
vấn đề mà nền hành chính Việt Nam
đang phải giải quyết” như: xây dựng nền
hành chính phụ vụ để phù hợp với bản chất
nhà nước của dân, do dân, và vì dân giống
với nội dung “Lấy khách hàng (nhân dân)
làm hướng dẫn chỉ đạo hành động của
Chính phủ” của quản lý công mới; xác định
lại vai trò Chính phủ, cải cách chế độ công
chức, công vụ đây là nhữngnnội dung mà
cải cách hành chính nhà nước ở Việt Nam
đang áp dụng; cổ phần hóa doanh nghiệp
nhà nước, xã hội hóa dịch vụ công ích đây
chính là nội dung đưa cơ chế cạnh tranh
vào khu vực công của mô hình quản lý
LÊ MINH THẢO - LÊ THỊ NGA
145
công mới; tình trạng hiệu quả thấp trong
đầu tư, chi tiêu công chúng ta cần áp dụng
nội dung coi trọng yêu cầu hiệu quả (kết
quả - chi phí) của mô hình quản lý công
mới và áp dụng nội dung chính quyền phải
chịu trách nhiệm đối với các quyết định
của mình của mô hình quản lý công mới.
3. Kết luận
Tóm lại, khi nghiên cứu mô hình quản
lý công mới chúng ta thấy rằng đây là một
mô hình quản lý hiện đại, có rất nhiều ưu
điểm, là một gợi ý tốt cho các quốc gia
chuyển đổi mô hình quản lý như Việt Nam
tham khảo. Tuy nhiên, từ hai điểm phân
tích về điều kiện để áp dụng mô hình và
khả năng giải quyết những hạn chế, yếu
kém của nền hành chính Việt Nam của mô
hình quản lý công mới nếu được áp dụng,
chúng tôi cho rằng “mô hình quản lý công
mới” không phải là “chìa khóa vạn năng”
giải quyết được hết những vấn đề bất cập
của nền hành chính Việt Nam. Cải cách
hành chính ở Việt Nam có thể “vận dụng
những yếu tố hợp lý của mô hình quản
lý công mới” song song với việc giải quyết
những hạn chế mang tính đặc thù của hành
chính Việt Nam, tạo ra “các tiền đề điều
kiện” trước khi áp dụng toàn bộ “mô hình
quản lý công mới”.
Chú thích:
1
Trong giai đoạn cải cách này, Vương quốc Anh
là quốc gia đi tiên phong. Năm 1980, Chính phủ
của thủ tướng Margaret Hilda Thatcher tiến hành
thu nhỏ quy mô của Chính phủ và tiến hành “đổi
mới quản lý tài chính” là trung tâm của cải cách.
New Zealand vào năm 1988 đã lấy cải cách “dự
luật Chính phủ” là bản mẫu của cải cách hành
chính. Hoa kỳ vào năm 1993 thành lập “Uỷ ban
đánh giá hiệu quả quốc gia” để chỉ đạo cải cách
Chính phủ... Đặc trưng của những cải cách này là
phát huy cơ chế thị trường vào lĩnh vực phục vụ
công, tích cực áp dụng phương pháp và kỹ thuật
quản lý của tư nhân, đề cao năng lực quản lý của
Chính phủ và năng lực phục vụ công cộng.
Tài liệu tham khảo
1. Barzelay, K. 1992. Breaking though
Bureaucracy. Universisty of California Press,
Berkeley.
2. Osborne, D. and T. Geabler (1992).
Reinventing Government. Reading, MA:
Addison-Wesley.
3. Hood, C. (1995), New public management: A
new global paradigm, Public Policy and
Administration.
4.
ed/reform/Inversions%20without%20End.pdf.
5.
6. Nghị quyết Số 17-NQ/TW ngày 1 tháng 8
năm 2007, Hội nghị lần thứ năm Ban chấp
hành Trung ương khóa X.
Ngày nhận bài: 10/8/2017 Biên tập xong: 15/9/2017 Duyệt đăng: 20/9/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mo_hinh_quan_ly_cong_moi_va_tinh_kha_thi_khi_ap_dung_o_viet.pdf