Vậy giả sử trong trường hợp, A cho B
vay 500 triệu; tuy nhiên, hết thời vay, A đã
bị tai nạn giao thông và chết. Nếu dựa vào
các căn cứ chấm dứt nghĩa vụ dân sự đã
được liệt kê ở trên thì sự kiện A chết không
dẫn đến việc loại trừ nghĩa vụ của B. Theo
tinh thần này, nếu sau khi kết thúc vụ án
về yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trong hợp
đồng vay, Tòa án đã tuyên bị đơn phải trả
tiền cho nguyên đơn mà sau đó nguyên
đơn (người được thi hành án) chết thì bị
đơn (người phải thi hành án) cũng không
được loại trừ nghĩa vụ của mình.
Hai là, xét về mặt logic với Điều 622
BLDS năm 2015, vẫn với ví dụ trên, khi
Tòa án tuyên bị đơn phải trả tiền vay cho
nguyên đơn nghĩa là đã có một cơ sở xác
định rõ nguyên đơn là chủ sở hữu của
khoản tiền vay mà trước đó là đối tượng
của tranh chấp. Khi nguyên đơn (người
được thi hành án) chết thì khoản tiền vay
vừa đòi được sẽ trở thành di sản thừa kế
của nguyên đơn. Trong trường hợp này,
nếu xác định nguyên đơn (người được
thi hành án) không có người thừa kế hoặc
người thừa kế từ chối hưởng di sản; ngoài
ra nguyên đơn không còn nghĩa vụ nào
với các chủ thể khác thì tài sản phải thuộc
về Nhà nước. Lúc này, tài sản mà nguyên
đơn (người được thi hành án) đã đòi được
theo phán quyết của Tòa phải thuộc về
Nhà nước.
Vậy, rõ ràng quy định tại Điều
50 Luật thi hành án dân sự năm 2014
chưa phù hợp với tinh thần của BLDS
2015. Thiết nghĩ, trong lần sửa đổi tiếp
theo, Luật thi hành án cần phải sửa đổi
theo hướng trường hợp người phải thi
hành án chết mà quyền lợi của họ theo
phán quyết của Tòa án có thể chuyển
giao nhưng không có người thừa kế thì
không phải là căn cứ để đình chỉ thi
hành án./.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 404 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mối liên hệ giữa pháp luật tố tụng dân sự và pháp luật dân sự về tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
51Số 02 - 2018 Khoa học Kiểm sát
MỐI LIÊN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ
VÀ PHÁP LUẬT DÂN SỰ VỀ TẠM ĐÌNH CHỈ GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ
VŨ HOÀNG ANH *
Pháp luật hình thức và pháp luật nội dung luôn có mối liên hệ mật
thiết. Việc đảm bảo sự phù hợp giữa các quy định của Bộ luật tố tụng dân
sự (BLTTDS) và Bộ luật dân sự (BLDS) là một yêu cầu cần thiết trong hoạt
động xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Bài viết này tập trung làm rõ sự
tương thích và không tương thích giữa pháp luật dân sự và pháp luật tố
tụng dân sự về vấn đề tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.
Từ khóa: Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, tố tụng dân sự.
There has always been a close link between the procedural law and
the substantive law. The assurance of compatibility between provisions
of the Civil Procedure Code and the Civil Code is a necessary requirement
for the construction and completion of legislation. This article focuses on
clarifying the compatibility and incompatibility between civil procedure
law and civil law regarding the temporary suspension of civil case
settlement.
Keywords: Suspension of civil cases, Civil procedure law.
Trong hoạt động xây dựng pháp luật, những nhóm quan hệ có cùng tính chất sẽ được điều chỉnh chung
bởi một ngành luật. Danh từ “dân sự”
thường được hiểu như một bộ phận của
lĩnh vực luật tư, bản chất là sự bình đẳng
trong việc cam kết, thỏa thuận về quyền
và nghĩa vụ của các bên. Theo nhà nghiên
cứu Vũ Văn Mẫu: “Dân luật (luật dân sự)
là những nguyên tắc cai quản sự giao thiệp
giữa tư nhân”(1) – ý chỉ các quy phạm pháp
luật điều chỉnh quan hệ mang tính chất
“riêng tư” của các chủ thể. Theo đó, pháp
luật dân sự được hiểu là hệ thống những
quy tắc xử sự, những chuẩn mực pháp lý
do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận
để điều chỉnh cách ứng xử của cá nhân,
pháp nhân bằng cách quy định các quyền,
nghĩa vụ về nhân thân và tài sản của cá
1 Vũ Văn Mẫu (1961), Dân luật khái luận, Bộ Quốc gia
giáo dục xuất bản năm, tr. 161.
nhân, pháp nhân được hình thành trên cơ
sở bình đẳng, tự nguyện và tự do ý chí.
Các quyền, nghĩa vụ này được quy định
trong các văn bản pháp luật như: Bộ luật
dân sự, Bộ luật Lao động, Luật Hôn nhân
gia đình, Luật Thương mại... Trong đó,
“Luật dân sự được coi là trung tâm của luật
nội dung”(2).
Bên cạnh đó, theo lý luận chung về
nhà nước và pháp luật, khi xây dựng một
hệ thống pháp luật, song song với việc
ghi nhận quyền và nghĩa vụ của các chủ
thể, Nhà nước cần phải xây dựng các cơ
chế để đảm bảo thực hiện các quyền và
* Thạc sĩ, Khoa pháp luật dân sự, Trường Đại học
Luật Hà Nội
2 John Henry Merryman: Truyền thống luật dân sự:
Giới thiệu về hệ thống luật Tây Âu và Mỹ - La tinh, kỷ
yếu về Hội thảo về TTDS, Hà Nôi, 1998, tr.1 trích trong
Đề tài khoa học cấp trường “Sự tương thích và mâu
thuẫn giữa pháp luật dân sự và pháp luật tố tụng dân
sự” – Trường Đại học Luật Hà Nội, 2017.
MỐI LIÊN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ...
52 Khoa học Kiểm sát Số 02 - 2018
nghĩa vụ đó. Nói như giáo sư Nguyễn
Huy Đẩu: “Một quyền lợi được luật pháp
công nhận nhiều khi không đủ bảo đảm cho
người có chủ quyền hưởng dụng: quyền lợi có
thể bị phủ nhận, bị xâm phạm”, vì vậy “chủ
thể quyền lợi bị tổn thương có quyền buộc tha
– nhân phải tôn trọng quyền lợi bị đe dọa bằng
những phương tiện hợp pháp”, phương tiện
này “danh xưng là Luật tố tụng”(1). Với “sứ
mệnh” bảo vệ các lợi ích dân sự hợp pháp
trong pháp luật dân sự phải được hiện
thực hóa – pháp luật tố tụng dân sự đã
ra đời. Theo đó, pháp luật tố tụng dân sự
được hiểu là hệ thống những quy tắc xử
sự do Nhà nước ban hành để điều chỉnh
các quan hệ phát sinh trong quá trình giải
quyết các tranh chấp, yêu cầu dân sự tại
Tòa án. Các quy tắc xử sự này được quy
định trong BLTTDS và các văn bản hướng
dẫn thi hành.
Từ kiến thức lý luận chung về pháp
luật dân sự và pháp luật tố tụng dân sự,
bài viết này sẽ làm rõ mối liên hệ giữa
pháp luật dân sự và pháp luật tố tụng dân
sự về vấn đề tạm đình chỉ giải quyết vụ án
dân sự.
1. Sự tương thích giữa pháp luật tố
tụng dân sự với pháp luật dân sự về tạm
đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
Thứ nhất, quy định về tạm đình chỉ giải
quyết vụ án dân sự đã đảm bảo cho người thừa
kế được thụ hưởng những quyền và nghĩa vụ
do người chết để lại là phù hợp với các quy
định của BLDS năm 2015.
Do đối tượng điều chỉnh của luật dân
1 Nguyễn Huy Đẩu (1962), Luật Dân sự - Tố tụng Việt
Nam, Xuất bản dưới sự bảo trợ của Bộ Tư pháp, Sài
Gòn, tr.3.
sự là các quan hệ nhân thân và tài sản
nên các quy phạm pháp luật dân sự đều
hướng đến việc quy định các quyền, nghĩa
vụ về nhân thân và tài sản. Theo nguyên
lý của luật dân sự, nếu một người chết mà
các quyền, nghĩa vụ của họ có thể được
chuyển giao (thường là quyền, nghĩa vụ
về tài sản) thì người thừa kế của người
này có quyền được thừa kế những quyền,
nghĩa vụ đó. Ngược lại, nếu quyền, nghĩa
vụ của người chết là quyền, nghĩa vụ
không thể chuyển giao (thường là quyền,
nghĩa vụ về nhân thân) thì người thừa kế
không có quyền thừa kế những quyền,
nghĩa vụ đó(2). Với nguyên lý này, đòi hỏi
pháp luật tố tụng dân sự khi xây dựng các
quy định về trường hợp đương sự đang
tham gia tố tụng mà chết phải bảo đảm
cho người thừa kế được thụ hưởng quyền,
nghĩa vụ dân sự do đương sự để lại.
Thực tế, nếu đương sự chết mà
quyền, nghĩa vụ của họ có thể chuyển
giao thì người thừa kế sẽ được kế thừa
quyền, nghĩa vụ tố tụng của đương sự để
tham gia giải quyết vụ án(3). Tuy nhiên,
có những trường hợp khi đương sự chết,
quyền, nghĩa vụ của họ có thể chuyển
2 Xem Bùi Đăng Hiếu, Khái niệm và phân loại quyền
nhân thân , Tạp chí Luật học số 7/2009, tr. 39 và
Nguyễn Ngọc Điện, Giáo trình Luật dân sự Việt Nam,
Trường Đại học Cần Thơ, xuất bản tháng 11/2001,
tr.76.
3 Khoản 1 Điều 74 BLTTDS năm 2015. Tuy nhiên, hiện
nay theo quy định của Điều 74, khi đương sự chết,
chỉ có những quyền, nghĩa vụ về tài sản của đương
sự đã chết có thể để lại thừa kế (có thể chuyển giao)
thì người thừa kế mới có quyền kế thừa quyền, nghĩa
vụ tố tụng để tham gia tố tụng. Thực chất, quy định
này đã hạn chế quyền được kế thừa quyền, nghĩa vụ
tố tụng của người thừa kế trong một số trường hợp.
Bởi, trên thực tế có một số quyền, nghĩa vụ về nhân
thân của đương sự đã chết vẫn có thể được thừa kế,
đơn cử như quyền công bố tác phẩm được quy định
trong Luật Sở hữu trí tuệ.
VŨ HOÀNG ANH
53Số 02 - 2018 Khoa học Kiểm sát
giao nhưng lại chưa có người thừa kế để
kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng đó. Chưa
có người thừa kế được hiểu là chưa xác
định được người thừa kế hoặc đã xác định
được người thừa kế nhưng vì một lý do
nào đó mà người thừa kế chưa thể tham
gia tố tụng, ví dụ: người thừa kế bị ốm
nặng chưa thể hiện được ý chí(1). Khi
đó, để đảm bảo quyền tham gia tố tụng
của người thừa kế, Tòa án phải tạm đình
chỉ giải quyết vụ án theo căn cứ tại điểm
a khoản 1 Điều 214 BLTTDS năm 2015.
Cụ thể, điểm a khoản 1 Điều 214 BLTTDS
năm 2015 quy định Tòa án phải tạm đình
chỉ giải quyết vụ án khi: đương sự là cá
nhân đang tham gia tố tụng tại Tòa án cấp
sơ thẩm mà chết nhưng chưa có cá nhân
kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của họ(2).
Có thể cụ thể hóa lập luận trên bằng
ví dụ sau: A cho B vay 100 triệu. A có một
người con duy nhất là anh C. Do hết thời
hạn vay B không trả tiền nên A đã khởi
kiện yêu cầu B phải thực hiện nghĩa vụ
theo hợp đồng vay tài sản. Tòa án đã tiến
hành thụ lý vụ án. Trong quá trình giải
quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm, A
chết. Theo quy định của luật dân sự, khi A
chết, C được thừa kế quyền đòi nợ của A.
Tuy nhiên, vì trước khi A chết, giữa A và B
đang tồn tại một tranh chấp đã được Tòa
án thụ lý giải quyết nên rõ ràng khi C được
thừa kế quyền đòi nợ của A thì C là người
có quyền lợi hợp pháp liên quan trực tiếp
từ việc giải quyết vụ án, do đó Tòa án cần
cho C tham gia tố tụng. Để C có tư cách
tham gia tố tụng, pháp luật tố tụng dân sự
1 Duy Kiên – Một số vấn đề về tạm đình chỉ giải quyết
vụ án theo quy định của BLTTDS – Tạp chí Tòa án
Nhân dân số 7, tr.19.
2 Điểm a khoản 1 Điều 214 BLTTDS năm 2015.
đãquy định C được kế thừa quyền, nghĩa
vụ theo luật định của A để tiếp tục tham
gia vụ án đòi nợ tại Tòa án. Song, trên thực
tế, không phải lúc nào Tòa án cũng xác
định được ngay C là người thừa kế của
A. Khi đó, Tòa án phải ra quyết định tạm
đình chỉ giải quyết vụ án dân sự theo quy
định tại điểm a khoản 1 Điều 214 BLTTDS
năm 2015. Mục đích của quyết định này là
nhằm làm tạm ngừng hoạt động tố tụng,
để trong thời gian đó, Tòa án có thể tìm
kiếm người thừa kế của A.
Từ những phân tích ở trên có thể
thấy, quy định tại điểm a khoản 1 Điều
214 BLTTDS năm 2015 hoàn toàn tương
thích với quy định của BLDS năm 2015.
Cụ thể, điểm a khoản 1 Điều 214 đã bảo
đảm cho người thừa kế được thụ hưởng
quyền (hoặc nghĩa vụ) do người chết để
lại theo đúng nguyên lý về thừa kế trong
luật dân sự. Điều đó được thấy rõ thông
qua việc pháp luật quy định Tòa án không
thể ngừng giải quyết vụ án (đình chỉ giải
quyết vụ án) mà chỉ có thể tạm ngừng giải
quyết vụ án (tạm đình chỉ giải quyết vụ
án) khi trong quá trình tố tụng đương sự
chết nhưng chưa xác định được người
thừa kế của đương sự đối với những vụ
án có đối tượng tranh chấp là quyền và
nghĩa vụ có thể chuyển giao.
Mặt khác, xét về mối liên hệ có thể
nhận thấy, cơ sở để xây dựng quy định
đình chỉ hoặc tạm đình chỉ khi đương sự
chết theo quy định của pháp luật tố tụng
dân sự phải dựa vào việc xác định đặc tính
có thể chuyển giao hay không thể chuyển
giao của các quyền, nghĩa vụ dân sự theo
quy định của pháp luật dân sự. Bên cạnh
đó, việc xác định một cá nhân là người
MỐI LIÊN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ...
54 Khoa học Kiểm sát Số 02 - 2018
thừa kế của đương sự đã chết theo quy
định của pháp luật dân sự chính là cơ sở,
tiền đề làm phát sinh quyền tố tụng của
người này trong tố tụng dân sự. Điều này
cho phép người thừa kế có thể kế thừa
quyền và nghĩa vụ của đương sự đã chết
và tiếp tục tham gia giải quyết tranh chấp
tại Tòa án. Như vậy, ở góc độ gián tiếp, sự
tương thích giữa pháp luật tố tụng dân sự
và pháp luật dân sự còn thể hiện thông qua
bản chất của các quyền và nghĩa vụ dân sự.
Dựa trên tinh thần Điều 214 BLTTDS
năm 2015, trong giai đoạn xét xử phúc
thẩm, pháp luật tố tụng dân sự cũng có
những quy định để bảo đảm sự phù hợp
với quy định của pháp luật dân sự. Cụ
thể, với trường hợp đương sự chết trong
quá trình tố tụng tại Tòa án cấp phúc thẩm
(mà quyền, nghĩa vụ của họ có thể chuyển
giao) nhưng chưa có người thừa kế thì
Tòa án cấp phúc thẩm cũng phải tạm đình
chỉ xét xử phúc thẩm để tìm kiếm người
thừa kế(1). Còn trong trường hợp, đương
sự đã chết ở sơ thẩm (Tòa án sơ thẩm
không biết để tạm đình chỉ giải quyết vụ
án), lên đến phúc thẩm Tòa án mới phát
hiện ra thì Tòa án cấp phúc thẩm phải hủy
bản án sơ thẩm để yêu cầu giải quyết lại(2).
Lúc này, khi giải quyết lại vụ án, Tòa án
cấp sơ thẩm có nhiệm vụ tìm kiếm người
thừa kế của đương sự để đưa vào tham
gia tố tụng. Điều này hướng tới việc bảo
vệ quyền lợi hợp pháp của người thừa kế
theo đúng tinh thần của luật dân sự.
Thứ hai, quy định về tạm đình chỉ giải
quyết vụ án dân sự đã đảm bảo cho các cơ
quan, tổ chức theo quy định của pháp luật
1 Điều 288 BLTTDS năm 2015.
2 Điều 310 BLTTDS năm 2015.
được thụ hưởng những quyền và nghĩa vụ
của đương sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân hợp
nhất, sáp nhập, chia, tách, giải thể là phù hợp
với các quy định của BLDS năm 2015 và Luật
Doanh nghiệp năm 2014.
BLTTDS năm 2015 quy định Tòa án
phải đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
trong trường hợp: “Đương sự là cơ quan,
tổ chức đã hợp nhất, sáp nhập, chia, tách,
giải thể mà chưa có cơ quan, tổ chức kế
thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của cơ
quan, tổ chức, cá nhân đó”. Trường hợp
cơ quan, tổ chức đã sáp nhập, chia, tách
mà chưa có cơ quan tổ chức kế thừa
quyền và nghĩa vụ tố tụng của cơ quan
đó là trường hợp đã có quyết định của
cơ quan, tổ chức có thẩm quyền về việc
sáp nhập, chia, tách cơ quan, tổ chức đó,
nhưng cơ quan, tổ chức mới chưa được
thành lập hoặc đã được thành lập những
chưa đủ điều kiện để hoạt động theo quy
định của pháp luật đối với loại hình cơ
quan, tổ chức đó. Trường hợp cơ quan, tổ
chức đã giải thể mà chưa có cơ quan, tổ
chức kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng
của cơ quan, tổ chức đó là trường hợp
chưa xác định được cơ quan, tổ chức kế
thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng nên Tòa
án phải tạm đình chỉ giải quyết vụ án(3).
Trong trường hợp này, để bảo đảm quyền
và lợi ích hợp pháp của một số cơ quan,
tổ chức theo quy định của pháp luật, Tòa
án phải tạm đình chỉ giải quyết vụ án để
chờ các cơ quan, tổ chức này đủ tư cách
được kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng
của cơ quan, tổ chức đã sáp nhập, chia,
3 Duy Kiên – Một số vấn đề về tạm đình chỉ giải quyết
vụ án theo quy định của BLTTDS – Tạp chí Tòa án
Nhân dân số 7, tr.19.
VŨ HOÀNG ANH
55Số 02 - 2018 Khoa học Kiểm sát
tách... và tiếp tục tham gia giải quyết vụ
án dân sự.
Mặt khác, khi hết căn cứ tạm đình
chỉ, để Tòa án xác định ai là người thừa
kế của cơ quan, tổ chức đã sáp nhập, chia,
tách, hợp nhất, giải thể cần phải dựa vào
các quy định của Luật Doanh nghiệp năm
2014 và Điều 74 BLTTDS năm 2015(1). Đây
chính là quy định thể hiện tính tương
thích giữa pháp luật dân sự và pháp luật
tố tụng dân sự.
Thứ ba, quy định về tạm đình chỉ giải
quyết vụ án dân sự tương thích với quy định
của pháp luật dân sự về yêu cầu thực hiện thủ
tục tiền tố tụng trước khi khởi kiện ra tòa.
Sau khi nhận đơn khởi kiện và các
chứng cứ, tài liệu kèm theo của người khởi
kiện, Tóa án sẽ tiến hành thụ lý vụ án dân
sự nếu đáp ứng các điều kiện thụ lý. Một
trong những điều kiện thụ lý là các chủ
thể phải thực hiện các thủ tục tiền tố tụng
mà pháp luật nội dung có quy định(2). Nếu
trong luật nội dung có quy định quan hệ
tranh chấp cần phải tiến hành thủ tục
hòa giải trước khi khởi kiện đến tòa mà
khi khởi kiện các chủ thể chưa thực hiện
hoặc không thực hiện đầy đủ quy định đó
thì Tòa án trả lại đơn khởi kiện cho người
khởi kiện(3).
1 TS. Bùi Thị Huyền, Quy định về tạm đình chỉ giải
quyết vụ án dân sự trong BLTTDS năm 2015 cần được
hướng dẫn cụ thể hơn, Tạp chí Dân chủ & pháp luật, số
5/2016, tr.37-42.
2 Một số tranh chấp cần phải thực hiện thủ tục hòa
giải tiền tố tụng như: Tranh chấp ai là người có quyền
sử dụng đất theo Điều 202 Luật Đất đai năm 2013,
một số tranh chấp lao động cá nhân theo Điều 201 Bộ
luật Lao động năm 2012..
3 Điểm b khoản 1 Điều 192 BLTTDS 2015 và khoản 2 Điều
3 Nghị quyết 04/2017 ngày 5/5/2017 “Hướng dẫn một số
quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 BLTTDS 2015 về
trả đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án”.
Tuy nhiên, với trường hợp sau khi
Tòa án thụ lý vụ án mới phát hiện sự việc
mà đương sự yêu cầu phải do cơ quan, tổ
chức khác có thẩm quyền giải quyết trước,
nhưng đương sự chưa yêu cầu hoặc đã
yêu cầu mà chưa có kết quả giải quyết, thì
Tòa án sẽ ra quyết định tạm đình chỉ giải
quyết vụ án dân sự và hướng dẫn đương
sự gửi đơn yêu cầu đến cơ quan, tổ chức
có thẩm quyền giải quyết đó. Sau khi có
kết quả giải quyết, đương sự không đồng
ý hoặc không được giải quyết trong thời
hạn, thì Tòa án lại tiếp tục tiến hành giải
quyết vụ án(4). Cụ thể, điểm d khoản 1
Điều 214 BLTTDS năm 2015 quy định Tòa
án phải tạm đình chỉ giải quyết vụ án khi:
“Cần đợi kết quả giải quyết vụ án khác có liên
quan hoặc sự việc được pháp luật quy định là
phải do cơ quan, tổ chức khác giải quyết trước
mới giải quyết được vụ án”.
Có thể thấy, không phải đương nhiên
mà pháp luật nội dung lại quy định một
số tranh chấp trước khi khởi kiện ra Tòa
án phải thực hiện thủ tục hòa giải tại cơ
sở. Thực tế, tùy từng tính chất, đặc trưng
của các quan hệ dân sự mà nhà làm luật có
quy định phù hợp để bảo đảm quyền và
lợi ích của các bên khi xảy ra tranh chấp.
Tiếp nối tinh thần đó, ngay cả khi Tòa án
đã thụ lý vụ án mà phát hiện sự việc chưa
thực hiện đúng những thủ tục mà luật
nội dung có quy định thì Tòa án phải tạm
đình chỉ giải quyết vụ án để chờ kết giải
quyết của các cơ quan khác. Kết quả giải
quyết của các cơ quan này chính là cơ sở
để Tòa án xem xét có tiếp tục giải quyết vụ
4 TS. Bùi Thị Huyền – Quy định về tạm đình chỉ giải
quyết vụ án dân sự trong BLTTDS năm 2015 cần được
hướng dẫn cụ thể hơn – Tạp chí Dân chủ & pháp luật,
số 5/2016, tr.37-42.
MỐI LIÊN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ...
56 Khoa học Kiểm sát Số 02 - 2018
án dân sự hay không? Như vậy, quy định
tại điểm d khoản 1 Điều 214 là hoàn toàn
tương thích với các quy định và tinh thần
của pháp luật dân sự, hướng đến việc bảo
về quyền vào lợi ích hợp pháp của các
đương sự, bảo đảm trật tự công, sự phối
hợp giữa các cơ quan, tổ chức trong việc
giải quyết tranh chấp(1).
Thứ tư, quy định tạm đình chỉ giải quyết
vụ án đảm bảo tính tương thích với quy định
của Luật phá sản năm 2014.
Điều 41 Luật phá sản năm 2014 quy
định, trong thời hạn 05 ngày làm việc kể
từ ngày Tòa án nhân dân thụ lý vụ việc
phá sản, Tòa án phải tạm đình chỉ giải
quyết vụ việc dân sự có liên quan đến
nghĩa vụ tài sản mà doanh nghiệp, hợp
tác xã là một bên đương sự(2). Để bảo đảm
đúng tinh thần của Điều 41 Luật phá sản
năm 2014, tại điểm g khoản 1 Điều 214,
BLTTDS năm 2015 đã bổ sung nội dung
này là một trong những căn cứ tạm đình
chỉ giải quyết vụ án dân sự.
2. Sự không tương thích và mâu
thuẫn của pháp luật tố tụng dân sự với
pháp luật dân sự liên quan đến tạm đình
chỉ giải quyết vụ án dân sự và kiến nghị
hoàn thiện
Bên cạnh những điểm tích cực đã nói
ở trên, pháp luật tố tụng dân sự còn bộc lộ
một số điểm bất hợp lý so với quy định của
pháp luật dân sự. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, BLTTDS năm 2015 chưa bổ
1 Trần Anh Tuấn (chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật
Tố tụng dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 2015, Nxb Tư pháp 2017, tr. 516.
2 Bùi Thị Huyền (chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật
Tố tụng Dân sự năm 2015, Nxb Lao động năm 2016,
tr. 290.
sung trường hợp chưa xác định được người
đại diện theo pháp luật hoặc chấm dứt đại diện
theo pháp luật của người có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi mà chưa có người
thay thế là căn cứ tạm đình chỉ.
Bên cạnh người chưa thành niên và
người bị mất năng lực hành vi dân sự,
BLDS năm 2015 đã bổ sung thêm chủ thể
là người có khó khăn trong nhận thức và
làm chủ hành vi là một chủ thể cần có
người đại diện thay mặt xác lập các quan
hệ dân sự trong một số trường hợp. Điều
23 BLDS năm 2015 đưa ra đặc điểm của
người có khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi là người đã thành niên do
tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà
không đủ khả năng nhận thức, làm chủ
hành vi nhưng chưa đến mức mất năng
lực hành vi dân sự. Theo đó, mặc dù chủ
thể này chưa đến mức mất khả năng nhận
thức, làm chủ hành vi nhưng trong một
số trường hợp, để bảo đảm quyền, lợi ích
hợp pháp của họ cần phải quy định cho
người đại diện tham gia. Phạm vi đại diện
sẽ được xác định cụ thể trong quyết định
của Tòa án.
Như vậy, trong một vụ án dân sự,
theo phạm vi đại diện, nếu chưa xác định
được người đại diện theo pháp luật của
người có khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi hoặc việc đại diện theo pháp
luật đã chấm dứt mà chưa có người thay
thế thì Tòa án cần phải đình chỉ giải quyết
vụ án để bảo đảm quyền tham gia tố tụng
của người này. Thiết nghĩ, để đảm bảo
tính tương thích với pháp luật nội dung,
pháp luật tố tụng dân sự cần bổ sung
trường hợp trên là căn cứ để tạm đình chỉ
giải quyết vụ án dân sự.
VŨ HOÀNG ANH
57Số 02 - 2018 Khoa học Kiểm sát
Thứ hai, quy định tại Điều 214 BLTTDS
năm 2015 chưa có sự tương thích với quy định
của Luật doanh nghiệp năm 2014 và Điều 74
BLTTDS năm 2015.
Theo quy định của Luật doanh nghiệp
năm 2014, bên cạnh các trường hợp sáp
nhập, hợp nhất, chia, tách, giải thể, tổ
chức có thể rơi vào trường hợp chuyển
đổi hình thức tổ chức, thay đổi chủ sở hữu
của tổ chức và việc chuyển giao quyền,
nghĩa vụ cho chủ sở hữu mới, trường
hợp tổ chức không có tư cách pháp nhân
tham gia quan hệ dân sự. Theo đó, nếu cơ
quan, tổ chức rơi vào trường hợp nêu trên
mà người đại diện hợp pháp chết nhưng
có sẵn cá nhân, cơ quan tổ chức kế thừa
quyền, nghĩa vụ tố tụng thì việc xác định
ai là chủ thể kế thừa quyền và nghĩa vụ tố
tụng được xác định theo Điều 74 BLTTDS
năm 2015.
Vậy, trong trường hợp tổ chức chuyển
đổi hình thức tổ chức, thay đổi chủ sở hữu
và việc chuyển giao quyền, nghĩa vụ cho
chủ sở hữu mới, trường hợp tổ chức không
có tư cách pháp nhân tham gia quan hệ
dân sự mà người đại diện đang tham gia
tố tụng chết mà chưa tìm được chủ thể kế
thừa quyền, nghĩa vụ của cơ quan đó thì
Tòa án phải tạm đình chỉ giải quyết vụ án.
Chúng tôi cho rằng, để đảm bảo tính tương
thích với Luật doanh nghiệp năm 2014,
Điều 214 BLTTDS năm 2015 cần bổ sung
trường hợp nêu trên là một trong những
căn cứ Tòa án có thể ra quyết định tạm
đình chỉ giải quyết vụ án(1).
1 Bùi Thị Huyền – Quy định về tạm đình chỉ giải quyết
vụ án dân sự trong BLTTDS năm 2015 cần được hướng
dẫn cụ thể hơn – Tạp chí Dân chủ & Pháp luật, số 5/2016,
tr.37-42.
Thứ ba, quy định của BLTTDS năm 2015,
BLDS năm 2015, Luật Thi hành án năm 2014
có sự mâu thuẫn và chưa tương thích về vấn
đề đương sự là người được thi hành án chết
mà quyền, nghĩa vụ của họ có thể chuyển giao
nhưng không có người thừa kế.
BLTTDS năm 2015 chỉ quy định về
trường hợp đương sự tham gia tố tụng
chết mà quyền, nghĩa vụ có thể chuyển
giao nhưng chưa có người thừa kế hoặc
đã có sẵn người thừa kế mà không có
quy định cho trường hợp không có người
thừa kế. Theo đó, trường hợp đương sự
tham gia tố tụng chết mà không có người
thừa kế thì phải áp dụng các quy định của
BLDS năm 2015 để giải quyết. Điều 622
BLDS năm 2015 quy định: “Trường hợp
không có người thừa kế theo di chúc, theo pháp
luật hoặc có nhưng không được quyền hưởng
di sản, từ chối nhận di sản thì tài sản còn lại
sau khi đã thực hiện nghĩa vụ về tài sản mà
không có người nhận thừa kế thuộc về Nhà
nước”. Theo quy định này, khi cá nhân
chết có di sản thừa kế để lại mà không có
người hưởng di sản thừa kế hoặc những
người thừa kế đều từ chối hưởng di sản
thì di sản thuộc về nhà nước
Tuy nhiên hiện nay, điểm b khoản
1 Điều 50 Luật thi hành án dân sự năm
2014 lại có quy định, trường hợp người
được thi hành án chết mà theo quy định
của pháp luật quyền và lợi ích của người
đó theo bản án, quyết định không được
chuyển giao cho người thừa kế hoặc không
có người thừa kế thì cơ quan thi hành án
đình chỉ thi hành án. Quy định này dẫn
đến hai hệ quả là: Thứ nhất, người phải
thi hành án (người có nghĩa vụ được
xác định theo phán quyết của Tòa án) sẽ
MỐI LIÊN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ...
58 Khoa học Kiểm sát Số 02 - 2018
không phải thực hiện nghĩa vụ; Thứ hai,
khi cơ quan Thi hành án ra quyết định
đình chỉ thi hành án thì Nhà nước không
thể được hưởng tài sản của đương sự đã
chết. Căn cứ theo quy định của BLDS năm
2015 thì quy định này là chưa hợp lý. Có
thể làm rõ nhận định trên qua phân tích
dưới đây:
Một là, dựa vào các căn cứ về chấm
dứt nghĩa vụ dân sự xác định được,
nếu quyền và nghĩa vụ các bên đã thỏa
thuận trong giao dịch dân sự là quyền
và nghĩa vụ về tài sản thì khi bên có
quyền chết, bên có nghĩa vụ không
được loại trừ nghĩa vụ. Cụ thể, trong
phần các căn cứ chấm dứt nghĩa vụ dân
sự, Điều 372 BLDS năm 2015 có liệt kê
những căn cứ sau: Nghĩa vụ được hoàn
thành; Theo thỏa thuận của các bên;
Bên có quyền miễn việc thực hiện nghĩa
vụ; Nghĩa vụ được thay thế bằng nghĩa
vụ khác; Nghĩa vụ được bù trừ; Bên có
quyền và bên có nghĩa vụ hòa nhập làm
một; Thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ đã hết;
Bên có nghĩa vụ là cá nhân chết hoặc là
pháp nhân chấm dứt tồn tại mà nghĩa
vụ phải do chính cá nhân, pháp nhân
đó thực hiện; Bên có quyền là cá nhân
chết mà quyền yêu cầu không thuộc di
sản thừa kế hoặc là pháp nhân chấm
dứt tồn tại mà quyền yêu cầu không
được chuyển giao cho pháp nhân khác;
Vật đặc định là đối tượng của nghĩa vụ
không còn và được thay thế bằng nghĩa
vụ khác.
Vậy giả sử trong trường hợp, A cho B
vay 500 triệu; tuy nhiên, hết thời vay, A đã
bị tai nạn giao thông và chết. Nếu dựa vào
các căn cứ chấm dứt nghĩa vụ dân sự đã
được liệt kê ở trên thì sự kiện A chết không
dẫn đến việc loại trừ nghĩa vụ của B. Theo
tinh thần này, nếu sau khi kết thúc vụ án
về yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trong hợp
đồng vay, Tòa án đã tuyên bị đơn phải trả
tiền cho nguyên đơn mà sau đó nguyên
đơn (người được thi hành án) chết thì bị
đơn (người phải thi hành án) cũng không
được loại trừ nghĩa vụ của mình.
Hai là, xét về mặt logic với Điều 622
BLDS năm 2015, vẫn với ví dụ trên, khi
Tòa án tuyên bị đơn phải trả tiền vay cho
nguyên đơn nghĩa là đã có một cơ sở xác
định rõ nguyên đơn là chủ sở hữu của
khoản tiền vay mà trước đó là đối tượng
của tranh chấp. Khi nguyên đơn (người
được thi hành án) chết thì khoản tiền vay
vừa đòi được sẽ trở thành di sản thừa kế
của nguyên đơn. Trong trường hợp này,
nếu xác định nguyên đơn (người được
thi hành án) không có người thừa kế hoặc
người thừa kế từ chối hưởng di sản; ngoài
ra nguyên đơn không còn nghĩa vụ nào
với các chủ thể khác thì tài sản phải thuộc
về Nhà nước. Lúc này, tài sản mà nguyên
đơn (người được thi hành án) đã đòi được
theo phán quyết của Tòa phải thuộc về
Nhà nước.
Vậy, rõ ràng quy định tại Điều
50 Luật thi hành án dân sự năm 2014
chưa phù hợp với tinh thần của BLDS
2015. Thiết nghĩ, trong lần sửa đổi tiếp
theo, Luật thi hành án cần phải sửa đổi
theo hướng trường hợp người phải thi
hành án chết mà quyền lợi của họ theo
phán quyết của Tòa án có thể chuyển
giao nhưng không có người thừa kế thì
không phải là căn cứ để đình chỉ thi
hành án./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- moi_lien_he_giua_phap_luat_to_tung_dan_su_va_phap_luat_dan_s.pdf