Gen bla
NDM-1 ngày càng được phát hiện nhiều ở các chủng
A. baumannii trên toàn thế giới. Ở Acinetobacter, blaNDM-1
thường nằm trong transposon hỗn hợp Tn125 với trình tự
chèn ISAba125 ở 2 đầu của gen. Các chủng chứa gen blaNDM-1
có ISAba125 có MIC đối với các kháng sinh carbapenem cao
hơn rất nhiều so với chủng không có ISAba125 [16].
Hiện nay, A. baumannii đã đề kháng được với hầu hết các
kháng sinh hiện có, chỉ duy nhất colistin còn tác dụng. Trong
nghiên cứu này, chưa phát hiện chủng A. baumannii kháng
colistin và phân bố dải MIC của colistin từ <0,25-1 µg/ml; 1/3
số chủng có MIC<0,25 µg/ml, MIC50=0,25 µg/ml, MIC90=0,5
µg/ml. Kết quả của chúng tôi cũng tương tự một nghiên cứu
trên các chủng A. baumannii phân lập tại Khoa Điều trị tích
cực, Bệnh viện Bạch Mai (2011-2015) [13]: MIC90 colistin từ
0,19-0,5 µg/ml, thấp hơn so với P. aeruginosa (1-2 µg/ml).
Tuy nhiên, cũng cần lưu rằng đã xuất hiện chủng A. baumannii
có MIC=1 μg/ml và khi sử dụng ngày càng nhiều colistin hơn,
rất có thể sẽ xuất hiện các chủng có giá trị MIC cao hơn. Đột
biến kháng colistin rất dễ xảy ra khi điều trị bằng colistin ở A.
baumannii và P. aeruginosa. Do vậy, giám sát MIC colistin
là rất quan trọng để có thể tính toán liều điều trị cho phù hợp.
Theo hiểu biết của chúng tôi, chưa có nghiên cứu nào ở
Việt Nam công bố về đề kháng colistin ở A. baumannii. Tuy
nhiên, đã có nhiều báo cáo về kháng colistin ở A. baumannii
trên thế giới [17]. Theo nghiên cứu của Matuschek và cộng
sự (2018) [7] cho thấy, kết quả của một số phương pháp xác
định MIC của colistin không đồng nhất, có thể cho kết quả đề
kháng giả hoặc nhạy cảm giả. Giá trị MIC colistin không chỉ
liên quan với kết quả nhạy/kháng mà còn liên quan tới việc
tính liều colistin trong điều trị, nên một kết quả thử nghiệm
chính xác là rất cần thiết và quan trọng.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 5 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mối liên quan giữa mức độ kháng carbapenem và sự xuất hiện gen mã hóa carbapenemase của các chủng Acinetobacter baumannii phân lập tại một số bệnh viện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3562(7) 7.2020
Khoa học Y - Dược
Đặt vấn đề
Acinetobacter baumannii được xác định là một trong
những căn nguyên gây nhiễm khuẩn bệnh viện thường gặp
nhất. Cùng với mức độ đề kháng kháng sinh ngày càng cao,
A. baumannii kháng carbapenem được Tổ chức Y tế thế giới
xếp vào nhóm vi khuẩn ưu tiên số 1 hiện nay trong kiểm
soát và điều trị [1]. Kháng kháng sinh đang là một thách
thức trong điều trị nhiễm khuẩn do A. baumannii. Tỷ lệ tử
vong liên quan đến nhiễm khuẩn do A. baumannii đa kháng
dao động từ 29-64% [2].
A. baumannii có thể đề kháng với tất cả các kháng
sinh hiện có sử dụng trên lâm sàng do có cơ chế đề kháng
phong phú. Tuy nhiên, sinh enzyme carbapenemase vẫn là
cơ chế kháng carbapenem chủ yếu ở A. baumannii. Nhiều
loại carbapenemase nhóm A, B, D đã được tìm thấy ở A.
baumannii [3].
Tại Việt Nam, khả năng gây bệnh và mức độ kháng
kháng sinh của A. baumannii đang gia tăng đáng báo động
[4, 5]. Một số gen mã hóa carbapenemase ở A. baumannii
thường gặp là bla
OXA-51
, bla
OXA-23
, bla
OXA-58
[6, 7]. Ngoài các
bệnh viện tuyến trung ương, một số bệnh viện tuyến tỉnh
và khu vực cũng đã xuất hiện các chủng A. baumannii
mang gen bla
NDM-1
và phối hợp với nhiều hơn 2 gen mã hóa
carbapenemase khác trên một chủng [4]. Do hoạt tính thủy
phân kháng sinh của từng loại carbapenemase khác nhau
nên mức độ đề kháng kháng sinh có thể khác nhau. Vì vậy,
nghiên cứu này được tiến hành nhằm xác định MIC của một
số kháng sinh với các chủng A. baumannii và tìm mối liên
quan giữa mức độ kháng carbapenem và sự xuất hiện một
số gen mã hóa carbapenemase.
Phương pháp nghiên cứu
Chủng vi khuẩn
144 chủng A. baumannii phân lập được ở 9 bệnh viện
của 3 miền: Bắc (Thanh Nhàn, Xanh Pôn, Bắc Giang, 108),
Trung (Huế, Nghệ An, Hà Tĩnh), Nam (Chợ Rẫy, Nhi đồng)
(năm 2016).
Các chủng được định danh bằng thanh định danh API-
20NE (BioMerieux - Pháp).
Mối liên quan giữa mức độ kháng carbapenem
và sự xuất hiện gen mã hóa carbapenemase của các chủng
Acinetobacter baumannii phân lập tại một số bệnh viện
Lưu Thị Vũ Nga1*, Phạm Hồng Nhung2, Trần Thị Vân Phương3, Phạm Duy Thái3, Trần Huy Hoàng3
1Bệnh viện Thanh Nhàn
2Trường Đại học Y Hà Nội
3Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương
Ngày nhận bài 2/4/2020; ngày chuyển phản biện 6/4/2020; ngày nhận phản biện 4/5/2020; ngày chấp nhận đăng 7/5/2020
Tóm tắt:
Bên cạnh các yếu tố độc lực, khả năng đề kháng kháng sinh của các chủng vi khuẩn Acinetobacter baumannii đã
khiến chúng trở thành căn nguyên gây nhiễm khuẩn bệnh viện thường gặp nhất. Ở A. baumannii, kháng carbapenem
chủ yếu do carbapenemase. Trong nghiên cứu này, 144 chủng A. baumannii phân lập từ 9 bệnh viện thuộc 3 miền
ở Việt Nam được nghiên cứu để xác định nồng độ ức chế tối thiểu (MIC) của kháng sinh và tìm mối liên quan
giữa mức độ kháng carbapenem và sự xuất hiện một số gen mã hóa carbapenemase. Kết quả nghiên cứu cho thấy,
7/9 kháng sinh bị kháng trên 70,8%; 83,3% số chủng kháng cả 3 kháng sinh thuộc nhóm carbapenem với MIC
50
,
MIC
90
lần lượt là 32-64 µg/ml và ≥64 µg/ml. 100% số chủng nhạy cảm colistin với MIC
50
là 0,25 µg/ml và MIC
90
là
0,5 µg/ml. Các chủng chỉ mang gen bla
OXA-51
có tỷ lệ đề kháng kháng sinh và MIC thấp hơn nhiều so với các chủng có
≥2 gen mã hóa carbapenemase (với p<0,01). 100% các chủng có bla
OXA-23 và chủng mang blaNDM-1 kháng carbapenem
và với MIC rất cao. Kết luận: có mối liên quan giữa mức độ kháng carbapenem và sự xuất hiện của gen bla
OXA-23
và
bla
NDM-1
. Colistin trở thành “vũ khí” cuối cùng trong điều trị nhiễm trùng do A. baumannii đa kháng.
Từ khóa: A. baumannii, MIC carbapenem, MIC colistin.
Chỉ số phân loại: 3.5
*Tác giả liên hệ: Email: luuvunga@gmail.com
3662(7) 7.2020
Khoa học Y - Dược
Tính nhạy cảm kháng sinh của vi khuẩn
Xác định MIC của các kháng sinh: imipenem, meropenem,
doripenem, ceftazidime, cefepime, levofloxacine, amikacin,
minocycline và colistin với các chủng A. baumannii.
Đối với các kháng sinh imipenem, meropenem,
doripenem, ceftazidime, cefepime, levofloxacine, amikacin,
minocycline sử dụng phương pháp pha loãng kháng sinh
trong thạch và phương pháp vi pha loãng đối với colistin
theo hướng dẫn của Viện Chuẩn thức xét nghiệm lâm sàng
Hoa Kỳ (CLSI M07-A10) [5]. Kết quả MIC được phiên giải
theo tiêu chuẩn của CLSI M100 S28 [6].
Kỹ thuật xác định MIC của colistin được thực hiện
trên đĩa 96 giếng tiêu chuẩn - đáy tròn được làm bằng
polypropylene (Hãng Corning) và sử dụng bột kháng sinh
colistin sulfate salt (Sigma) cho thử nghiệm. E. coli ATCC
25922, P. aeruginosa ATCC 27853 [6], E. coli NCTC 13846
dương tính với mcr1 (MIC colistin là 4 µg/ml) được sử dụng
để kiểm tra chất lượng [7].
Kỹ thuật PCR phát hiện gen kháng carbapenem
Kỹ thuật PCR được sử dụng để phát hiện một số gen mã
hóa carbapenemase: bla
OXA-51
,
bla
OXA-23
, bla
OXA-58
, bla
OXA-24
,
bla
NDM-1
, bla
IMP
, bla
VIM
, bla
GIM
, bla
SIM
, bla
SPM
.
Sử dụng các đoạn mồi đặc hiệu, chu trình nhiệt và các
bước tiến hành như đã được mô tả trong các nghiên cứu
trước đây [8, 9]. Chứng dương cho gen là ADN khuôn mẫu
tách chiết từ các chủng vi khuẩn A. baumannii mang các
gen kháng carbapenem đã được xác định qua phản ứng PCR
và sản phẩm khuếch đại được giải trình tự và khẳng định
trên NCBI [10].
Phân tích và xử lý số liệu
Số liệu được quản lý bằng phần mềm excel, tính tỷ lệ %,
kết quả được thể hiện qua các bảng và biểu đồ.
Địa điểm nghiên cứu
Phòng Kháng kháng sinh - Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung
ương.
Đạo đức trong nghiên cứu
Nghiên cứu này được Hội đồng đạo đức trong nghiên
cứu y sinh học Trường Đại học Y Hà Nội thông qua.
Kết quả
Tổng số 144 chủng A. baumannii thu thập tại 9 bệnh viện
bao gồm: Thanh Nhàn (n=22), Xanh Pôn (n=17), Bắc Giang
(n=13), Nghệ An (n=10) ), Hà Tĩnh (n=15), Huế (n=23), Chợ
Rẫy (n=14), 108 (n=15), Nhi đồng (n=15) được sử dụng cho
nghiên cứu, kết quả cho thấy:
7/9 kháng sinh đã bị kháng từ ≥70,8% và MIC
50
, MIC
90
rất cao; minocyclin có tỷ lệ kháng chưa cao (21,5%) nhưng
tỷ lệ trung gian là 13,2% nên tỷ lệ nhạy cảm chỉ là 65,3%.
100% số chủng còn nhạy cảm với colistin (bảng 1).
Association of carbapenem
resistance levels with the
presence of carbapenemase
coding genes among
Acinetobacter baumannii strains
isolated from some hospitals
Thi Vu Nga Luu1*, Hong Nhung Pham2,
Thi Van Phuong Tran3,
Duy Thai Pham3, Huy Hoang Tran3
1Thanh Nhan Hospital
2Hanoi Medical University
3National Institute of Hygiene and Epidemiology
Received 2 April 2020; accepted 7 May 2020
Abstract:
In addition to virulence factors, antibiotic resistance
has helped strains of Acinetobacter baumannii become
one of the most common agents of hospital-acquired
infections. In A. baumannii, carbapenem resistance is
mainly mediated by carbapenemase. In this study, 144
strains of A. baumannii isolated from 9 hospitals in
representing 3 regions of Vietnam were studied to detect
the minimum inhibitory concentration (MIC) and find
an association between carbapenem resistance levels and
the appearance of some carbapenemase coding genes.
Results: more than 70.8% of the isolated were resistant
to 7/9 antibiotics tested; 83.3% strains were resistant to
3 carbapenem antibiotics with MIC
50,
and MIC
90
values
were 32-64 µg/ml and ≥64 µg/ml, respectively; 100%
strains were susceptible to colistin (MIC
50=
0.25 µg/ml
and MIC
90=
0.5 µg/ml). Strains with only bla
OXA-51
showed
much lower rates of antibiotic resistance and MIC than
those with ≥2 carbapenemase genes (p<0.01). 100%
strains carrying bla
OXA-23
and bla
NDM-1
were resistant to
carbapenem with very high MIC values. Conclusion:
there is an association between carbapenem resistance
and the appearance of gene bla
OXA-23
and bla
NDM-1
. Colistin
is the last resort for the treatment of multidrug-resistant
A. baumannii.
Keywords: A. baumannii, MIC carbapenem, MIC colistin.
Classification number: 3.5
3762(7) 7.2020
Khoa học Y - Dược
Bảng 1. MIC của kháng sinh với chủng A. baumanni.
Kháng sinh
Dải MIC
µg/ml
(n=144)
MIC
50
µg/ml
(n=144)
MIC
90
µg/ml
(n=144)
Tỷ lệ (%)
R I S
Imipenem 0,025->64 64 >64 83,3 0 16,7
Meronem 0,06->64 32 64 83,3 0 16,7
Doripenem 0,015->64 32 64 83,3 0 16,7
Ceftazidine 8->128 128 >128 85,4 1,4 13,2
Cefepim 2->128 128 >128 84,0 1,4 14,6
Amikacin 0,5->256 >256 >256 70,8 7,6 21,6
Levofloxacin 0,06->64 64 >64 83,3 4,2 12,5
Minocyclin 0,25-32 2 16 21,5 13,2 65,3
Colistin <0,25-1 0,25 0,5 0,0 0,0 100
Ghi chú: S: nhạy cảm; I: trung gian; R: kháng.
Hình 1. Phân bố dải giá trị MIC của các kháng sinh carbapenem.
IPM: imipenem, MEM: meropenem, DOR: doripenem.
Hình 1 cho thấy, đối với các chủng còn nhạy cảm
với carbapenem, MIC≤0,5 µg/ml là chủ yếu. Đối với
các chủng đề kháng, MIC=32-64 µg/ml là chủ yếu; MIC
của doripenem thấp hơn imipenem và meropenem, tỷ lệ
doripenem có MIC=16 µg/ml là 18,1% so với 4,2% và
3,5% của imipenem và meropenem. Tỷ lệ imipenem có
MIC>64 µg/ml là nhiều nhất (21,5% so với 3,5% và 1,4%
của meropenem và doripenem).
Bảng 2. Tỷ lệ gen mã hóa carbapenemase ở các chủng A.
baumannii.
Gen OXA-51 OXA-23 OXA-58 NDM-1
OXA-24, IMP, SIM,
GIM, VIM, SPM
A. baumannii
(n=114)
144/144
(100%)
115/144
(79,9%)
8/144
(5,6%)
9/144
(6,3%)
0/144
(0%)
Bảng 2 cho thấy, 100% số chủng mang gen bla
OXA-51
;
79,9% số chủng mang gen bla
OXA-23
; số chủng mang gen
bla
OXA-58
và bla
NDM-1
chiếm tỷ lệ thấp; không có chủng nào
mang gen OXA-24, IMP, SIM, GIM, VIM, SPM.
Bảng 3. Mức độ đề kháng kháng sinh của các chủng mang gen
mã hóa carbapenemase.
Gen mã hóa
carbapenemase
Số lượng
(tỷ lệ %)
Tỷ lệ (%) đề kháng kháng sinh
IPM MEM DOR CAZ CFP LEV AK MI
bla
OXA-51
* 23
(16,0)
4,3 4,3 4,3 13,0 4,3 21,7 8,7 8,7
Có ≥2 gen
121
(84,0)
98,4 98,4 98,4 99,2 99,2 95,0 82,7 21,5
p <0,01 <0,01 <0,01 <0,01 <0,01 <0,01 <0,01 <0,01
Ghi chú: *: chỉ mang blaOXA-51. IPM: imipenem, MEM: meropenem, DOR:
doripenem, CAZ: ceftazidime, CFP: cefepime, LEV: levofloxacine, AK:
amikacin, MI: minocycline.
Bảng 3 cho thấy, 16,0% số chủng chỉ mang gen bla
OXA-51
có tỷ lệ đề kháng kháng sinh thấp hơn nhiều so với các
chủng có ≥2 gen mã hóa carbapenemase (với p<0,01).
Bảng 4. Giá trị MIC của carbapenem ở các chủng mang gen mã
hóa carbapenemase.
Các gen mã hóa
carbapenemase
Số
lượng
gen và
tỷ lệ %
MIC≤2 µg/ml MIC=8-32 µg/ml MIC≥64 µg/ml
IPM MEM DOR IPM MEM DOR IPM MEM DOR
bla
OXA-51
* 23
16,0
22
95,7
22
95,7
22
95,7
1
4,3
1
4,3
1
4,3
bla
OXA-51
+bla
OXA-58
2
1,4
2
100
2
100
2
100
bla
OXA-51
+bla
OXA-23
106
73,6
25
23,6
46
43,4
74
69,8
81
76,4
60
56,6
32
30,2
bla
OXA-51
+bla
OXA-58
+bla
OXA-23
4
2,8
1
25,0
2
50,0
4
100
3
75,0
2
50,0
bla
OXA-51
+bla
NDM-1
2
1,4
1
50,0
1
50,0
1
50,0
1
50,0
1
50,0
1
50,0
bla
OXA-51
+bla
OXA-23
+bla
NDM-1
5
3,5
5
100
5
100
5
100
bla
OXA-51
+bla
OXA-58
+bla
NDM-1
2
1,4
1
50,0
1
50,0
1
50,0
1
50,0
1
50,0
1
50,0
Ghi chú: *: chỉ mang blaOXA-51. IPM: imipenem, MEM: meropenem, DOR:
doripenem.
Bảng 4 cho thấy, các chủng chỉ có bla
OXA-51
hoặc
bla
OXA-51
+bla
OXA-58
còn nhạy cảm tốt với carbapenem (95,7%
với MIC≤2 µg/ml). 100% các chủng có bla
OXA-23
kháng
carbapenem và tỷ lệ MIC≥64 µg/ml cao. Các chủng có
bla
NDM-1
khi kết hợp với các gen khác thì khả năng kháng
carbapenem là 100%.
3862(7) 7.2020
Khoa học Y - Dược
Bảng 5. Phân bố dải giá trị MIC của colistin.
MIC (µg/ml)
<0,25 0,25 0,5 1,0 ≥2
Tần số 47 71 24 2 0
Tỷ lệ (%) 32,6 49,3 16,7 1,4 0
Bảng 5 cho thấy, phân bố dải MIC colistin từ <0,25-1
µg/ml. 1/3 số chủng có MIC<0,25 µg/ml, 1/2 số chủng có
MIC=0,25 µg/ml và chưa có chủng nào kháng colistin.
Bàn luận
144 chủng A. baumannii được nghiên cứu với 9 loại
kháng sinh được thử nghiệm, kết quả là 7/9 kháng sinh đã bị
kháng từ ≥70,8% và MIC
50
, MIC
90
rất cao (MIC
50
và MIC
90
của 3 kháng sinh carbapenem lần lượt là 32-64 µg/ml và ≥64
µg/ml; ceftazidime, cefepime là 128 µg/ml và >128 µg/ml;
levofloxacin là 64 µg/ml và >64 µg/ml; amikacin đều >256
µg/ml). Minocyclin có tỷ lệ kháng chưa cao (21,5%) nhưng tỷ
lệ trung gian là 13,2% nên tỷ lệ nhạy cảm chỉ là 65,3%. 100%
số chủng nhạy cảm với colistin.
Hiện tại, A. baumannii đã phát triển đề kháng với hầu hết
các kháng sinh hiện có và đa kháng kháng sinh (MDR) được
ghi nhận rộng rãi. MDR là kiểu đề kháng rất thường gặp ở A.
baumannii [2, 5]. Tỷ lệ MDR ở A. baumannii thuộc các nước
OECD (Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế) dao động từ
27,3-86,5% và ở các nước không phải OECD là 69,9-90,8%
[2]. MDR ở A. baumannii cao hơn nhiều P. aeruginosa (82 so
với 42,8%) [11]. Điều này được lý giải bởi các yếu tố quyết
định đề kháng kháng sinh ở A. baumannii thường được kết
hợp trong các yếu tố di truyền di động, như trình tự chèn
(Insertion sequence - IS), transposon, gen cassette, integron
và cụm gen kháng (Resistance island - RI) [3]. Integron là cơ
chế di truyền cho phép vi khuẩn thích nghi, phát triển và đặc
biệt là phát triển tính đề kháng kháng sinh thông qua việc thu
nhận, lưu giữ và biểu hiện của các gen mới. Nhiều nghiên cứu
cho thấy integron có vai trò quan trọng trong phát triển tính
MDR ở A. baumannii. Integron có liên quan đáng kể với khả
năng đề kháng một số kháng sinh nhất định, bao gồm beta-
lactam, aminoglycosides, quinolones [12].
Tỷ lệ kháng kháng sinh trong nghiên cứu của chúng tôi cũng
tương tự mức độ kháng của các chủng A. baumannii ở châu Á
[8]: trong số 253 A. baumannii, 82,5% kháng carbapenem; tỷ
lệ kháng với các kháng sinh khác (ngoại trừ polymyxin) cũng
rất cao: 86,5% (ceftazidime), 76,2% (gentamicin), 89,7%
(ciprofloxacin), 86,1% (piperacillin-tazobactam).
Tỷ lệ và mức độ kháng kháng sinh ở nghiên cứu của chúng
tôi cao hơn kết quả nghiên cứu trên các chủng A. baumannii
gây nhiễm khuẩn huyết ở một số bệnh viện thuộc 3 miền của
Việt Nam năm 2011-2012 [9]: tỷ lệ kháng carbapenem là 83,3
so với 51,2%; MIC
50
và MIC
90
của carbapenem tương ứng là
32-64 và ≥64 µg/ml so với 8 và 16 µg/ml. Như vậy, đã có sự
phát triển mức độ kháng kháng sinh rất nhanh theo thời gian
ở các chủng A. baumannii.
Theo một phân tích về mức độ kháng kháng sinh của A.
baumannii toàn cầu: chỉ trong 11 năm (2006-2016), tỷ lệ đề
kháng của A. baumannii đối với imipenem đã tăng từ 23,8 lên
73,9% ở các nước OECD. Sự gia tăng tỷ lệ kháng kháng sinh
ở các nước OECD nhanh hơn so với các nước không thuộc
OECD trong 11 năm qua. Hiện nay, tỷ lệ này gần tương tự
nhau (73,9 và 77,8%), các nước đều phải đối mặt với mức độ
nghiêm trọng của tình trạng đề kháng kháng sinh [2].
10 năm trước đây, carbapenem là kháng sinh được sử dụng
như là lựa chọn cuối cùng cho điều trị trực khuẩn Gram âm đa
kháng. Nhưng hiện nay, các kháng sinh này đã gần như không
còn tác dụng với A. baumannii. Trong nghiên cứu này, cả 3
kháng sinh carbapenem là imipenem, meropenem, doripenem
đều đã bị kháng 83,3%; MIC
50
(32-64 µg/ml) và MIC
90
(≥64
µg/ml) cao hơn rất nhiều (≥16 lần) so với tiêu chuẩn nhạy cảm.
Đối với các chủng còn nhạy cảm với carbapenem, MIC≤0,5
µg/ml là chủ yếu; không có chủng nào MIC ở mức độ trung
gian. Còn đối với các chủng đề kháng, MIC=32-64 µg/ml là
chủ yếu. Tuy nhiên, trong 3 kháng sinh nhóm carbapenem
thì doripenem có MIC thấp hơn (=16 µg/ml) là 18,1% so với
4,2% và 3,5% của imipenem và meropenem. Trong khi, tỷ lệ
imipenem có MIC>64 µg/ml là nhiều nhất (21,5 so với 3,5
và 1,4% của meropenem và doripenem). Điều này là phù hợp
do doripenem ít bị thủy phân bởi nhiều loại beta-lactamase
nhóm A, C, D so với imipenem và meropenem; thủy phân
doripenem bởi beta-lactamsae chậm hơn từ 2 đến 150 lần so
với imipenem ngoại trừ SPM-1 [13].
Kết quả xác định gen mã hóa carbapenemase: 100% số
chủng mang gen bla
OXA-51
, 79,9% chủng mang gen bla
OXA-23
.
Gen bla
OXA-58
và bla
NDM-1
chiếm tỷ lệ thấp (5,6 và 6,3%).
Không có chủng nào mang gen bla
OXA-24
, bla
IMP
, bla
GIM
,
bla
SPM
,
bla
SIM
, bla
VIM
. Các chủng chỉ có bla
OXA-51
(16,0%) có
tỷ lệ kháng kháng sinh thấp hơn nhiều so với các chủng có
≥2 gen mã hóa carbapemase (với p<0,01) [ngoại trừ chủng
mang 2 gen bla
OXA-51
+bla
OXA-58
(1,4%) còn nhạy cảm 100% với
carbapenem]. 100% các chủng có bla
OXA-23
kháng carbapenem
và tỷ lệ MIC≥64 µg/ml cao. Các chủng có bla
NDM-1
khi kết hợp
với các gen khác thì khả năng kháng carbapenem là 100%.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng tương tự một số
nghiên cứu khác. Gen bla
OXA-51
nằm trên nhiễm sắc thể, là gen
nội tại tự nhiên của A. baumannii và nó thường không dẫn
đến kháng carbapenem trừ khi có một trình tự chèn -ISAba1
được đưa vào khu vực promoter và gây quá biểu hiện của gen
bla
OXA-51
[14]. Tuy nhiên, tỷ lệ bla
OXA-51
có ISAba1 thường thấp,
nên các chủng chỉ có bla
OXA-51
thường vẫn nhạy cảm tốt với
carbapenem [15]. Tương tự OXA-51, OXA-58 ở A. baumannii
có hoạt tính thủy phân carbapenem yếu, nên các chủng nếu
chỉ có bla
OXA-58
thường vẫn nhạy cảm với carbapenem.
Ngược lại, OXA-23 là loại carbapenemase thường
gặp nhất ở Acinetobacter kháng carbapenem trên toàn thế
giới. Khác với bla
OXA-51
, bla
OXA-23
thường có ISAba1 ở vùng
promotor và có khả năng đề kháng mạnh với carbapenem, còn
3962(7) 7.2020
Khoa học Y - Dược
đối với chủng không có ISAba1 thì có thể vẫn nhạy cảm với
carbapenem [15].
Gen bla
NDM-1
ngày càng được phát hiện nhiều ở các chủng
A. baumannii trên toàn thế giới. Ở Acinetobacter, bla
NDM-1
thường nằm trong transposon hỗn hợp Tn125 với trình tự
chèn ISAba125 ở 2 đầu của gen. Các chủng chứa gen bla
NDM-1
có ISAba125 có MIC đối với các kháng sinh carbapenem cao
hơn rất nhiều so với chủng không có ISAba125 [16].
Hiện nay, A. baumannii đã đề kháng được với hầu hết các
kháng sinh hiện có, chỉ duy nhất colistin còn tác dụng. Trong
nghiên cứu này, chưa phát hiện chủng A. baumannii kháng
colistin và phân bố dải MIC của colistin từ <0,25-1 µg/ml; 1/3
số chủng có MIC<0,25 µg/ml, MIC
50
=0,25 µg/ml, MIC
90
=0,5
µg/ml. Kết quả của chúng tôi cũng tương tự một nghiên cứu
trên các chủng A. baumannii phân lập tại Khoa Điều trị tích
cực, Bệnh viện Bạch Mai (2011-2015) [13]: MIC
90
colistin từ
0,19-0,5 µg/ml, thấp hơn so với P. aeruginosa (1-2 µg/ml).
Tuy nhiên, cũng cần lưu rằng đã xuất hiện chủng A. baumannii
có MIC=1 μg/ml và khi sử dụng ngày càng nhiều colistin hơn,
rất có thể sẽ xuất hiện các chủng có giá trị MIC cao hơn. Đột
biến kháng colistin rất dễ xảy ra khi điều trị bằng colistin ở A.
baumannii và P. aeruginosa. Do vậy, giám sát MIC colistin
là rất quan trọng để có thể tính toán liều điều trị cho phù hợp.
Theo hiểu biết của chúng tôi, chưa có nghiên cứu nào ở
Việt Nam công bố về đề kháng colistin ở A. baumannii. Tuy
nhiên, đã có nhiều báo cáo về kháng colistin ở A. baumannii
trên thế giới [17]. Theo nghiên cứu của Matuschek và cộng
sự (2018) [7] cho thấy, kết quả của một số phương pháp xác
định MIC của colistin không đồng nhất, có thể cho kết quả đề
kháng giả hoặc nhạy cảm giả. Giá trị MIC colistin không chỉ
liên quan với kết quả nhạy/kháng mà còn liên quan tới việc
tính liều colistin trong điều trị, nên một kết quả thử nghiệm
chính xác là rất cần thiết và quan trọng.
Kết luận
Có mối liên quan giữa mức độ kháng kháng sinh nhóm
carbapenem với sự xuất hiện của gen bla
OXA-23
. Colistin trở
thành “vũ khí” cuối cùng trong điều trị nhiễm trùng nghiêm
trọng do A. baumannii đa kháng.
LỜI CẢM ƠN
Nghiên cứu này sử dụng kinh phí của đề tài cấp nhà nước
“Đánh giá thực trạng kháng kháng sinh của vi khuẩn tại Việt
Nam, xác định đặc điểm cấu trúc gen và yếu tố liên quan
của các vi khuẩn kháng thuốc thường gặp ở Việt Nam”, mã
số HNQT/SPĐP/02.16 (1/10/2016-30/3/2019). Chúng tôi xin
trân trọng cảm ơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] WHO (2017), WHO Publishes List of Bacteria for Which New
Antibiotics are Urgently Needed,
releases/2017/bacteria-antibiotics-needed/en/.
[2] R. Xie, et al. (2018), “Analysis of global prevalence of antibiotic
resistance in Acinetobacter baumannii infections disclosed a faster increase
in OECD countries”, Emerging Microbes & Infections, 7(1), pp.1-10.
[3] P. Nowak and P. Paluchowska (2016), “Acinetobacter baumannii:
biology and drug resistance-role of carbapenemases”, Folia Histochemica et
Cytobiologica, 54(2), pp.61-74.
[4] Luu Thi Vu Nga, et al. (2017), “Genotyping of Acineto baumannii
carrying New Delhi Metallo-Beta-Lactamase-1 gene among inpatients
admitted to provincial hospitals in Vietnam, 2016”, Vietnam Journal of
Infectious Diseases, 4(20), pp.31-36.
[5] CLSI (2015), M07-A10-Methods for Dilution Antimicrobial,
Susceptibility Tests for Bacteria That Grow Aerobically; approved Standard-
Tenth Edition.
[6] CLSI (2018), Perfomance Standards for Antimicrobial Susceptibility
Testing, Twenty-eighth Infomational supplement M100-S28.
[7] E. Matuschek, et al. (2018), “Antimicrobial susceptibility testing of
colistin-evaluation of seven commercial MIC products against standard broth
microdilution for Escherichia coli, Klebsiella pneumoniae, Pseudomonas
aeruginosa, and Acinetobacter spp.”, Clinical Microbiology and Infection,
24(8), pp.865-870.
[8] D.H. Kim, et al. (2013), “Spread of carbapenem-resistant
Acinetobacter baumannii global clone 2 in Asia and AbaR-type resistance
islands”, Antimicrobial Agents and Chemotherapy, 57(11), pp.5239-5246.
[9] Nguyen Thi Thanh Ha (2014), Research on Clinical and
Microbiological Characteristics in Patients with Sepsis Caused by
Acinetobacter Baumannii (2011-2012), Doctoral thesis of medicine, Scientific
Research Institute of Clinical Medicine and Pharmacy 108.
[10] D. Tran, et al. (2017), “Emergence of New Delhi metallo-
beta-lactamase 1 and other carbapenemase-producing Acinetobacter
calcoaceticus-baumannii complex among patients in hospitals in Hanoi,
Vietnam”, European Journal of Clinical Microbiology & Infectious Diseases,
36(2), pp.219-225.
[11] D.R. Chung, et al. (2011), “High prevalence of multidrug-resistant
nonfermenters in hospital-acquired pneumonia in Asia”, American Journal of
Respiratory and Critical Care Medicine, 184(12), pp.1409-1417.
[12] M. Pagano, A.F. Martins, and A.L. Barth (2016), “Mobile genetic
elements related to carbapenem resistance in Acinetobacter baumannii”,
Brazilian Journal of Microbiology, 47(4), pp.785-792.
[13] Pham Hong Nhung, Dao Xuan Co, and Bui Thi Hao (2017),
“Susceptibility to antibiotics of Gram-negative bacilli isolated in ICU of Bach
Mai hospital”, Journal of Medical Research, 109(4), pp.1-8.
[14] J.F. Turton, et al. (2006), “The role of IS Aba1 in expression of OXA
carbapenemase genes in Acinetobacter baumannii”, FEMS Microbiology
Letters, 258(1), pp.72-77.
[15] V.C. Kobs, et al. (2016), “The role of the genetic elements bla oxa
and IS Aba 1 in the Acinetobacter calcoaceticus-Acinetobacter baumannii
complex in carbapenem resistance in the hospital setting”, Revista da
Sociedade Brasileira de Medicina Tropical, 49(4), pp.433-440.
[16] A. Makena, et al. (2014), “Biochemical characterization of New
Delhi metallo-β-lactamase variants reveals differences in protein stability”,
Journal of Antimicrobial Chemotherapy, 70(2), pp.463-469.
[17] Y. Cai, et al. (2012), “Colistin resistance of Acinetobacter
baumannii: clinical reports, mechanisms and antimicrobial strategies”,
Journal of Antimicrobial Chemotherapy, 67(7), pp.1607-1615.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
moi_lien_quan_giua_muc_do_khang_carbapenem_va_su_xuat_hien_g.pdf