Qua khảo sát 437 trường hợp bi SXH
Dengue, chúng tôi nhận thấy trẻ béo phì/thừa
cân có nguy cơ vào sốc và/hoặc tái sốc hơn so với
trẻ có tình trạng dinh dưỡng bình thường. Trẻ
suy dinh dưỡng/nhẹ cân lại ít bị nguy cơ này
hơn. Do đó, trong thực hành lâm sàng với bệnh
nhi bị sốt xuất huyết Dengue, cần phải đo chiều
cao, cân nặng của trẻ để đánh giá đúng đắn tình
trạng dinh dưỡng.Trẻ béo phì cần được theo dõi
sát hơn về sinh hiệu cũng như dung tích hồng
cầu do nguy cơ dễ vào sốc hoặc có khuynh
hướng dễ vào tái sốc hơn trẻ bình thường.
7 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 547 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mối liên quan giữa tình trạng dinh dưỡng và độ nặng bệnh sốt xuất huyết dengue ở trẻ em, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Nội Khoa 158
MỐI LIÊN QUAN GIỮA TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG
VÀ ĐỘ NẶNG BỆNH SỐT XUẤT HUYẾT DENGUE Ở TRẺ EM
Nguyễn Anh Tú*, Đông Thị Hoài Tâm**
TÓM TẮT
Mở đầu: Có nhiều yếu tố nguy cơ ảnh hưởng đến đô nặng của bệnh sốt xuất huyết Dengue, trong đó, một
trong những điểm thuộc yếu tố ký chủ được quan tâm là tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân.
Mục tiêu: Khảo sát mối liên quan giữa tình trạng dinh dưỡng với đô nặng bệnh sốt xuất huyết Dengue ở trẻ
em điều trị tại bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới.
Đối tượng-Phương pháp: Nghiên cứu tiền cứu mô tả cắt ngang. Trẻ em dưới 15 tuổi được chẩn đoán
nhiễm Dengue cấp nhập BV Bệnh Nhiệt Đới từ tháng 9/2010 đến tháng 7/2011 được đo chiều cao, cân nặng và
tính BMI.
Kết quả: có 437 bệnh nhân bị sốt xuất huyết Dengue, bao gồm 135 ca có sốc và 302 ca không sốc. Nếu dựa
BMI theo tuổi, tỷ lệ suy dinh dưỡng là 13,4%, tỷ lệ béo phì là 13,9%. Tỷ lệ trẻ béo phì ở nhóm sốc SXH (20,9%)
cao hơn so với nhóm không sốc (10,7%) (p=0,008) hay trẻ béo phì có nguy cơ vào sốc gấp 1,9 lần so với trẻ có dinh
dưỡng bình thường. Trẻ thừa cân có tỷ lệ tái sốc cao hơn (27,3%) so với nhóm không tái sốc (12,1%) hay trẻ thừa
cân có nguy cơ tái sốc gấp 2,57 lần so với trẻ bình thường. Trẻ suy dinh dưỡng/nhẹ cân lại ít bị nguy cơ này hơn.
Kết luận: Trong bệnh lý SXH-D, trẻ béo phì/thừa cân có nguy cơ vào sốc và/hoặc tái sốc hơn so với trẻ có
tình trạng dinh dưỡng bình thường
Từ khoá: Sốt xuất huyết Dengue, thừa cân, béo phì.
ABSTRACT
ASSOCIATION BETWEEN NUTRITIONAL STATUS AND SEVERITY
OF DENGUE INFECTION IN CHILDREN
Nguyen Anh Tu, Dong Thi Hoai Tam
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17-Supplement of No 1-2013: 158 - 164
Background: Many factors were found to be related to the severity of Dengue infection. Among this, the
nutritional status of the patient was concerned.
Materials and Methods: A cross sectional prospective study. We examined the nutritional status of
Dengue children admitted to the Hospital For Tropical Diseases from Sept 2010 to July 2011. Z scores for weight-
for-age, for height-for-age and BMI-for-age are calculated.
Results: In 437 patients recruited, according to the BMI z scores, 13.4% were malnourished, 13.9% were
obese. In children with Dengue shock, the proportion of obese patients (20.9%) was higher than in non-shock
group (10.7%) with p=0.008. Overweighted children had more episodes of reshock (27.3%) than children without
reshock (12.1%) with p=0.023. Malnourished or underweighted children had likely less risk of shock or reshock.
Conclusion: In Dengue infection, obese or overweighted children had more risk to develop shock and/or
reshock than normal nutritional status children.
* Bộ môn Nhiễm Trường Đại Học Y khoa Phạm Ngọc Thạch TP. HCM
** Bộ môn nhiễm trường ĐH Y ĐượcTPHCM
Tác giả liên lạc: BS Nguyễn Anh Tú ĐT: 0975834005 Email: anhtu_y02@yahoo.com.vn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa I 159
Keywords: Dengue children, shock, obese, overweight
MỞ ĐẦU
Bệnh sốt xuất huyết Dengue (SXH D) là một
vấn đề sức khỏe quan trọng ở các quốc gia Đông
Nam Á và Tây Thái Bình Dương. Đây là một
trong những nguyên nhân hàng đầu khiến trẻ
phải nhập viện và có tỷ lệ tử vong cao ở những
nước nhiệt đới của Châu Á(5,15). Tìm hiểu về các
yếu tố nguy cơ gây bệnh nặng là mục tiêu của
nhiều nghiên cứu. Một trong những điểm được
quan tâm là tình trạng dinh dưỡng của trẻ bệnh.
Những nhận xét ban đầu của một số tác giả gây
nên nhiều chú ý: tác giả Thisyakorn tại Thái Lan,
năm 1993, cho thấy rằng tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng
ở bệnh nhân SXH D thấp hơn so với trẻ bệnh
khác hoặc trẻ khỏe mạnh(13); Tác giả Nguyễn
Thanh Hùng ở Việt Nam, năm 2005, trên trẻ nhũ
nhi bị SXH D, cũng nhận xét rằng tỷ lệ suy dinh
dưỡng thấp hơn đáng kể so với nhóm chứng là
trẻ em bình thường(8). Điều này có nghĩa là tình
trạng suy dinh dưỡng phải chăng là yếu tố bảo
vệ đối với SXH D?
Các kết luận về mối liên quan giữa tình trạng
dinh dưỡng và bệnh SXH D chưa được thống
nhất: tác giả Kalayanarooj tại Thái Lan, năm 1999
đã báo cáo trong một nghiên cứu hồi cứu với
hơn 4000 ca rằng hội chứng sốc do Dengue xảy
ra nhiều hơn ở trẻ suy dinh dưỡng(6), nhưng mới
đây hơn, năm 2003, tác giả N.Pichainarong lại
nhấn mạnh rằng trẻ béo phì có khuynh hướng
dễ bị sốt xuất huyết nặng(10).
Với tình hình thay đổi về tình trạng dinh
dưỡng của trẻ em Việt nam trong những năm
gần đây, chúng tôi thấy xuất hiện nhiều trẻ béo
phì và/hoặc thừa cân trong dân số bệnh nhi bị
SXH D. Tình trạng béo phì này có thật sự là nguy
cơ cho biểu hiện thể nặng hay không? Hiểu biết
hơn về vấn đề trên, chúng sẽ giúp chúng ta nhận
định được tình trạng nặng nhẹ của trẻ sốt xuất
huyết Dengue một cách rõ ràng hơn.
Mục tiêu nghiên cứu
Khảo sát mối liên quan giữa tình trạng dinh
dưỡng với độ nặng bệnh sốt xuất huyết Dengue
ở trẻ em điều trị tại BV Bệnh Nhiệt Đới từ tháng
9-2010 đến tháng 7-2011, được thể hiện qua 2
mục tiêu chuyên biệt:
- Mô tả tình trạng dinh dưỡng của trẻ bị
sốt xuất huyết Dengue điều trị tại BV Bệnh
Nhiệt Đới.
- Khảo sát mối liên quan giữa tình trạng dinh
dưỡng và độ nặng của trẻ sốt xuất huyết
Dengue.
ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng
Trẻ em dưới 15 tuổi được chẩn đoán nhiễm
Dengue nhập vào khoa Nhi A và khoa
CCHSTCCĐTE Bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới từ
tháng 9/2010 đến tháng 7/2011.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu tiền cứu mô tả cắt ngang.
Cỡ mẫu
Áp dụng công thức sau: N = Z2(1-α)/2x p(1 –
p)/d2 trong đó Z = 1,96 với α = 0,05; độ tin cậy
95%; p = 0,242 tỉ lệ trẻ sốt xuất huyết có béo phì
(11); d = 0,05 sai số cho phép; vậy cỡ mẫu tối
thiểu là N = 282.
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Bệnh nhi < 15 tuổi được chọn vào nghiên cứu
cần thoả các tiêu chí sau:
- Lâm sàng: có những dấu hiệu gợi ý nhiễm
Dengue, dựa theo Hướng Dẫn về chẩn đoán và
điều trị SXH D Bộ Y Tế 2011 (1) như: sốt cao liên
tục, nhức đầu, chán ăn, buồn nôn, đau cơ,
nghiệm pháp dây thắt (±), có xuất huyết da niêm,
tình trạng sốc giảm thể tích vào khoảng ngày 4,
ngày 5 của bệnh (±).
- Được xác định bằng xét nghiệm MAC
ELISA Dengue hoặc NS1 (+).
Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch, hoặc có
bệnh nền mạn tính
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Nội Khoa 160
Định nghĩa biến số tình trạng dinh dưỡng
Đo chiều cao, cân nặng với:
- Thước treo tường với đơn vị tính cm
- Cân Nhơn Hoà “Cân được sản xuất và kiểm
định theo tiêu chuẩn cơ sở công bố: TC 02:2000/NH,
TC 03:2000/NH”) với đơn vị tính kg.
+ Cân nặng theo tuổi, chiều cao theo tuổi, chỉ
số khối cơ thể BMI, được chia theo thang điểm
Z-score của TCYTTG năm 2007(16,17).
Tình trạng dinh
dưỡng
Phân loại theo thang điểm Z-
score
BMI
Suy dinh dưỡng Chỉ số BMI < -2SD
Bình thường -2SD ≤ Chỉ số BMI ≤ 2SD
Béo phì Chỉ số BMI > 2SD
Cân
nặng
theo
tuổi
Nhẹ cân Cân nặng theo tuổi < -2SD
Bình thường -2SD ≤ Cân nặng theo tuổi ≤ 2SD
Thừa cân Cân nặng theo tuổi > 2SD
Chiều
cao
theo
tuổi
Thấp Chiều cao theo tuổi < -2SD
Bình thường -2SD ≤ Chiều cao theo tuổi ≤
2SD
Cao Chiều cao theo tuổi > 2SD
Phân tích số liệu
Sử dụng phần mềm SPSS 16.0; dùng phép
kiểm 2 để so sánh tỉ lệ của một biến số định tính
trong hai nhóm khác nhau; T-test để phân tích sự
khác nhau giữa các biến liên tục; dùng phép kiểm
hồi qui Binary Logistic để đánh giá mối liên hệ
giữa một biến phụ thuộc và các biến độc lập. Tỷ lệ
có khác biệt thống kê với p < 0,05.
KẾT QUẢ
Trong thời gian từ tháng 9/2010 đến tháng
10/2011, chúng tôi đã thu dung được 493 bệnh
nhân tại 2 khoa Nhi A và khoa CCHSTCCĐTE.
Có 437 bệnh nhân được chẩn đoán xác định
nhiễm Dengue bằng xét nghiệm NS1 hoặc MAC
ELISA và được đưa vào nghiên cứu.
Đặc điểm dân số khảo sát
Bảng 1. Đặc điểm dân số khảo sát: (N = 437)
Đặc điểm dịch tễ Tần số Tỉ lệ %
Giới tính Nam 228 52,2
Nữ 209 47,8
Nhóm tuổi ≤ 5 tuổi 49 11,0
6 – 9 tuổi 160 36,8
10–<15 tuổi 228 52,2
Đặc điểm dịch tễ Tần số Tỉ lệ %
Nơi cư ngụ: TP. HCM 328 75,1
Tỉnh 109 24,9
Tình trạng
bệnh
Không sốc 302 69,1
Có sốc 135 30,9
Có tái sốc 44 32,6
Không xuất huyết 399 91,3
Xuất huyết nhẹ 36 8,2
Xuất huyết nặng 2 0,5
Tình trạng dinh dưỡng của trẻ bị sốt xuất
huyết Dengue
Bảng 2. Trị số chiều cao, cân nặng và BMI trung
bình theo nhóm tuổi của toàn dân số:
Nhóm tuổi n
Chiều cao TB
(cm) ± SD
Cân nặng TB
(kg) ± SD
BMI TB ±
SD
1–5 tuổi 49 101,4±11,9 16,9±4.5 16,3±2,9
6–9 tuổi 160 125,3 ± 8,5 25,9 ± 7.5 16,3 ± 3,5
10-15 tuổi 228 149,9 ± 10,7 41,9± 11.6 18,4 ± 3,8
Chiều cao và cân nặng của trẻ tăng dần theo
tuổi; BMI trung bình của nhóm 1-5 tuổi và nhóm
6-9 tuổi tương đương nhau, BMI trung bình của
nhóm 10-15 tuổi thì cao hơn hai nhóm còn lại.
Bảng 3. Trị số cân nặng, chiều cao, và BMI trung
bình của 2 nhóm SXH và sốc SXH:
Đặc điểm
chung
Sốc SXH n= 135 SXH n= 302
p
Mean ± SD Mean ± SD
Chiều cao (cm) 129,5 ± 17,1 138,1 ± 19,9 0,00
Cân nặng (kg) 30,2 ± 11,7 34,6 ± 14,0 0,01
BMI 17,5 ± 3,8 17,4 ± 3,7 0,83
Chiều cao trung bình của nhóm SXH và
nhóm sốc SXH khác biệt với p = 0,00; Cân nặng
trung bình của nhóm SXH và nhóm sốc SXH
khác biệt với p = 0,01; Tuy nhiên BMI trung bình
của 2 nhóm này không khác biệt p = 0,83 (T-test).
Mối liên quan giữa tình trạng dinh dưỡng
và biểu hiện sốc của trẻ SXH
Tình trạng dinh dưỡng dựa vào chiều cao và
cân nặng giữa 2 nhóm SXH có sốc và không sốc
không khác biệt thống kê. Nếu so sánh tình
trạng dinh dưỡng dựa vào BMI, thì tỷ lệ phân bố
bệnh nhân giữa 2 nhóm này có khác biệt thống
kê với p = 0,014.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa I 161
Bảng 4: So sánh tình trạng dinh dưỡng ở 2 nhóm
SXH có sốc và không sốc
Tình trạng dinh dưỡng
Sốc SXH
n(%)
SXH
n (%)
p
Chiều
cao
Thấp (6,7) 10 (3,3)
0.17 Bình thường 119(88,1) 282(93,4)
Cao (5,2) 10 (3,3)
Cân nặng
Nhẹ cân 14 (10,4) 35 (11,6)
0.251 Bình thường 98 (72,6) 233 (77,2)
Thừa cân 23 (17,0) 34 (11,3)
BMI (*)
n = 432
Suy dinh
dưỡng
14 (10,4) 44 (14,8)
0.014
Bình thường 92 (68,7) 222 (74,5)
Béo phì 28 (20,9) 32 (10,7)
(*): Có 4 trường hợp ở nhóm SXH và 1 trường hợp ở
nhóm sốc SXH < 2 tuổi nên không phân loại tình trạng
dinh dưỡng theo BMI.
Và để thấy rõ sự khác biệt về tình trạng
dinh dưỡng này, chúng tôi so sánh suy dinh
dưỡng với bình thường và béo phì với bình
thường như sau:
Biểu đồ 1. So sánh tình trạng dinh dưỡng dựa vào
BMI ở 2 nhóm SXH có sốc và không sốc
Tỷ lệ trẻ béo phì ở nhóm sốc SXH (20,9%) cao
hơn so với nhóm không sốc (10,7%) có khác biệt
thống kê với p=0,008 (Test Chi bình phương).
Bảng 5. Mối liên quan giữa các yếu tố tuổi, giới, dinh
dưỡng với tình trạng sốc: (phân tích đa biến)
Yếu tố dịch tễ OR
Khoảng tin
cậy
p
Tuổi
≤ 5 tuổi 2,16 1,09 – 4,27 0,028
6 – 9 tuổi 2,1 1,34 – 3,28 0,001
10–15 tuổi 1
Dinh dưỡng
theo BMI
Suy dinh
dưỡng
0,72 0,37 – 1,39 0,327
Bình thường 1
Béo phì 1,91 1,08 – 3,39 0,027
Phân tích đa biến các yếu tố liên quan đến
tình trạng sốc, cho thấy: nhóm tuổi ≤ 5 tuổi và 6 –
9 tuổi có nguy cơ vào sốc cao hơn nhóm 10-15
tuổi gấp 2,16 và 2,1 lần với p = 0,028 và p = 0,001.
Nhóm trẻ béo phì có nguy cơ vào sốc cao hơn
nhóm có BMI trong giới hạn bình thường gấp
1,91 lần với p = 0,027.
Mối liên quan giữa tình trạng dinh dưỡng
và biểu hiện tái sốc của trẻ sốc SXH
Nếu so sánh tình trạng dinh dưỡng dựa
vào cân nặng giữa hai nhóm tái sốc và không
tái sốc thì có khác biệt thống kê (p=0,017), còn
nếu tính dinh dưỡng theo BMI thì chỉ khác
biệt với p=0,06.
Bảng 6. So sánh tình trạng dinh dưỡng ở 2 nhóm
SXH có tái sốc và không tái sốc
Tình trạng dinh dưỡng
Có tái sốc
n=44(%)
Không tái
sốc
n=91(%)
p
Chiều cao
Thấp 3 (6,8) 6 (6,6)
0,835 Bình thường 38 (86,4) 81 (89,0)
Cao 3 (6,8) 4 (4,4)
Cân nặng
Nhẹ cân 1 (2,3) 13 (14,3)
0,017 Bình thường 31 (70,5) 67 (73,6)
Thừa cân 12 (27,3) 11 (12,1)
BMI(*)
Suy dinh
dưỡng
1 (2,3) 13 (14,3)
0,064
Bình thường 30 (69,8) 62 (68,1)
Béo phì 12 (27,9) 16 (17,6)
(*): Có 1 trường hợp ở nhóm tái sốc SXH-D < 2 tuổi nên
không phân loại tình trạng dinh dưỡng theo BMI.
Biểu đồ 2. So sánh tình trạng dinh dưỡng dựa vào
cân nặng giữa hai nhóm tái sốc và không tái sốc.
Dựa vào cân nặng theo tuổi, trẻ nhẹ cân ít bị
tái sốc hơn so với trẻ bình thường và thừa cân
(p=0,032), và tỷ lệ trẻ thừa cân ở nhóm tái sốc cao
Tỷ lệ
(%)
Tỷ lệ
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Nội Khoa 162
hơn nhóm không tái sốc với p=0,023 (Test Chi
bình phương).
Bảng 7. Mối liên quan giữa các yếu tố tuổi, giới, thời
điểm vào sốc, sốt khi vào sốc, dinh dưỡng với tình
trạng tái sốc (phân tích đa biến; n = 135)
Phân tích đa biến các yếu tố liên quan đến
tình trạng tái sốc, chỉ có yếu tố thời điểm vào sốc
< 5 ngày là yếu tố nguy cơ gây tái sốc (p=0,008).
Về yếu tố dinh dưỡng, khi so sánh với cân nặng
trung bình, trẻ thừa cân có khuynh hướng vào
tái sốc 2,5 lần (p =0,06).
BÀN LUẬN
Về đặc điểm dân số khảo sát
Giới tính và tuổi
Tỷ lệ nam nữ mắc bệnh sốt xuất huyết
Dengue gần bằng nhau, nam cao hơn nữ với
tỷ lệ 1,09 (52,2%: 47,8%). So với một số nghiên
cứu gần đây của các tác giả tại TP HCM, tỷ lệ
nam nữ cũng khá tương đồng, vào khoảng
1:1(4,7). Lứa tuổi 10-15 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất
52,2%. Tương tự, ở nghiên cứu của tác giả
C.T.Tâm nhóm tuổi > 10 tuổi chiếm tỷ lệ cao
nhất 56,5%(2), Đ. T. H. Tâm năm 2009 và D. B.
Thủy năm 2010 thì nhóm tuổi chiếm tỷ lệ cao
nhất lại là từ 5 – 9 tuổi (tỷ lệ lần lượt là 64,6%
và 74,6%)(4). Trước đây nhóm tuổi mắc SXH –
D phần lớn là từ 5 – 9 tuổi nhưng theo khảo
sát dịch tễ trong khoảng 10 năm gần đây các
tác giả nhận định rằng tỉ lệ người bị nhiễm
SXH – D có khuynh hướng chuyển sang các
lứa tuổi lớn hơn, đặc biệt là tỷ lệ tuổi thanh
niên ngày càng tăng ở nhiều quốc gia.
Tái sốc
Trong nhóm biểu hiện sốc SXH nhập tại
khoa HSCCCĐTE (135 ca) tỷ lệ tái sốc là 32,6%.
Tỷ lệ này cũng tương tự với nghiên cứu của C. T.
Tâm tại BV Bệnh Nhiệt Đới năm 2010, tái sốc
chiếm 30,3%(2), của Đ. T. H. Tâm năm 2009 tái sốc
là 31,9% hay nghiên cứu của P. V. Năm tại BV
Vĩnh Long năm 2004(9) tái sốc là 37,8%, Đây là
một tỷ lệ tương đối khá cao, rất đáng lưu ý trong
các bệnh cảnh nặng của sốt xuất huyết Dengue.
Xuất huyết
Về biểu hiện xuất huyết chúng tôi ghi nhận
được 8,7% (xuất huyết nhẹ chiếm 8,2%, xuất
huyết nặng chỉ có 0,5%)
Tình trạng dinh dưỡng của trẻ bị sốt xuất huyết
Cân nặng trung bình tăng theo từng lớp
tuổi, trong đó nhóm từ 1 – 5 tuổi có cân nặng
trung bình 16,9 ± 4,5 kg, nhóm tuổi từ 6 – 9
tuổi là 25,9 ± 7,4 kg, và nhóm tuổi 10 – 15 tuổi
là 41,9 ± 11,6 kg. Độ lệch chuẩn trong nhóm 1-
5 tuổi nhỏ hơn trong nhóm 10 -15 tuổi, chứng
tỏ là khi trẻ lớn hơn, có thể có nhiều yếu tố
ảnh hưởng đến cân nặng: chế độ dinh dưỡng,
chế độ sinh hoạt Tính về chiều cao, trong
nhóm từ 1 – 5 tuổi chiều cao trung bình là
101,4 ± 11,9 cm, nhóm từ 6 – 9 tuổi là 125,3 ±
8,5 cm và nhóm từ 10 – 15 tuổi là 149,9 ±
10,7cm. Khi so sánh với nghiên cứu của tác giả
Vương Thuận An năm 2009, khảo sát về tình
trạng dinh dưỡng của trẻ 6 -11 tuổi tại trường
tiểu học Kim Đồng tại Tây Ninh, kết quả cũng
gần tương đương với cân nặng trung bình 27,5
± 5,9 kg, chiều cao trung bình 126 ± 5,6 cm(14).
Nếu tính về chỉ số khối cơ thể: BMI trung bình
giữa nhóm 1 – 5 tuổi và 6 – 9 tuổi gần bằng
nhau 16,3 ± 2,9 và 16,3 ± 3,5. Còn ở nhóm 10 –
15 tuổi, BMI trung bình cao hơn hẳn 2 nhóm
tuổi còn lại 18,4 ± 3,8. Điều này cũng khá
tương đồng với BMI của dân số bình thường.
Theo biểu đồ phát triển phân loại BMI theo
tuổi của CDC Hoa Kỳ năm 2000 ta thấy ở bách
phân vị thứ 50 BMI của trẻ từ 2 đến 9 tuổi dao
động từ 15 đến 16,5.
Yếu tố OR Khoảng tin cậy p
Tuổi
≤ 5 tuổi 2,97 0,88 – 9,96 0,078
6 – 9 tuổi 1,49 0,62 – 3,61 0,373
10–15 tuổi 1
Thời điểm
vào sốc
< 5 ngày 3,4 1,38 – 8,36 0,008
≥ 5 ngày 1
Sốt khi vào
sốc
Có 2,75 0,95 – 7,9 0,061
Không 1
Dinh dưỡng
Cân nặng
Nhẹ cân 0,219 0,026 – 1,83 0,16
Bình thường 1
Thừa cân 2,57 0,94 – 6,98 0,065
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa I 163
So sánh tình trạng dinh dưỡng giữa nhóm
SXH và sốc SXH
Chiều cao trung bình của nhóm SXH 138,1
cm ± 19,9, cao hơn nhóm sốc SXH 129,5 cm ± 17,1
với khác biệt thống kê giữa 2 nhóm này là p =
0,01 (T-test). Cân nặng trung bình của nhóm
SXH là 34,6 kg ± 14, cao hơn nhóm sốc SXH là
30,2 kg ± 11,7, sự khác biệt này cũng có ý nghĩa
thống kê với p = 0,01 (T-test). Tuy có sự khác biệt
thống kê về mặt toán học, nhưng chúng tôi
không nghĩ rằng có một ý nghĩa thực tế lâm
sàng: một trẻ thấp và cân nặng nhẹ sẽ bị sốc SXH
hơn là một trẻ cao? Điều này chưa được giải
thích về mặt sinh học. Có lẽ do sốc SXH thì hay
gặp ở trẻ nhỏ hơn trẻ lớn. Tuy nhiên mối tương
quan giữa chiều cao cân nặng sẽ được thể hiện
bằng chỉ số BMI và BMI trung bình của nhóm
SXH là 17,4 ± 3,7, không khác biệt với nhóm sốc
SXH là 17,5 ± 3,8 với p = 0,83 (T-test) (bảng 3).
Mối liên quan giữa tình trạng dinh dưỡng
và tình trạng vào sốc trong SXHD
Nếu xét tình trạng dinh dưỡng dựa trên
BMI, thì thấy có khác biệt rõ ràng giữa 3 nhóm
suy dinh dưỡng, trung bình và béo phì.
(p=0,014) (bảng 4). Để thấy rõ sự khác biệt
nằm ở nhóm nào chúng tôi so sánh nhóm béo
phì với nhóm bình thường và nhóm suy dinh
dưỡng với nhóm bình thường: nhóm sốc SXH
có tỷ lệ béo phì cao 23,3% so với nhóm không
sốc là 12,6%, (p=0,008) và tỷ lệ suy dinh dưỡng
ở nhóm sốc SXH là 13,2%, thấp hơn nhóm
không sốc 16,5%, tuy chưa khác biệt thống kê
(biểu đồ 1). Vậy béo phì là một yếu tố quan
trọng, mang ý nghĩa khi điều trị một trẻ em
SXH D. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu
của tác giả Thái Lan, N.Pichainarong và cộng
sự tại Bangkok năm 2002-2003(10), so sánh giữa
2 nhóm SXHD không sốc (105 ca) và có sốc
(105 ca) (dựa vào cân nặng theo tuổi và cân
nặng theo chiều cao). Kết quả cho thấy trẻ béo
phì có khuynh hướng dễ bị sốc SXH hơn so
với trẻ không béo phì (OR= 2,77, CI 95%:1,19-
6,45, p=0,001). Khi tiến hành phân tích đa biến
chúng tôi thấy nhóm trẻ béo phì có nguy cơ
vào sốc cao hơn nhóm có BMI trong giới hạn
bình thường gấp 1,91 lần với p = 0,027, nhóm
suy dinh dưỡng nguy cơ vào sốc không khác
biệt với nhóm dinh dưỡng bình thường theo
BMI (bảng 5).
Mối liên quan giữa tình trạng dinh dưỡng
và tái sốc trong SXH
Trong 135 trẻ có sốc của nghiên cứu, chúng
tôi ghi nhận có 44 trường hợp tái sốc (tỷ lệ
32,6%). Khi so sánh tình trạng dinh dưỡng (dựa
vào chiều cao, cân nặng và BMI theo tuổi), chúng
tôi thấy rằng ở nhóm dựa vào cân nặng theo
tuổi, có sự khác biệt thống kê p=0,017 Tỷ lệ phân
phối giữa cân nặng theo tuổi và BMI theo tuổi
khá tương đương (tỷ lệ trẻ nhẹ cân/trẻ suy dinh
dưỡng bị tái sốc chỉ có 2,3% so với trẻ không tái
sốc 14,3%, còn trẻ thừa cân/trẻ béo phì bị tái sốc
là 27%, so với trẻ không tái sốc là 12,1 và 17,6%)
nhưng sự khác biệt về BMI chỉ là 0,06 (bảng 6).
So với những nghiên cứu tìm hiểu về bệnh cảnh
tái sốc: tác giả L.T.Khanh(7) ghi nhận trẻ béo phì
có khả năng tái sốc gấp 2,8 lần so với trẻ không
béo phì, tuy nhiên điều này chưa có ý nghĩa
thống kê (p=0,13). Phải chăng số lượng ca bệnh
(n=48) so với 85 ca chứng của tác giả chưa đủ
nhiều để kết luận? Còn nghiên cứu của tác giả
T.V.Trầm(12) cho biết tỷ lệ suy dinh dưỡng 6,3% ở
nhóm sốc kéo dài và 11,3% ở nhóm sốc khác biệt
không có ý nghĩa thống kê p = 0,19.
Biểu đồ 2 cho thấy tỷ lệ trẻ nhẹ cân ở nhóm
tái sốc chỉ chiếm 2,3% so với 14,3% ở nhóm
không tái sốc, có thể nói là trẻ nhẹ cân ít bị tái sốc
hơn so với trẻ bình thường và thừa cân (p=0,032),
còn tỷ lệ trẻ thừa cân ở nhóm tái sốc cao hơn
(27,9%) so với nhóm không tái sốc (17,6%), với
khác biệt có ý nghĩa thống kê (p=0,028) (Test Chi
bình phương). Khi tiến hành phân tích đa biến
các yếu tố như tuổi, thời điểm vào sốc, sốt khi
vào sốc và tình trạng dinh dưỡng chúng tôi ghi
nhận trẻ thừa cân có nguy cơ tái sốc gấp 2,57 lần
so với trẻ bình thường, mặc dù xét về thống kê
thì p = 0,065, và khoảng tin cậy 95% là 0,94 đến
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Nội Khoa 164
6,98. Chúng tôi nghĩ rằng điều này có thể do cỡ
mẫu của chúng tôi chưa đủ lớn (44 ca tái sốc) nên
sự khác biệt chưa thấy rõ. Nhưng rõ ràng đây
cũng là một yếu tố mà chúng ta cần quan tâm
trong điều trị SXH.
KẾT LUẬN
Qua khảo sát 437 trường hợp bi SXH
Dengue, chúng tôi nhận thấy trẻ béo phì/thừa
cân có nguy cơ vào sốc và/hoặc tái sốc hơn so với
trẻ có tình trạng dinh dưỡng bình thường. Trẻ
suy dinh dưỡng/nhẹ cân lại ít bị nguy cơ này
hơn. Do đó, trong thực hành lâm sàng với bệnh
nhi bị sốt xuất huyết Dengue, cần phải đo chiều
cao, cân nặng của trẻ để đánh giá đúng đắn tình
trạng dinh dưỡng.Trẻ béo phì cần được theo dõi
sát hơn về sinh hiệu cũng như dung tích hồng
cầu do nguy cơ dễ vào sốc hoặc có khuynh
hướng dễ vào tái sốc hơn trẻ bình thường.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Y Tế Việt Nam (2011). Hướng dẫn chẩn đoán, điều trị sốt
xuất huyết Dengue.
2. Cao Thị Tâm (2010). Mối liên quan giữa nhóm máu ABO và
bệnh nhiễm Dengue cấp ở trẻ em. Luận văn bác sỹ chuyên
khoa II chuyên ngành Nhiễm, Đại học Y Dược thành phố Hồ
Chí Minh.
3. Đông Thị Hoài Tâm (2008).Các yếu tố nguy cơ tái sốc trong
điều trị sốc sốt xuất huyết Dengue tại Bệnh viện bệnh Nhiệt
Đới. Y Học TP. Hồ Chí Minh, chuyue6n đề Nội khoa, tập 14,
phụ bản số 1, tr 424 – 428.
4. Dương Bích Thủy (2010). Diễn tiến điều trị trẻ em sốt xuất
huyết Dengue tái sốc tại bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới. Luận văn
bác sỹ nội trú chuyên ngành Nhiễm, Đại Học Y Dược thành
phố Hồ Chí Minh
5. Gubler DJ, (1988). Dengue. Monath TP, ed. Epidemiology of
Arthropod-Borne Viral Disease. Boca Raton, FL: CRC Press Inc,
224–253.
6. Kalayanarooj S, Nimmannitya S (2005), Is Dengue severity
related to nutritional status? Southeast Asian J Trop Med Public
Health, Vol 36: 378-384.
7. Lý Tố Khanh (2008), Các yếu tố liên quan đến tái sốc trong sốc
sốt xuất huyết Dengue tại Bệnh viện Nhi Đồng 1. Y Học TP. Hồ
Chí Minh, tập 13, phụ bản số 1, tr 200 – 206.
8. Nguyễn Thanh Hùng (2005). Association between sex,
nutritional status, severity of Dengue Hemorrhagic fever, and
immune status in infants with Dengue Hemorrhagic fever. Am
J Trop Med Hyg, 72(4):370-374.
9. Phan Văn Năm (2004). Các yếu tố liên quan đến tái sốc trong
sốc sốt xuất huyết Dengue ở khoa Nhi bệnh viện Đa khoa Vĩnh
Long. Y Học TP. Hồ Chí Minh, tập 12, phụ bản số 4, tr 41 – 45.
10. Pichainarong N (2006). Relationship between body size and
severity of Dengue hemorrhagic fever among children aged 0 –
14 years. Southeast Asian J Trop Med Public Health, Vol 37:
283-288
11. Suvatte V (1981). Immunological aspects of Dengue
hemorrhagic fever studies in Thailand. Southeast Asian j. Trop.
Med. Pub.Health, Vol 18, 360-366.
12. Tạ Văn Trầm (2003). Các yếu tố liên quan đến sốc sốt xuất
huyết Dengue kéo dài ở trẻ em tại BV. Nhi Đồng 1 TP. HCM và
BV. Đa khoa Tiền Giang. Luận án tiến sỹ, Đại học Y Dược
thành phố Hồ Chí Minh.
13. Tantracheewathorn T et al (2007). Risk Factors of Dengue
Shock Syndrome in Children. J Med Assoc Thai; 90 (2): 272-277.
14. Vương Thuận An (2010). Tình trạng dinh dưỡng và một số yếu
tố liên quan của trẻ lứa tuổi từ 6 đến 11 tại trường tiểu học Kim
Đồng thị xã Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh.Y Học TP. Hồ Chí Minh,
tập 14, phụ bản số 2, tr 306-311.
15. World Health Organization (1997). Dengue Hemorrhagic
Fever: Diagnosis, Treatment, Prevention and Control. Second
edition. Geneva: WHO.
16. World Health Organization (2007). Global Database on Child
Growth and Malnutrition: growth reference data for 5–19
years.
17. World Health Organization (2007). WHO Global Database on
Child Growth and Malnutrition: description .
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- moi_lien_quan_giua_tinh_trang_dinh_duong_va_do_nang_benh_sot.pdf