Theo khoản 1 Điều 419 BLDS 2015,
thiệt hại được bồi thường do vi phạm nghĩa
vụ theo hợp đồng được xác định theo quy
định tại khoản 2 Điều 419; Điều 13 và Điều
360 BLDS 2015. Trong khi đó, Điều 13 và
Điều 360 BLDS 2015 chỉ nêu nguyên tắc
chung là nếu một bên gây thiệt hại cho một
bên khác thì phải bồi thường cho bên này
toàn bộ thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác hay luật có quy định khác. Khoản
2 Điều 419 BLDS 2015 chỉ đề cập thiệt hại
là lợi ích mà lẽ ra người có quyền (bên bị
vi phạm) sẽ được hưởng do hợp đồng mang
lại và các chi phí phát sinh do không hoàn
thành nghĩa vụ làm chấm dứt hợp đồng mà
không trùng lặp với mức bồi thường thiệt
hại cho lợi ích mà hợp đồng mang lại. Theo
chúng tôi, rất khó để xác định được các loại
thiệt hại mà bên bị vi phạm có thể yêu cầu
bồi thường từ các quy định này. Vì vậy, để
áp dụng những quy định này trên thực tế,
cần ban hành hướng dẫn làm cơ sở thống
nhất về nhận thức và áp dụng khi cơ quan
nhà nước có thẩm quyền giải quyết tranh
chấp liên quan đến nội dung này.
Bên cạnh đó, Điều 362 BLDS 2015
quy định: “Bên có quyền phải áp dụng các
biện pháp cần thiết, hợp lý để thiệt hại không
xảy ra hoặc hạn chế thiệt hại cho mình”.
Nghiên cứu nội dung quy định này có thể
thấy sự bất lợi dành cho bên có quyền và nếu
áp dụng trong thực tế sẽ không khả thi. Bởi
theo quy định, bên có quyền phải có nghĩa
vụ áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý
để thiệt hại không xảy ra. Nội dung này có
thể bị bên vi phạm chấm dứt hợp đồng sẽ
lợi dụng, dẫn tới việc bên bị vi phạm có thể
sẽ không nhận được khoản tiền bồi thường
thiệt hại nào cả.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 342 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số bất cập trong quy định về chấm dứt hợp đồng theo pháp luật dân sự Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỘT SỐ BẤT CẬP TRONG QUY ĐỊNH VỀ CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG
THEO PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
Tóm tắt:
Hợp đồng dân sự cũng trải qua các giai đoạn phát sinh, phát triển
và chấm dứt. Tuy nhiên, khác với các sự vật, hiện tượng khác, hợp
đồng dân sự bao giờ cũng được phát sinh từ những hành vi có ý
thức của các chủ thể. Vì vậy, các sự kiện làm chấm dứt một hợp
đồng dân sự không phải là các biến sinh do sự vận động của tự
nhiên mà đó là những sự kiện được xuất hiện từ hành vi có thức
của các chủ thể hoặc do pháp luật quy định.
Hồ Thị Vân Anh*
* TS. Khoa Luật Dân sự Đại học Luật - Đại học Huế.
Abstract
Civil contracts normally go through stages of preparation,
development and termination. However, unlike other things and
phenomena, the civil contracts are always derived from conscious
acts of subjects. Therefore, the events that lead to termination of a
civil contract are not variations due to the movement of nature but
those that arise from the conscious behavior of subjects or by the
applicable law.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Bộ luật Dân sự, chấm dứt
hợp đồng
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 12/04/2018
Biên tập : 23/04/2018
Duyệt bài : 26/04/2018
Article Infomation:
Keywords: Civil Code; contract
termination
Article History:
Received : 12 Apr. 2018
Edited : 23 Apr. 2018
Approved : 26 Apr. 2018
1. Quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015
về chấm dứt hợp đồng
Chấm dứt hợp đồng khi hợp đồng đã
được hoàn thành
Khi các bên tham gia hợp đồng đã thực
hiện toàn bộ nội dung của nghĩa vụ và mỗi
bên đều đã đáp ứng được quyền dân sự của
mình thì hợp đồng được coi là hoàn thành.
Hay nói cách khác, hợp đồng được coi là đã
hoàn thành khi các bên trong hợp đồng đã
thực hiện đúng và đủ những nghĩa vụ theo
hợp đồng. Vậy, thế nào là thực hiện đúng và
thực hiện đủ nghĩa vụ theo hợp đồng?
Trên thực tế, nếu một bên trong hợp
đồng dù chưa thực hiện xong toàn bộ hợp
đồng nhưng cũng đã thực hiện xong một
phần đáng kể công việc và nghĩa vụ trong
hợp đồng thì người này có quyền yêu cầu bên
kia thanh toán tương ứng với phần nghĩa vụ
đã thực hiện xong hay không? Và lúc này,
hợp đồng có được coi là chấm dứt do hợp
đồng đã hoàn thành hay không. Bộ luật Dân
sự (BLDS) năm 2015 vẫn chưa có quy định
cụ thể cho những trường hợp này.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
106 Số 2+3(378+379) T1/2019
Chấm dứt hợp đồng khi hợp đồng bị
hủy bỏ, bị đơn phương chấm dứt thực hiện
- Các căn cứ hủy bỏ hợp đồng được
quy định tại Điều 423, Điều 424, Điều 425,
Điều 426 của BLDS 2015. Thực tế cho thấy
đã phát sinh những vấn đề như sau:
Một là, trong quá trình thực hiện hợp
đồng, hợp đồng có thể bị chấm dứt hoặc bị
hủy bỏ, tuy nhiên, hậu quả pháp lý của việc
hủy bỏ hợp đồng sẽ trở nên rất bất lợi cho
bên vi phạm, bởi lẽ khi hợp đồng bị hủy bỏ,
hợp đồng có thể không có hiệu lực toàn bộ
hoặc một phần. Tuy nhiên với hợp đồng được
coi là không có hiệu lực một phần nếu trong
hợp đồng có thỏa thuận về phạt vi phạm, thỏa
thuận về bồi thường thiệt hại cũng như thỏa
thuận về giải quyết tranh chấp1. Quy định này
cho thấy chỉ một sự vi phạm nhưng có thể
xảy ra nhiều hậu quả như: hợp đồng bị hủy
bỏ, bên vi phạm bị phạt vi phạm, bên vi phạm
phải bồi thường thiệt hại và những thỏa thuận
về giải quyết tranh chấp. Việc quy định hậu
quả của hủy bỏ hợp đồng như vậy còn chưa
phù hợp vì nó khiến bên vi phạm dù nặng hay
nhẹ cũng phải chịu quá nhiều hậu quả. Điều
này không phù hợp với nguyên tắc bình đẳng
được quy định tại Điều 3 BLDS 2015, đồng
thời cũng không phù hợp với lẽ công bằng
mà các quan hệ dân sự đều hướng tới.
Hai là, BLDS 2015 đã bao hàm một
số điều khoản về chấm dứt, hủy bỏ hợp
đồng nhưng chưa đầy đủ. Trong pháp luật
nhiều nước trên thế giới2, bên cạnh phần
điều chỉnh cho phép chấm dứt, hủy bỏ hợp
đồng khi một bên không thực hiện đúng hợp
đồng, còn chứa đựng những điều khoản quy
định một cách bao quát những trường hợp
được hủy bỏ hợp đồng khi một bên không
được thực hiện đúng hợp đồng. Cách điều
chỉnh này sẽ cho phép hủy bỏ, chấm dứt
1 PGSTS. Nguyễn Văn Cừ, PGS.TS. Trần Thị Huệ, Bình luận khoa học BLDS 2015 của nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam, Nxb. Công an nhân dân, 2017, tr. 639.
2 PGS.TS. Đỗ Văn Đại, Luật Hợp đồng Việt Nam - Bản án và bình luận bản án, tập 2, Nxb. Chính trị Quốc gia, 2014, tr. 591.
3 PGS.TS. Đỗ Văn Đại, Luật Hợp đồng Việt Nam - Bản án và bình luận bản án, Sđd, tr. 591.
hợp đồng khi các quy phạm điều chỉnh hợp
đồng thông dụng không đầy đủ hoặc khi hợp
đồng không phải là hợp đồng thông dụng mà
phần riêng có đề cập3. Vì vậy, trên thực tế có
nhiều trường hợp có hành vi vi phạm có thể
dẫn đến hậu quả chấm dứt hợp đồng nhưng
lại không được quy định trong BLDS 2015,
cụ thể như sau:
Theo quy định của khoản 1 Điều 428
BLDS 2015, hành vi đơn phương chấm dứt
hợp đồng được thừa nhận trong ba trường
hợp: (1) Bên kia vi phạm nghiêm trọng
nghĩa vụ trong hợp đồng; (2) Xảy ra điều
kiện mà các bên đã thỏa thuận trước; (3)
Xảy ra điều kiện do pháp luật quy định. Các
hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng
nằm ngoài ba trường hợp này bị coi là hành
vi vi phạm hợp đồng và bên vi phạm sẽ phải
chịu trách nhiệm pháp lý theo quy định của
pháp luật. Như vậy, theo quy định này, một
bên có quyền đơn phương chấm dứt hợp
đồng và không phải bồi thường thiệt hại
khi bên kia vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ
trong hợp đồng hoặc các bên có thỏa thuận
hoặc pháp luật có quy định. Thông thường,
theo nguyên tắc chung thực hiện hợp đồng
thì hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng
không phải là hành vi hợp pháp và bị coi là
vi phạm hợp đồng. Tuy nhiên, trong những
trường hợp nhất định, để bảo vệ quyền lợi
của một bên nào đó (chủ yếu là bên bị vi
phạm), pháp luật quy định quyền được đơn
phương chấm dứt hợp đồng của bên đó.
Theo quy định, bên đơn phương chấm
dứt thực hiện hợp đồng phải thông báo
ngay cho bên kia biết về việc chấm dứt hợp
đồng, nếu không thông báo mà gây thiệt hại
thì phải bồi thường. Khi hợp đồng bị đơn
phương chấm dứt thực hiện thì hợp đồng
chấm dứt kể từ thời điểm bên kia nhận được
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
107Số 2+3(378+379) T1/2019
thông báo chấm dứt. Đây chính là điểm khác
biệt giữa hủy bỏ hợp đồng và đơn phương
chấm dứt hợp đồng. Trên thực tế, quy định
này vẫn phát sinh những vướng mắc sau:
Thứ nhất, khoản 1 Điều 428 BLDS
2015 quy định quyền này có được: “ nếu
các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có
quy định”. Quy định đó ngắn gọn và hợp
lý nhưng chưa trù liệu đến trường hợp các
bên không thỏa thuận nêu rõ các điều kiện
để một bên có quyền đơn phương chấm dứt
hợp đồng.
Thứ hai, BLDS 2015 chưa quy định
về trường hợp đơn phương chấm dứt hợp
đông với các loại hợp đồng như: hợp đồng
mua bán tài sản, hợp đồng vay tài sản, hợp
đồng mượn tài sản, hợp đồng hợp tác
Thứ ba, khoản 2 Điều 428 BLDS 2015
quy định: “Bên đơn phương chấm dứt thực
hiện hợp đồng phải thông báo ngay cho bên
kia biết về việc chấm dứt hợp đồng, nếu
không thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi
thường”. Tuy nhiên, BLDS 2015 chưa quy
định rõ một số vấn đề có liên quan như: thời
gian thông báo, nội dung thông báo và trong
thời hạn thông báo chấm dứt hợp đồng thì
các bên có thực hiện tiếp nghĩa vụ của hợp
đồng hay không.
Thứ tư, BLDS 2015 chưa quy định rõ
căn cứ xác lập trách nhiệm bồi thường, cách
thức xác định trách nhiệm bồi thường và mức
bồi thường thiệt hại khi các bên đương phương
chấm dứt thực hiện hợp đồng.
Hợp đồng chấm dứt do hoàn cảnh
thay đổi cơ bản
Khoản 1 Điều 420 BLDS 2015 đã đưa
ra 5 điều kiện áp dụng quy định về hoàn
cảnh thay đổi. Và khi có đủ 5 điều kiện đó
mà các bên thỏa thuận không thành công về
việc sửa đổi hợp đồng, một trong các bên có
4 Trong tiếng Anh, từ “effect” thường được sử dụng để chỉ hậu quả pháp lý của việc hủy bỏ hợp đồng.
5 Viện Ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, 2006, tr.431.
quyền yêu cầu Tòa án chấm dứt hợp đồng
tại một thời điểm xác định. Đây là quy định
mới nên có một số vấn đề cần được trao đổi
như sau:
- Theo quy định của điểm c khoản 1
Điều 420 BLDS 2015, thì “hoàn cảnh thay
đổi lớn đến mức nếu như các bên biết trước
thì hợp đồng đã không được giao kết hoặc
được giao kết nhưng với nội dung hoàn toàn
khác”. Quy định này cần được hướng dẫn
cụ thể, bởi đây là điều kiện trung tâm để xác
định sự thay đổi cơ bản của hoàn cảnh.
- Khoản 3 Điều 420 BLDS 2015 quy
định, trường hợp các bên không thể thỏa
thuận về việc sửa đổi hợp đồng trong một
thời hạn hợp lý, thì một trong các bên có thể
yêu cầu tòa án sửa đổi hoặc chấm dứt hợp
đồng. Tuy nhiên, “Tòa án chỉ được quyết
định việc sửa đổi hợp đồng trong trường hợp
việc chấm dứt hợp đồng sẽ gây thiệt hại lớn
hơn so với các chi phí để thực hiện hợp đồng
nếu được sửa đổi”. Ở đây cần làm rõ khái
niệm “thiệt hại” và “các chi phí để thực hiện
hợp đồng”. Cụ thể, thiệt hại mà việc chấm
dứt hợp đồng gây ra cho bên nào sẽ được sử
dụng để so sánh với các chi phí để thực hiện
hợp đồng? Thậm chí là có tính toán đến chi
phí, lợi ích của người thứ ba hay không?
Hậu quả pháp lý của chấm dứt hợp
đồng
“Hậu quả”4, hiểu theo nghĩa thông
thường, là kết quả không hay về sau5. Hậu
quả của việc chấm dứt hợp đồng là những
kết quả không hay mà một bên hoặc các
bên tham gia hợp đồng phải gánh chịu khi
hợp đồng bị chấm dứt. Hợp đồng bị chấm
dứt, có thể dẫn đến nhiều hậu quả khác
nhau, trong đó đáng chú ý, có ý nghĩa quan
trọng và tất yếu đối với các bên là hậu quả
pháp lý. Hợp đồng bị chấm dứt, sẽ dẫn đến
những tác động nhất định đến quyền và
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
108 Số 2+3(378+379) T1/2019
nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng.
Chính vì thế, để bảo vệ quyền lợi cho các
bên khi hợp đồng bị chấm dứt, pháp luật
cần có quy định về hậu quả của việc chấm
dứt hợp đồng.
Điều 427 BLDS 2015 quy định “Khi
hợp đồng bị hủy bỏ thì hợp đồng không có
hiệu lực từ thời điểm giao kết, các bên không
thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận, trừ thỏa
thuận về phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại
và thỏa thuận về giải quyết tranh chấp. Bên
đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên
kia thanh toán phần nghĩa vụ đã thực hiện”.
Quy định nói trên của BLDS năm 2015
là một trong những điểm mới, tiến bộ hơn so
với BLDS 2005, nhưng so sánh với pháp luật
một số quốc gia hay một số văn bản quốc tế6
cho thấy, phạm vi thỏa thuận còn hiệu lực như
là hệ quả của việc hợp đồng bị hủy bỏ quy
định tại khoản 1 Điều 427 mang tính “đóng”,
thiếu sự linh hoạt, chưa có giải pháp khi hợp
đồng bị hủy bỏ đối với bên thứ ba7.
Bên cạnh đó, BLDS 2015 chưa quy
định hoàn trả những gì đã nhận như là điều
kiện hủy bỏ hợp đồng mà thay vào đó quy
định hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng là
hoàn trả những gì đã nhận. Điều này, dẫn tới
tình huống khi hợp đồng bị hủy bỏ nhưng các
bên không thể hoàn trả cho nhau những gì đã
nhận. Khi đó, sự bình đẳng về lợi ích của các
bên khó có thể được đảm bảo.
6 Chẳng hạn, Điều 6:721 BLDS Hà Lan quy định “hủy bỏ hợp đồng miễn trừ các bên khỏi nghĩa vụ hợp đồng. Cơ sở
pháp lý cho việc thực hiện nghĩa vụ vẫn còn hiệu lực cho đến khi nghĩa vụ đã được thực hiện nhưng các bên có nghĩa
vụ hủy bỏ những gì đã nhận bởi hiệu lực của hợp đồng bị hủy bỏ. Hay hủy hợp đồng “không ảnh hưởng đến quyền của
bên thứ ba có thiện chí” Nếu nợ có bảo đảm thì khoản nợ đó không rút khỏi hợp đồng hoặc việc bảo đảm”, “chấm
dứt quyền và nghĩa vụ hợp đồng không ảnh hưởng tới giá trị của các điều khoản liên quan đến thanh quyết toán”. Các
dự thảo BIDS (sửa đổi) trước tại Kỳ họp thứ 8, 9 cũng tồn tại quy định tương tự nhưng tiếc rằng những quy định đó đã
không được thông qua trong BLDS năm 2015.
Công ước Viên, bên cạnh quy định việc hủy hợp đồng giải phóng các bên khỏi thực hiện nghĩa vụ hợp đồng trừ nghĩa vụ
bồi thường thiệt hại, thỏa thuận về giải quyết tranh, Công ước còn quy định các bên phải thực hiện các quyền và nghĩa
vụ phát sinh từ việc hủy hợp đồng. Tương tự, Điều 7.3.5 PICC quy định “2) Chấm dứt hợp đồng không loại trừ quyền
yêu cầu bồi thường thiệt hại cho việc không thực hiện; 3) Chấm dứt hợp đồng không ảnh hưởng tới các điều khoản
hợp đồng về giải quyết tranh chấp hay tới mọi điều khoản khác có hiệu lực kể cả trong trường hợp huỷ hợp đồng” hay
khoản 2 Điều 9:305 PECL quy định “chấm dứt hợp đồng không ảnh hưởng đến bất kỳ quy định hợp đồng nào để giải
quyết tranh chấp hoặc bất kỳ quy định nào khác để thực hiện sau khi hợp đồng bị chấm dứt.
7 TS. Võ Sỹ Mạnh, Hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng theo BLDS 2015, Tạp chí Kinh tế đối ngoại, Số 86, 2017.
BLDS 2015 vẫn giữ nguyên quy định
của BLDS 2005 về nghĩa vụ hoàn trả bằng
hiện vật, nếu không hoàn trả được bằng hiện
vật thì được trị giá thành tiền để hoàn trả.
Tuy nhiên, Bộ luật không quy định rõ việc
hoàn trả có bao gồm những hoa lợi, lợi tức
mà bên kia nhận được từ việc thực hiện hợp
đồng bị hủy bỏ, đặc biệt khi đối tượng phải
hoàn lại là một khoản tiền thì vấn đề lãi suất
sẽ được giải quyết như thế nào?
Phạt vi phạm hợp đồng
Trong các hình thức trách nhiệm dân
sự khi chấm dứt hợp đồng thì phạt vi phạm
hợp đồng, bồi thường thiệt hại hợp đồng là
những hình thức trách nhiệm thông dụng
nhất. Đây là hình thức trách nhiệm dân sự
cho các bên thỏa thuận ghi trong hợp đồng,
nhằm buộc bên có hành vi gây ra thiệt hại
phải khắc phục hậu quả bằng cách đền bù
tổn thất cho bên bị thiệt hại. Trên thực tế
giao kết hợp đồng dân sự hiện nay, hầu hết
đều có thỏa thuận vi phạm hợp đồng; bồi
thường thiệt hại do chấm dứt hợp đồng, hoặc
các biện pháp này được thỏa thuận kèm theo
với biện pháp chấm dứt hợp đồng.
Điều 418 BLDS 2015, quy định về
phạt vi phạm. Nghiên cứu nội dung quy định
này có thể hiểu, không có giới hạn về mức
phạt vi phạm trong dân sự khi chấm dứt hợp
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
109Số 2+3(378+379) T1/2019
đồng, các bên có thể thỏa thuận chỉ bị phạt
vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại.
Nếu trong trường hợp có thỏa thuận phạt vi
phạm, nhưng không đề cập việc vẫn phải bồi
thường thiệt hại thì bên vi phạm sẽ không phải
bồi thường thiệt hại.
Theo quy định tại Điều 418 BLDS
2015, các bên có thể thỏa thuận về việc bên
vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm
mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa
phải chịu phạt vi phạm vừa phải bồi thường
thiệt hại. Các bên có thể thỏa thuận trước về
việc bồi thường thiệt hại cũng như xác định
trước trong hợp đồng một mức bồi thường
cụ thể bằng tiền. Tuy nhiên, khác với phạt
vi phạm là chỉ được áp dụng nếu như các
bên có thỏa thuận trước về phạt vi phạm, đối
với bồi thường thiệt hại, cho dù các bên có
thỏa thuận về vấn đề bồi thường thiệt hại do
vi phạm hợp đồng hay không, thì khi xảy
ra thiệt hại, bên gây thiệt hại vẫn phải bồi
thường theo quy định của pháp luật. Trách
nhiệm bồi thường thiệt hại nhắm tới mục
đích quan trọng nhất là bồi hoàn, bù đắp,
khôi phục lợi ích vật chất bị thiệt hại cho bên
bị vi phạm. Như vậy, bồi thường thiệt hại là
chế tài quan trọng và cơ bản nhất nhằm bảo
đảm lợi ích cho các bên khi hợp đồng bị vi
phạm, tạo ra khả năng đảm bảo lợi ích một
cách tối đa cho mọi bên có liên quan trong
quan hệ hợp đồng. Chính vì thế, chế tài này
được áp dụng cho hầu hết các hành vi làm
chấm dứt hợp đồng.
Điều 13 BLDS 2015 quy định: “Cá
nhân, pháp nhân có quyền dân sự bị xâm
phạm được bồi thường toàn bộ thiệt hại, trừ
trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc
luật có quy định khác”. Điều 360 BLDS
2015 quy định về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ: “Trường hợp
có thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ gây ra thì
bên có nghĩa vụ phải bồi thường toàn bộ
thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác
hoặc luật có quy định khác”.
Quy định này được hiểu: Bên vi phạm
nghĩa vụ làm chấm dứt hợp đồng, mà hành
vi vi phạm gây thiệt hại cho bên khi, thì phải
có trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Trừ khi
các bên có thỏa thuận khác, hoặc luật có quy
định khác.
Theo khoản 1 Điều 419 BLDS 2015,
thiệt hại được bồi thường do vi phạm nghĩa
vụ theo hợp đồng được xác định theo quy
định tại khoản 2 Điều 419; Điều 13 và Điều
360 BLDS 2015. Trong khi đó, Điều 13 và
Điều 360 BLDS 2015 chỉ nêu nguyên tắc
chung là nếu một bên gây thiệt hại cho một
bên khác thì phải bồi thường cho bên này
toàn bộ thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác hay luật có quy định khác. Khoản
2 Điều 419 BLDS 2015 chỉ đề cập thiệt hại
là lợi ích mà lẽ ra người có quyền (bên bị
vi phạm) sẽ được hưởng do hợp đồng mang
lại và các chi phí phát sinh do không hoàn
thành nghĩa vụ làm chấm dứt hợp đồng mà
không trùng lặp với mức bồi thường thiệt
hại cho lợi ích mà hợp đồng mang lại. Theo
chúng tôi, rất khó để xác định được các loại
thiệt hại mà bên bị vi phạm có thể yêu cầu
bồi thường từ các quy định này. Vì vậy, để
áp dụng những quy định này trên thực tế,
cần ban hành hướng dẫn làm cơ sở thống
nhất về nhận thức và áp dụng khi cơ quan
nhà nước có thẩm quyền giải quyết tranh
chấp liên quan đến nội dung này.
Bên cạnh đó, Điều 362 BLDS 2015
quy định: “Bên có quyền phải áp dụng các
biện pháp cần thiết, hợp lý để thiệt hại không
xảy ra hoặc hạn chế thiệt hại cho mình”.
Nghiên cứu nội dung quy định này có thể
thấy sự bất lợi dành cho bên có quyền và nếu
áp dụng trong thực tế sẽ không khả thi. Bởi
theo quy định, bên có quyền phải có nghĩa
vụ áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý
để thiệt hại không xảy ra. Nội dung này có
thể bị bên vi phạm chấm dứt hợp đồng sẽ
lợi dụng, dẫn tới việc bên bị vi phạm có thể
sẽ không nhận được khoản tiền bồi thường
thiệt hại nào cả.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
110 Số 2+3(378+379) T1/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_bat_cap_trong_quy_dinh_ve_cham_dut_hop_dong_theo_phap.pdf