Số lần phẫu thuật
Số trường hợp thực hiện phẫu thuật 1 lần
87,5%, 2 lần 8,9%, 3 lần 3,6%.
Điều trị phẫu thuật
Cách phẫu thuật trong tất cả các trường hợp
(100%) là xén thành dạ dày, khâu lại dạ dày, rửa
bụng và dẫn lưu.
Nhiều kỹ thuật được sử dụng để giải quyết
những trường hợp lỗ thủng lớn hoặc hoại tử
nhiều đòi hỏi phải cắt dạ dày toàn phần hoặc
bán phần. Biện pháp được chọn lựa là cắt dạ dày
bán phần và tái tạo bằng cách nối thực quản – dạ
dày(1). Nhiều kỹ thuật tái tạo được sử dụng
trong trường hợp cắt toàn bộ dạ dày được báo
cáo gồm hạ đại tràng ngang, nối thực quản –
hỗng tràng kiểu Roux – en – Y và tái tạo túi cùng
kiểu Hunt – Lawrence(1,2,7).
Sau khi cắt dạ dày toàn phần, nếu tình
trạng trẻ chưa ổn định, việc tái tạo có thể được
trì hoãn hoặc tiến hành làm nhiều giai đoạn.
Khi phẫu thuật lần đầu, có thể đóng thực quản
và đặt một ống nuôi ăn qua đoạn xa dạ dày.
Thực quản được giải áp qua một ống thông
mũi thực quản và đứa trẻ cần được nuôi ăn
tĩnh mạch cho đến khi trẻ có thể ăn qua ống
nuôi ăn. Giai đoạn cuối của quá trình tái tạo
được tiến hành nhiều tuần sau đó khi tình
trạng lâm sàng và tình trạng dinh dưỡng của
trẻ được cải thiện. Sau khi giải quyết lỗ thủng,
nên rửa dạ dày bằng dung dịch saline ấm.
Nhiều phẫu thuật viên đề nghị rửa bằng dung
dịch kháng sinh. Dẫn lưu phúc mạc không cần
thiết trong hầu hết các trường hợp sửa chữa
ban đầu. Đóng mạc nối bằng chỉ hấp thu(13,14,15).
Bệnh lý ngoại khoa đi kèm
Có 14,3% các trường hợp có bệnh ngoại khoa
đi kèm, tắc tá tràng: 3 ca, dị dạng mạc treo
chung, teo thực quản, thoát vị rốn, hở thành
bụng, thoát vị hoành, mỗi loại dị dạng: 1 ca.
Theo y văn, có thể bắt gặp các bệnh lý đi
kèm với thủng dạ dày sơ sinh: teo tá tràng, teo
thực quản, hẹp môn vị, dò khí thực quản(7).
Bệnh nền không tìm thấy ở 20% các trường hợp
và được xem là thủng dạ dày tự phát hay vô
căn(7). Những yếu tố được xem là bệnh nền đi
kèm với tình trạng thủng dạ dày ở trẻ sơ sinh
theo Kuremu và cộng sự là dò khí – thực quản,
viêm ruột hoại tử, teo tá tràng, hở thành bụng và
thoát vị rốn(8).
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 26/01/2022 | Lượt xem: 371 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số đặc điểm của bệnh lý thủng dạ dày ở trẻ sơ sinh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014
Chuyên Đề Nhi Khoa 66
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA BỆNH LÝ THỦNG DẠ DÀY Ở TRẺ SƠ SINH
Nguyễn Đức Toàn*, Huỳnh Thị Duy Hương **
TÓM TẮT
Mục tiêu: Khảo sát một số đặc điểm của bệnh lý thủng dạ dày ở trẻ sơ sinh.
Phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu 56 trẻ sơ sinh nhập viện tại Bệnh viện Nhi đồng 1 từ 2004 đến 2012
được chẩn đoán thủng dạ dày.
Kết quả: Trong tổng số 56 bệnh nhân được khảo sát, tỷ lệ nam/nữ là 1,4/1. Tỷ lệ tử vong là 37,5%. Non
tháng chiếm 41,1%, nhẹ cân chiếm 42,9%. Thời gian điều trị trung bình là 20,9 ngày. Hầu hết có bệnh cảnh viêm
phúc mạc khi nhập viện. X quang có hơi tự do trong ổ bụng (78,6%), siêu âm có hình ảnh viêm phúc mạc
(46,4%). Sốc trước phẫu thuật có tỷ lệ 33,9%. Đặc điểm lâm sàng thường gặp sau phẫu thuật: nhiễm trùng
huyết, suy hô hấp, hạ thân nhiệt và sốc. Tỷ lệ sốc sau phẫu thuật: 55,4%. Thời gian thở máy hậu phẫu trung
bình: 4,4 ngày. Thời điểm bắt đầu nuôi ăn qua đường tiêu hóa (ngày hậu phẫu) trung bình: 7,0 ngày. Thời điểm
nuôi ăn hoàn toàn qua đường tiêu hóa (ngày hậu phẫu) trung bình: 15,1 ngày. Thời gian từ lúc nhập viện đến
lúc phẫu thuật trung bình: 19,8giờ. Thủng dạ dày thường gặp ở bờ cong lớn (53,6%), kích thước phần lớn từ 5
đến 10 cm (51,7%). Hầu hết thủng dạ dày ở dạng vỡ toác thành đường (64,8%). Kết quả khảo sát vi thể: 1
trường hợp hoại tử, 8 trường hợp bị khiếm khuyết lớp cơ. Bệnh lý ngoại khoa kèm theo hay gặp là tắc tá tràng.
Kết luận: Thủng dạ dày ở trẻ sơ sinh là bệnh hiếm và tỷ lệ tử vong còn cao.Hầu hết có bệnh cảnh viêm phúc
mạc khi nhập viện. Đặc điểm lâm sàng thường gặp sau phẫu thuật là nhiễm trùng huyết, suy hô hấp, hạ thân
nhiệt và sốc. Hầu hết thủng dạ dày ở dạng vỡ toác thành đường (64,8%) và đây là đặc điểm rất khác so với thủng
dạ dày ở người lớn. Kết quả khảo sát vi thể: 1 trường hợp (6%) hoại tử, 8 trường hợp (47%) bị khiếm khuyết lớp
cơ. Tắc tá tràng là bệnh lý kèm theo hay gặp.
Từ khóa: thủng dạ dày sơ sinh, vỡ toác thành đường, khiếm khuyết lớp cơ, tắc tá tràng
ABSTRACT
SOME CHARACTERISTICS OF NEONATAL GASTRIC PERFORATION
Nguyen Duc Toan, Huynh Thi Duy Huong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - Supplement of No 4- 2014: 66 - 73
Objective: Describe some characteristics of neonatal gastric perforation.
Methods: We reviewed records of 56 neonates with gastric perforation admitted to Children’s Hospital No.1
in Vietnam from 2004 to 2012.
Results: Among the 56 patients, boys/girls ratio was 1.4. Mortality rate was 37.5%. Preterm (41.1%).Low
birth weight (42.9%). Mean hospital-stay length 20.9 days. Most patients had clinical setting of peritonitis. Free
air in abdominal x-ray film was identified in 78.6% of all cases and signs of peritonitis in abdominal ultrasound
were revealed in 46.4%. Pre-operative shock rate was 33.9% and post-operative shock rate was 55.4%. Post-
operative characteristics were sepsis, respiratory failure, shock and hypothermia. After surgery, mean of
respiratory support time with ventilators was 4.4 days. Mean time to begin enteral feeding was 7.0 post-operative
days and full enteral feedings was 15.1 days after surgery. Mean time from admission to operation: 19.8 hours.
Gastric perforation was seenon the greater curvature (53.6%), measured from 5 to 10 cm (51.7%). Commonly the
perforations was linear tears (64.8%). Pathology showed 1 case with necrosis and 8 cases were attributed to
"muscle deficiency" in the wall of the stomach. Most commonly associated condition was duodenal obstruction.
* Bệnh viện Nhi Đồng 1. TP. Hồ Chí Minh, ** Đại học Y Dược TPHCM.
Tác giả liên lạc: BS Nguyễn Đức Toàn ĐT: 0902409480 Email:toanped@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nhi Khoa 67
Conclusions: Neonatal gastric perforation was rare and mortality rate was still high. Most patients has
clinical setting of peritonitis. Post-surgical characteristics were sepsis, respiratory failure, shock and hypothermia.
Commonly the perforations was linear tears (64.8%) and this thing is much different from gastric perforation in
adults. Pathology showed 1 case with necrosis and 8 cases were attributed to "muscle deficiency" in the wall of
the stomach. Duodenal obstruction was most commonly associated condition.
Keywords: neonatal gastric perforation, linear tears, muscle deficiency, duodenal obstruction
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thủng dạ dày ở trẻ sơ sinh được báo cáo lần
đầu tiên bởi Von Siebold vào năm 1825(4). Thủng
dạ dày là một cấp cứu ngoại khoa hiếm gặp,
chiếm tỷ lệ 1/2900 trẻ sinh sống(13). Thủng dạ dày
ở trẻ sơ sinh có thể phân loại là: nguyên phát (tự
phát hay vô căn), hoặc thứ phát (chấn thương,
thiếu máu), trong nhiều trường hợp bệnh
nguyên là sự kết hợp của nhiều yếu tố(8).
Chẩn đoán thủng dạ dày ở trẻ sơ sinh dựa
vào bệnh sử, khám lâm sàng và các phương tiện
chẩn đoán hình ảnh học. Chẩn đoán xác định có
thể chỉ thực hiện được khi trẻ được can thiệp
phẫu thuật. Những đặc điểm về mặt dịch tễ, lâm
sàng, cận lâm sàng và điều trị cũng như các yếu
tố liên quan đến tử vong nêu trên được đúc kết
từ nhiều nghiên cứu trên thế giới và một nghiên
cứu tại Việt Nam. Có thể kể ra một số nghiên
cứu như sau: báo cáo của Shashikumar về 19
trường hợp thủng dạ dày tự phát tại Bệnh viện
nhi St.Christopher, Philadelphia và tại Bệnh viện
Pennsylvania, Philadelphia, từ 1963 đến 1974(14).
Năm 2011, Nandlal Kella và cs báo cáo 14 bệnh
nhân sơ sinh thủng dạ dày tại Bệnh viện Đại học
Hyderabad, từ tháng 7 năm 2003 đến tháng 6
năm 2010 gồm 9 nam và 5 nữ(10). Năm 2005, tại
bệnh viện Nhi Đồng 1, Đào Trung Hiếu và cs đã
hồi cứu trong khoảng thời gian từ năm 2001 đến
2004, có 21 trường hợp thủng dạ dày ở trẻ sơ
sinh được ghi nhận(4).
Hiện nay, việc chẩn đoán và điều trị cũng
như sự hiểu biết về thủng dạ dày ở trẻ sơ sinh
đãđạt nhiều tiến bộ. Mặc dù có nhiều tiến bộ
trong việc chăm sóc trẻ trước và sau phẫu thuật
nhưng theo Kara và cs(7) cũng như theo Durham
và cs(6), tỷ lệ tử vong do thủng dạ dày còn khá
cao 55-60%. Do đó cần thiết phải có nghiên cứu
về một số đặc điểm của bệnh lý này, từ đó góp
phần vào công tác chẩn đoán và điều trị trên
thực tiễn lâm sàng. Như vậy câu hỏi nghiên cứu
đặt ra là: Đặc điểm bệnh lý thủng dạ dày ởtrẻ sơ
sinh tại bệnh viện Nhi đồng 1 từ năm 2004 đến
năm 2012 như thế nào?
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Mô tả loạt ca.
Cỡ mẫu
Lấy trọn mẫu N = 56
Tiêu chí đưa vào
Tất cả trẻ sơ sinh được chẩn đoán thủng dạ
dày từ năm 2004 đến năm 2012 tại bệnh viện Nhi
Đồng 1.
Tiêu chí loại ra
Tử vong ngay sau khi nhập viện, thông tin
thu thập thiếu tối đa 10%.
Thu thập và xử lý số liệu
Số liệu được thu thập bằng bệnh án nghiên
cứu với các số liệu được mã hóa, sau đó được
nhập và phân tích bằng phần mềm Stata 10.0.
Các biến số định lượng được trình bày dưới
dạng trung bình và độ lệch chuẩn. Các biến số
định tính: tính tỷ lệ phần trăm.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Đặc điểm chung của dân số nghiên cứu
Dịch tễ
Qua nghiên cứu 56 trường hợp thủng dạ dày
ở trẻ sơ sinh tại Bệnh viện Nhi Đồng 1 từ năm
2004 đến năm 2012, chúng tôi nhận thấy tỷ số
nam/nữ là 1,4/1. Tỷ lệ tử vong là 37,5%. Non
tháng 41,1%, nhẹ cân 42,9%. Tuổi lúc nhập viện
trung bình là 4,1 ngày. Thời điểm xuất hiện triệu
chứng sau sinh: trung bình 2,8 ngày. Thời gian
điều trị trung bình là 20,9 ngày.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014
Chuyên Đề Nhi Khoa 68
Đặc điểm trước phẫu thuật
Đặc điểm lâm sàng thường gặp trước phẫu
thuật: ói, bỏ bú hoặc bú kém, chướng bụng,
nhiễm trùng huyết, suy hô hấp. Hầu hết bệnh
nhân đều có triệu chứng chướng bụng lúc nhập
viện. Chẩn đoán của tuyến trước là viêm phúc
mạc do thủng tạng rỗng chiếm tỷ lệ 23,2%. Số
bệnh nhân được chẩn đoán lúc nhập viện là
viêm phúc mạc do thủng tạng rỗng chiếm 41,1%.
Cận lâm sàng quan trọng trước phẫu thuật:
X quang có hơi tự do trong ổ bụng (78,6%), siêu
âm có hình ảnh viêm phúc mạc (46,4%).
Về điều trị: lượng dịch nuôi ăn tĩnh mạch
trước phẫu thuật trung bình là 133,0 ml/kg/ngày.
Hỗ trợ hô hấp (41,1%), sử dụng thuốc vận mạch
(23,2%), truyền dịch chống sốc (33,9%).
Đặc điểm sau phẫu thuật
Đặc điểm lâm sàng thường gặp sau phẫu
thuật: nhiễm trùng huyết, suy hô hấp, hạ thân
nhiệt, sốc. Tỷ lệ sốc sau phẫu thuật: 55,4%.
Đặc điểm cận lâm sàng thường gặp sau phẫu
thuật: toan máu nặng, rối loạn điện giải, rối loạn
đông máu, hạ đường huyết.
Thời gian thở máy hậu phẫu trung bình: 4,4
ngày.
Sử dụng thuốc vận mạch (51,8%), truyền
dịch chống sốc (53,6%).
Lượng dịch nuôi ăn tĩnh mạch ngày đầu sau
phẫu thuật trung bình: 156,2 ml/kg/ngày.
Thời điểm bắt đầu nuôi ăn qua đường tiêu
hóa (ngày hậu phẫu) trung bình: 7,0 ngày.
Thời điểm nuôi ăn hoàn toàn qua đường tiêu
hóa (ngày hậu phẫu) trung bình: 15,1 ngày.
Đặc điểm ngoại khoa
Thời gian từ lúc nhập viện đến lúc phẫu thuật
Thời gian từ lúc nhập viện đến lúc phẫu
thuật (giờ) trung bình: 19,8 ± 33,0 giờ, tối thiểu: 1
giờ, tối đa: 192 giờ.
Thời gian thực hiện phẫu thuật
Thời gian thực hiện phẫu thuật trung bình:
72,9 ± 22,1 phút, tối thiểu: 40 phút, tối đa: 130
phút.
Đặc điểm dịch ổ bụng sau phẫu thuật
Tính chất dịch ổ bụng:
Dịch xanh rêu: 2 trường hợp (3,6%), dịch
vàng xanh: 9 trường hợp (16,1%), dịch vàng
xanh + sữa: 14 trường hợp (25,0%), dịch vàng
xanh + giả mạc: 22 trường hợp (39,3%), không
ghi nhận: 8 trường hợp (14,2%).
Cấy dịch ổ bụng sau phẫu thuật:
Số trường hợp có thực hiện cấy dịch ổ bụng
sau phẫu thuật là 29/56; số trường hợp cấy
dương tính là 22/29, chiếm tỷ lệ 79,7%.
Vi khuẩn gây bệnh/cấy dịch ổ bụng sau
phẫu thuật:
Bảng 1: Vi khuẩn gây bệnh/cấy dịch ổ bụng sau phẫu
thuật.
Tác nhân gây bệnh n =22
Klebsiella spp. 8
Acinetobacter 5
Enterobacter spp. 3
P. aeruginosa 2
Candida albicans 2
E.coli 1
Morganella morgani 1
Đặc điểm giải phẫu của thủng dạ dày
Vị trí
Bảng 2: Vị trí của thủng dạ dày
Vị trí n = 56 %
Bờ cong lớn 30 53,6
Mặt trước 19 34,0
Mặt sau 4 7,2
Bờ cong nhỏ 2 3,6
Đáy vị 2 3,6
Thủng dạ dày thường xảy ra ở bờ cong lớn
và mặt trước dạ dày.
Kích thước
Bảng 3: Kích thước của thủng dạ dày
Kích thước n = 56 %
Rách 5 đến 10 cm 29 51,7
Rách 3 đến < 5 cm 17 30,3
Thủng< 3 cm 8 14,4
> 10 cm 2 3,6
Kích thước trung bình: 47,6± 29,4 mm (tối
thiểu: 2 mm, tối đa: 150 mm).
Kích thước lỗ thủng rất thay đổi, từ 2 mm
đến 150 mm, trung bình là gần 50 mm.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nhi Khoa 69
Số lỗ thủng
Theo nghiên cứu này tất cả các trường hợp
đều chỉ có duy nhất một lỗ thủng.
Hình dạng lỗ thủng
Có 3 trường hợp thủng dạng lỗ, những
trường hợp còn lại có hình dạng thủng là thủng
thành đường.
Tổn thương đại thể
Bảng 4: Tổn thương đại thể của thủng dạ dày.
Dạng tổn thương n = 56 %
Vỡ toác 24 42,9
Vỡ toác + hoại tử 12 21,5
Lổ thủng 10 17,8
Hoại tử 5 8,9
Thiếu hai lớp cơ 5 8,9
Thường hay gặp dạ dày bị vỡ toác.
Tổn thương vi thể
Khảo sát vi thể thực hiện ở 17 trường hợp.
Kết quả khảo sát vi thể: 1 trường hợp (6%)
hoại tử,8 trường hợp (47%) vùng dạ dày bị
thủng không có hai lớp cơ và 8 trường hợp
(47,0%) lớp dưới niêm mạc bị phù nề, sung
huyết, thâm nhập nhiều neutrophiles.
Số lần phẫu thuật
Số trường hợp thực hiện phẫu thuật: 1 lần có
49 trường hợp (87,5%), 2 lần có 5 trường hợp
(8,9%), 3 lần: 2 trường hợp (3,6%).
Cách thức phẫu thuật
Cách phẫu thuật trong tất cả các trường hợp
(100%) là xén mép thành dạ dày, khâu lại dạ
dày, rửa bụng và dẫn lưu.
Bệnh lý ngoại khoa đi kèm
Có 8 trường hợp có bệnh ngoại khoa đi kèm,
gồm có: tắc tá tràng có 3 trường hợp; các bất
thường: dị dạng mạc treo chung, teo thực quản,
thoát vị rốn, hở thành bụng, thoát vị hoành, mỗi
bất thường có 1 trường hợp.
BÀN LUẬN
Đặc điểm chung của dân số nghiên cứu
Dịch tễ
Tình hình tử vong: Theo nghiên cứu này, có
35 trường hợp sống và 21 trường hợp tử vong
(tỷ lệ tử vong: 37,5%), tương đương với Đào
Trung Hiếu, tỷ lệ tử vong là 38%(4). Vào thập
niên những năm 1950, số bệnh nhân sống sót sau
thủng dạ dày là rất hiếm. Theo Kara và cs(7) cũng
như Duran R. và cs(5), tỷ lệ tử vong do thủng dạ
dày vào khoảng 55-60%. Theo Nandlal K., tỷ lệ
tử vong từ 27 – 83%(10). Pelizzo và cs đã công bố
năm 1998 một nghiên cứu 11 trường hợp (có 7
trường hợp sinh non) tại CHU Edouard-Herriot
ở Lyon, từ 1980 đến 1996, 8 trẻ được phẫu thuật,
tử vong 3 trường hợp(11). Đối với ở trẻ sơ sinh
non tháng, mặc dù có nhiều tiến bộ về hồi sức,
hỗ trợ hô hấp, kỹ thuật gây mê, kỹ thuật hồi sức
nhưng tỷ lệ sống sót vẫn còn rất thấp.
Tuổi thai: Tuổi thai trung bình là 36,3 tuần
(tối thiểu 27 tuần, tối đa 41 tuần). Theo tuổi thai,
số bệnh nhân non tháng có 23 trường hợp
(41,1%), đủ tháng có 33 trường hợp (58,9%) và
không có trường hợp nào già tháng. Theo Đào
Trung Hiếu có 47,6% trẻ non tháng bị thủng dạ
dày được nhập viện(4). Theo y văn, tình trạng
non tháng được xem là yếu tố thuận lợi của
thủng dạ dày ở sơ sinh(16).
Đặc điểm trước phẫu thuật
Tất cả bệnh nhân đều có triệu chứng ói hay
ọc sữa (100% các trường hợp). Ói là một triệu
chứng rất quan trọng, điển hình, có thể xuất
hiện trước hoặc trong giai đoạn cấp tính,
thường là ói thức ăn(3). Bỏ bú hoặc bú kém
(100% các trường hợp). Chướng bụng và theo
dõi nhiễm trùng huyết là đặc điểm rất có ý
nghĩa (98,2% các trường hợp). Theo Mackay
M. tỷ lệ này là 100%(9). Theo Nandlal Kella tỷ
lệ này là 71,4%(10) Theo Shaw A và Blanc A,
bệnh cảnh lâm sàng thường gặp là trẻ đột ngột
bị chướng bụng(15). Chướng bụng là một triệu
chứng hầu như lúc nào cũng bắt gặp, rất điển
hình, cho phép chẩn đoán thủng tạng rỗng khi
kết hợp với kết quả X quang(1). Suy hô hấp
chiếm 51,8% các trường hợp, theo Mackay M.
tỷ lệ này là 53%(9). Suy hô hấp thường được
mô tả trong y văn, xuất hiện đột ngột, có thể
đây là triệu chứng khởi đầu, đi kèm với
chướng bụng(15). Sốc thường gặp, nhưng cũng
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014
Chuyên Đề Nhi Khoa 70
có thể không phát hiện, có thể là sốc nhiễm
trùng, sốc tim, khi được ghi nhận thì sốc được
xem là dấu hiệu của tiên lượng xấu(3). Triệu
chứng tím tái theo ghi nhận của nghiên cứu
này bằng với Mackay M (9). Theo dõi nhiễm
trùng huyết chiếm 98,2% các trường hợp,
nhưng theo Nandlal Kella thì thấp hơn
(57,14% các trường hợp)(10). X quang: Hình ảnh
X quang có hơi tự do trong ổ bụng chiếm
78,6%. Với X quang bụng đứng không sửa
soạn, hầu hết các trường hợp đều có bóng hơi
rất lớn trong ổ bụng, cho phép chẩn đoán
thủng tạng rỗng trước phẫu thuật. Không ghi
nhận mức khí dịch trong dạ dày, giảm hơi
trong ruột non, hơi tự do nhiều trong ổ bụng
làgợi ý chẩn đoán thủng dạ dày sơ sinh(12).
Theo y văn, tràn khí phúc mạc là hình ảnh X-
quang thường gặp trong thủng dạ dày sơ
sinh(2). Không thể nhìn thấy dạ dày trên phim
bụng thẳng trong 90% các trường hợp(12). Siêu
âm có hình ảnh viêm phúc mạc trong 46,4%
các trường hợp. Hình ảnh thủng dạ dày sơ
sinh trên siêu âm không đặc hiệu, chỉ phản
ánh triệu chứng viêm phúc mạc của một
trường hợp thủng tạng rỗng.
Đặc điểm chung điều trị trước phẫu thuật
Nuôi ăn tĩnh mạch đơn thuần 100% các
trường hợp, hỗ trợ hô hấp 69,6%, bù toan
53,6%, truyền dịch chống sốc 33,9%, sử dụng
thuốc vận mạch 23,2%, sử dụng huyết tương
tươi đông lạnh 25,0%. Ngoài ra còn sử dụng
hồng cầu lắng, tiểu cầu, thuốc chống tiết acid
dạ dày, dẫn lưu ổ bụng.
Đặc điểm sau phẫu thuật
Đặc điểm chung về lâm sàng sau phẫu thuật:
Nằm hồi sức sau phẫu thuật 100,0% các trường
hợp, theo dõi nhiễm trùng huyết 100,0%, suy hô
hấp 96,3%, hạ thân nhiệt 89,3%, sốc sau phẫu
thuật 55,4%, viêm phổi 41,1%, vàng da 23,2%,
nhịp tim nhanh trên 180 lần/phút 16,1%, bụng
chướng 5,4%, tràn khí vùng bìu 3,6%; sốt, tràn
khí màng phổi, viêm phúc mạc mỗi đặc điểm
chiếm 1,8% các trường hợp.
Sốc sau phẫu thuật
Không sốc 44,6% các trường hợp, có sốc
55,4%, sốc 1 lần 46,4%, sốc 2 lần 9,0% các trường
hợp. Thời gian sốc sau phẫu thuật trung bình là
9,0 giờ, tối thiểu: 1giờ, tối đa: 38 giờ.
Thời gian nằm hồi sức sau phẫu thuật
Thời gian nằm hồi sức sau phẫu thuật trung
bình là 9,5 ngày, tối thiểu: 1 ngày, tối đa: 66
ngày.
Đặc điểm chung cận lâm sàng sau phẫu thuật
Toan máu 83,9% các trường hợp, rối loạn
điện giải 67,9%, rối loạn đông máu 42,9%, toan
máu nặng 39,3%, hạ đường huyết 32,1%, tổn
thương thận 12,5%, tăng đường huyết 5,4% và
tổn thương gan 1,8% các trường hợp.
Đặc điểm chung về điều trị sau phẫu thuật
Nuôi ăn tĩnh mạch đơn thuần 100% các
trường hợp, hỗ trợ hô hấp 98,2% các trường hợp,
sử dụng thuốc chống tiết acid dạ dày 78,6% các
trường hợp, bù toan 76,8% các trường hợp, sử
dụng hồng cầu lắng 71,4% các trường hợp,
truyền dịch chống sốc 53,6% các trường hợp, sử
dụng thuốc vận mạch 51,8% các trường
hợp,huyết tương tươi đông lạnh 39,3% các
trường hợp, tiểu cầu 16,1% các trường hợp, dẫn
lưu ổ bụng 1,8% các trường hợp.
Nuôi ăn sau phẫu thuật
Lượng dịch nuôi ăn tĩnh mạch sau phẫu
thuật trung bình: 156,2 ml/kg/ngày, tối thiểu
110ml/kg/ngày, tối đa: 270 ml/kg/ngày.
Thời điểm bắt đầu nuôi ăn qua đường tiêu hóa
(ngày hậu phẫu) trung bình: 7,0ngày, tối thiểu: 1
ngày, tối đa: 25 ngày.
Thời điểm nuôi ăn hoàn toàn qua đường tiêu
hóa (ngày hậu phẫu) trung bình: 15,1 ngày, tối
thiểu: 5 ngày, tối đa: 33 ngày.
Đặc điểm ngoại khoa
Thời gian từ lúc nhập viện đến lúc phẫu thuật
Thời gian từ lúc nhập viện đến lúc phẫu
thuật trung bình: 19,8 giờ, tối thiểu: 1 giờ, tối đa:
192 giờ.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nhi Khoa 71
Thời gian thực hiện phẫu thuật
Thời gian thực hiện phẫu thuật trung bình:
72,9 phút, tối thiểu: 40 phút, tối đa: 130 phút.
Đặc điểm dịch ổ bụng sau phẫu thuật
Tính chất dịch ổ bụng
Dịch xanh rêu 3,6% các trường hợp, dịch
vàng xanh 16,1% các trường hợp, dịch vàng
xanh + sữa 25,0% các trường hợp, dịch vàng
xanh + giả mạc 39,3% các trường hợp, không ghi
nhận 14,2% các trường hợp.
Cấy dịch ổ bụng sau phẫu thuật
Số trường hợp có thực hiện cấy dịch ổ bụng
sau phẫu thuật là 29/56; số trường hợp cấy
dương tính là 22/29, chiếm tỷ lệ 79,7%.
Kết quả cấy dịch ổ bụng sau phẫu thuật
dương tính: Acinetobacter spp có 5 trường hợp,
Enterobacter spp có 3 trường hợp, Klebsiella spp có
8 trường hợp, nấm men có 2 trường hợp, E.coli,
Morganella morganimỗi loại có 1 trường hợp.
Đặc điểm giải phẫu của thủng dạ dày
Vị trí
Nghiên cứu này cho thấy, thủng bờ cong lớn
chiếm 53,6% các trường hợp, mặt trước 34,0%,
mặt sau 7,2%, bờ cong nhỏ 3,6%, đáy vị chiếm
3,6% các trường hợp.
Theo y văn, vị trí thủng thường gặp ở mặt
trước của bờ cong lớn (95%). Vị trí thủng cũng có
thể ở bờ cong nhỏ hoặc hang vị.
Theo Nandlal(10), thủng ở bờ cong lớn chiếm
100% các trường hợp.
Theo Kara(7) và cs thủng ở bờ cong lớn
chiếm 14,5% các trường hợp, bờ cong nhỏ 13%,
tâm vị 14,5%, những vị trí khác chiếm 23% các
trường hợp.
Theo Duran(5), thủng ở bờ cong lớn chiếm
57,14% các trường hợp, và 28,57%ở bờ cong nhỏ,
hang vị chiếm 14,2% các trường hợp.
Vị trí của lỗ thủng thường khó nhận biết
được và ổ bụng cần phải được thám sát một
cách kỹ lưỡng. Nếu dạ dày không bị thủng, cần
thám sát kỹ chỗ nối thực quản – dạ dày, tá tràng,
ruột non và đại tràng. Mạc nối nhỏ cần được mở
trong tất cả các trường hợp, và quan sát kĩ thành
sau dạ dày. Vị trí hay gặp nhất của thủng tự
phát là ở gần bờ cong lớn, thường ở vị trí cao
trên dạ dày.
Số lỗ thủng
Theo nghiên cứu này tất cả các trường hợp
đều chỉ có duy nhất một lỗ thủng.
Các báo cáo phần lớn đều ghi nhận chỉ có
một lỗ thủng, rất hiếm báo cáo ghi nhận nhiều lỗ
thủng ở dạ dày(7,8,9,10,11,13,14,15,16). Trong khi đó
thủng dạ dày có thể phối hợp với thủng cơ quan
khác thuộc đường tiêu hóa. Do đó cần thám sát
kỹ trong quá trình phẫu thuật.
Hình dạng lỗ thủng
Phần lớn các trường hợp có hình dạng thủng
là thủng thành đường.
Các tác giả đã mô tả, 85% các trường hợp
thủng thành đường(7,8,9,10,11,13,14,15,16). Trong khi đó
các lỗ thủng dạng điểm, hoặc như bị đục thủng
cần nghĩ đến thủng do dụng cụ, do đặt nội khí
quản hoặc đặt sonde dạ dày mũi(7,8,16).
Kích thước lỗ thủng
Từ 5 đến 10 cm chiếm 51,7%; từ 3 đến < 5 cm
chiếm 30,3%; 10 cm
chiếm 3,6%.
Kích thước trung bình: 47,6± 29,4mm (tối
thiểu: 2 mm, tối đa: 150 mm).
Lỗ thủng thường rách thành đường, dài từ
0,5 – 8 cm và có thể kéo dài quanh bờ cong lớn
đến thành sau dạ dày(7,8,9,10,11). Hết sức cẩn
thận để đảm bảo rằng toàn bộ lỗ thủng đã
được thám sát.
Loại lỗ thủng
Thủng dạ dày ở trẻ sơ sinh có thể hiện diện
dưới các loại lỗ thủng: vỡ toác chiếm 42,9% các
trường hợp, vỡ toác và hoại tử chiếm 21,5% các
trường hợp, thủng dạng lỗ chiếm 17,8% các
trường hợp, thiếu hai lớp cơ chiếm 8,9% các
trường hợp.
Khảo sát tổn thương vi thể
Khảo sát tổn thương vi thể được thực hiện 17
trường hợp. Các tổn thương được ghi nhận gồm
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014
Chuyên Đề Nhi Khoa 72
có: hoại tử (6% các trường hợp), vùng dạ dày bị
thủng không có hai lớp cơ (47% các trường hợp),
niêm mạc và dưới niêm mạc, phù nề, sung
huyết, thâm nhập nhiều neutrophiles (47% các
trường hợp).
Khảo sát vi thể cho thấy niêm mạc dạ dày bị
hoại tử xuất huyết, rõ nhất là ở phần rìa của các
lỗ thủng, kèm theo phù nề và sự trương phồng
các mạch máu dưới niêm mạc.
Cấu trúc của thành dạ dày có vẻ còn bình
thường, lớp cơ gồm hai lớp rõ rệt, nhưng xung
quanh lỗ thủng lớp cơ như bị tách rời, bị mỏng
đi do sự hình thành các mảng phù nề và hóa
sợi nhẹ.
Hình ảnh vi thể của lỗ thủng không cho
phép kết luận lỗ thủng là nguyên phát hay thứ
phát.
Bình thường, lớp cơ vòng của lớp cơ dạ dày
ở trẻ sơ sinh có những khoản khiếm khuyết, đặt
biệt những khoản khiếm khuyết này thường có
nhiều ở trẻ sinh non và ở bờ cong lớn. Điều này
giải thích thủng dạ dày thường gặp ở trẻ sinh
non thiếu tháng và khi có sự gia tăng áp lực
trongdạ dày(16).
Số lần phẫu thuật
Số trường hợp thực hiện phẫu thuật 1 lần
87,5%, 2 lần 8,9%, 3 lần 3,6%.
Điều trị phẫu thuật
Cách phẫu thuật trong tất cả các trường hợp
(100%) là xén thành dạ dày, khâu lại dạ dày, rửa
bụng và dẫn lưu.
Nhiều kỹ thuật được sử dụng để giải quyết
những trường hợp lỗ thủng lớn hoặc hoại tử
nhiều đòi hỏi phải cắt dạ dày toàn phần hoặc
bán phần. Biện pháp được chọn lựa là cắt dạ dày
bán phần và tái tạo bằng cách nối thực quản – dạ
dày(1). Nhiều kỹ thuật tái tạo được sử dụng
trong trường hợp cắt toàn bộ dạ dày được báo
cáo gồm hạ đại tràng ngang, nối thực quản –
hỗng tràng kiểu Roux – en – Y và tái tạo túi cùng
kiểu Hunt – Lawrence(1,2,7).
Sau khi cắt dạ dày toàn phần, nếu tình
trạng trẻ chưa ổn định, việc tái tạo có thể được
trì hoãn hoặc tiến hành làm nhiều giai đoạn.
Khi phẫu thuật lần đầu, có thể đóng thực quản
và đặt một ống nuôi ăn qua đoạn xa dạ dày.
Thực quản được giải áp qua một ống thông
mũi thực quản và đứa trẻ cần được nuôi ăn
tĩnh mạch cho đến khi trẻ có thể ăn qua ống
nuôi ăn. Giai đoạn cuối của quá trình tái tạo
được tiến hành nhiều tuần sau đó khi tình
trạng lâm sàng và tình trạng dinh dưỡng của
trẻ được cải thiện. Sau khi giải quyết lỗ thủng,
nên rửa dạ dày bằng dung dịch saline ấm.
Nhiều phẫu thuật viên đề nghị rửa bằng dung
dịch kháng sinh. Dẫn lưu phúc mạc không cần
thiết trong hầu hết các trường hợp sửa chữa
ban đầu. Đóng mạc nối bằng chỉ hấp thu(13,14,15).
Bệnh lý ngoại khoa đi kèm
Có 14,3% các trường hợp có bệnh ngoại khoa
đi kèm, tắc tá tràng: 3 ca, dị dạng mạc treo
chung, teo thực quản, thoát vị rốn, hở thành
bụng, thoát vị hoành, mỗi loại dị dạng: 1 ca.
Theo y văn, có thể bắt gặp các bệnh lý đi
kèm với thủng dạ dày sơ sinh: teo tá tràng, teo
thực quản, hẹp môn vị, dò khí thực quản(7).
Bệnh nền không tìm thấy ở 20% các trường hợp
và được xem là thủng dạ dày tự phát hay vô
căn(7). Những yếu tố được xem là bệnh nền đi
kèm với tình trạng thủng dạ dày ở trẻ sơ sinh
theo Kuremu và cộng sự là dò khí – thực quản,
viêm ruột hoại tử, teo tá tràng, hở thành bụng và
thoát vị rốn(8).
Nguyên nhân và bệnh lý đi kèm thủng dạ
dày sơ sinh
Thủng dạ dày có thể không tìm được
nguyên nhân, hoặc có thể là một trong các
nguyên nhân, stress chu sinh (thiếu oxy, ngạt),
non tháng(7), bất thường giải phẫu (tắc đoạn xa,
hẹp môn vị, teo tá tràng(8), xoắn ruột, dò khí
thực quản, bất thường thiếu hụt bẩm sinh cơ dạ
dày, do điều trị)(9). Ống thông dạ dày, thông khí
bằng mask có kèm hoặc không kèm dò khí thực
quản(10,11), hồi sức tim phổi, thông khí áp lực
dương, thủng khi phẫu thuật tạo shunt não thất
– phúc mạc, sanh ngã âm đạo, do indomethacin,
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nhi Khoa 73
corticosteroids(13,14). Trường hợp thủng do điều
trị thường có tiền sử sang chấn do đặt ống thông
mũi dạ dày, phẫu thuật trước đó, sử dụng
corticosteriod hoặc kháng viêm không steroid
cũng như thông khí hoặc hồi sức tim phổi tích
cực(8).
KẾT LUẬN
Cần ghi nhận các dấu hiệu của một trường
hợp viêm phúc mạc, có thể kèm theo tình trạng
sốc, nhiễm trùng huyết hoặc suy hô hấp, nhất là
ở trẻ non tháng, nhẹ cân và vào thời điểm 5 ngày
đầu sau sinh. Trước phẫu thuật, có thể ghi nhận
hình ảnh viêm phúc mạc trên siêu âm bụng và
hình ảnh hơi tự do trong ổ bụng trên X – quang
bụng không sửa soạn. Đặc điểm lâm sàng
thường gặp sau phẫu thuật là nhiễm trùng
huyết, suy hô hấp, hạ thân nhiệt và sốc. Thời
gian từ lúc nhập viện đến lúc phẫu thuật trung
bình: 19,8 giờ. Thời gian thực hiện phẫu thuật
trung bình: 72,9 phút. Cách phẫu thuật trong tất
cả các trường hợp (100%) là xén mép chỗ
thủng/vỡ, khâu lại dạ dày, rửa bụng và dẫn lưu.
Đặc điểm giải phẫu của thủng dạ dày: thường
gặp ở bờ cong lớn (53,6%), kích thước phần lớn
từ 5 đến 10 cm (51,7%). Hầu hết thủng dạ dày ở
dạng vỡ toác thành đường (64,8%) và đây là đặc
điểm rất khác biệt ở thủng dạ dày ở trẻ sơ sinh
so với thủng dạ dày ở người lớn. Kết quả khảo
sát vi thể: 1 trường hợp (6%) hoại tử,8 trường
hợp (47%) vùng dạ dày bị thủng không có hai
lớp cơ và 8 trường hợp (47,0%) lớp dưới niêm
mạc bị phù nề, sung huyết, thâm nhập nhiều
neutrophiles. Bệnh lý ngoại khoa kèm theo: tắc
tá tràng (3 ca); ngoài ra teo thực quản, thoát vị
rốn, hở thành bụng, thoát vị hoành, mỗi bất
thường có 1 trường hợp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ankola P, Manwani S. (2001), “Spontaneous neonatal gastric
perforation”,Arch Pediatr Adolesc Med, 155, pp. 521-522.
2. Chung MT, Kuo CY, Wang JW. (1994), “Gastric perforation in
the neonate: clinical analysis of 12 cases”, Acta Paediatr Sin, 35,
pp.565.
3. Daniel B, Sobel MD. (1998), “Neonatal gastric perforation”,
Arch Pediatr Adolesc Med, 152, pp. 599-600.
4. Đào Trung Hiếu (2005), “Thủng dạ dày: phân tích 21 trường
hợp”, Tạp chí Y học thành phố Hồ Chí Minh,9 (1), tr. 72-74.
5. Duran R, Inan M, Vatansever U, Aladag N, Acunas B. (2007),
“Etiology of neonatal gastric perforations: Review of 10 years
experience”, Pediatr Int, 49 (5), pp. 626-630.
6. Durham EC, Goldenstein RM. (1994), “Rupture of the
stomach in newborn infants”, J Pediatr, 4, pp. 44.
7. Kara CS, Ilce I, Celayir S. (2004), “Neonatal gastric perforation:
review of 23 years experience”, Surg today, 34, pp. 243-245.
8. Kuremu RT, Hadley GP, Wiersma R. (2004), “Neonatal gastric
perforation”, East Afri Med J, 8(1), pp. 56-58.
9. Mackay M, Lin CM, Lee HC, (2002), “Neonatal Gastric
Perforation: Report of 15 Case and Review of the Literature”,
Ped Int, 64, pp. 876-879.
10. Nandlal K, Abdul RS. (2011), “Neonatal gastric perforation”,
JLUMHS, 10 (3), pp. 51-69.
11. Pelizzo G, Dubois R, Lapillonne A., Laine X., Claris O.,
Bouvier R. (1998), “Gastric necrosis in newborns: a report of
11 cases”, Pediatr Surg Int, 13, pp. 346-349.
12. Pochaczevsky R, Bryk D. (1972), “New roentgenographic
signs of neonatal gastric perforation”, Radiology, 102, pp. 145.
13. Rosser SB, Clark CH, Elachi EN. (1982), “Spontaneous gastric
perforation”, J Pediatr Surg, 17, pp. 390-394.
14. Shashikumar VL, Bassuk A. (1975), “Spontaneous gastric
rupture in the newborn: a clinical review of nineteen cases”,
Ann Surg, 182, pp. 22.
15. Shaw A, Blanc A, Santulli TV. (1965), “Spontaneous rupture
of the stomach in the newborn: A clinical and experimental
study”, Surgery, 58, pp. 561.
16. Zamir O, Hadary A, Goldberg M. (1987), “Spontaneous
perforation of the stomach in the neonate”, Z Kinderchir, 42,
pp. 43.
Ngày nhận bài:1/7/2014
Ngày phản biện: 18/7/2014
Ngàybài báo được đăng: 20/08/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_dac_diem_cua_benh_ly_thung_da_day_o_tre_so_sinh.pdf