1. Người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong
trường hợp sau đây:
a) Người lao động thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động được
xác định theo tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành công việc trong quy chế của người sử
dụng lao động. Quy chế đánh giá mức độ hoàn thành công việc do người sử dụng lao động
ban hành nhưng phải tham khảo ý kiến tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở đối với nơi
có tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở;
b) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 12 tháng liên tục đối với người làm việc theo
hợp đồng lao động không xác định thời hạn hoặc đã điều trị 06 tháng liên tục đối với người
làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn từ 12 tháng đến 36 tháng
hoặc quá nửa thời hạn hợp đồng lao động đối với người làm việc theo hợp đồng lao động
xác định thời hạn có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa hồi phục.
Khi sức khỏe của người lao động bình phục thì người sử dụng lao động xem xét để tiếp tục
giao kết hợp đồng lao động với người lao động;
c) Do thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh nguy hiểm, địch họa hoặc di dời, thu hẹp sản xuất, kinh
doanh theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà người sử dụng lao động đã
tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải giảm chỗ làm việc;
d) Người lao động không có mặt tại nơi làm việc sau thời hạn quy định tại Điều 31 của bộ
luật này;
đ) Người lao động đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định tại Điều 169 của bộ luật này, trừ trường
hợp có thỏa thuận khác;
e) Người lao động tự ý bỏ việc mà không có lý do chính đáng từ 5 ngày làm việc liên tục
trở lên;
g) Người lao động cung cấp không trung thực thông tin theo quy định tại Khoản 2 Điều 16
khi giao kết hợp đồng lao động làm ảnh hưởng đến việc tuyển dụng người lao động.
2. Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong trường hợp quy định tại các Điểm a,
b, c, đ và g Khoản 1, người sử dụng lao động phải báo trước cho người lao động như sau:
a) Ít nhất 45 ngày đối với hợp đồng lao động không xác định thời hạn;
b) Ít nhất 30 ngày đối với hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn từ 12 tháng đến
36 tháng;
c) Ít nhất 3 ngày làm việc đối với hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn dưới 12
tháng và đối với trường hợp quy định tại Điểm b Khoản 1 điều này;
d) Đối với một số ngành, nghề, công việc đặc thù thì thời hạn báo trước được thực hiện theo
quy định của Chính phủ.
3. Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động quy định tại Điểm d và Điểm e Khoản 1
điều này thì người sử dụng lao động không phải báo trước cho người lao động.
11 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 338 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số điểm mới của chế định hợp đồng lao động (Bộ luật lao động năm 2019) theo hướng hoàn thiện hành lang pháp lý điều chỉnh quan hệ lao động trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
84
CHUYÊN MỤC
TRAO ĐỔI NGHIỆP VỤ
MỘT SỐ ĐIỂM MỚI CỦA CHẾ ĐỊNH HỢP ĐỒNG
LAO ĐỘNG (BỘ LUẬT LAO ĐỘNG NĂM 2019)
Theo hướng hoàn thiện hành lang pháp lý
điều chỉnh quan hệ lao động trong
nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
TRẦN QUỐC BẢO
*
Bài viết phân tích, trao đổi về những điểm mới trong chế định về hợp đồng lao
động của Bộ luật Lao động 2019. Trên cơ sở đó đưa ra những nhận định góp
phần tiếp tục hoàn thiện việc điều chỉnh quan hệ hợp đồng giữa người lao động
và người sử dụng lao động phù hợp sự phát triển kinh tế - xã hội trong mỗi giai
đoạn đặt ra.
Từ khóa: Luật Lao động năm 2019; hợp đồng lao động
Nhận bài ngày: 2/12/2019; đưa vào biên tập: 3/12/2019; phản biện: 5/12/2019;
duyệt đăng: 10/12/2019
1. DẪN NHẬP
Bộ luật Lao động của nước Cộng hòa
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam được ban
hành ngày 23/6/1994 và có hiệu lực
thi hành từ 01/01/1995. Trong suốt 24
năm hình thành và áp dụng trong thực
tiễn, Bộ luật Lao động đã qua 4 lần
sửa đổi, bổ sung vào các năm 2002,
2006, 2007 và 2012 nhằm hoàn thiện
hành lang pháp lý về lao động, đáp
ứng các yêu cầu phát triển kinh tế - xã
hội và hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra.
Thực hiện theo Nghị quyết số
57/2018/QH14 ngày 08/6/2018 của
Quốc hội khóa 14, Thủ tướng Chính
phủ đã có Quyết định số 792/QĐ-TTg
ngày 28/6/2018 phân công Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội chủ trì
soạn thảo Dự thảo Bộ luật Lao động
(sửa đổi). Sáng ngày 20 tháng 11, với
90,06% đại biểu Quốc hội tán thành,
Quốc hội đã thông qua Bộ luật Lao
động (sửa đổi) năm 2019 với nhiều
nội dung liên quan mật thiết đến
người lao động và người sử dụng lao
động trong tình hình hiện nay. Ngoài ra,
*
Công ty Luật Việt Tín Bảo Thành phố Hồ
Chí Minh.
TRẦN QUỐC BẢO – MỘT SỐ ĐIỂM MỚI CỦA CHẾ ĐỊNH HỢP ĐỒNG
85
còn khẳng định rõ yêu cầu cần phải
tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý
điều chỉnh tốt hơn các quan hệ xã hội,
trong đó không thể không bàn đến vấn
đề về quan hệ hợp đồng lao động.
45 điều, từ Điều 13 đến Điều 58,
Chương 3 của Bộ luật Lao động 2019
quy định về hợp đồng lao động, đã thể
hiện rõ nội dung sửa đổi, bổ sung các
quy định so với Bộ luật Lao động 2012
nhằm tăng khả năng nhận diện đến tất
cả các hình thức thể hiện của quan hệ
lao động. Trong quan hệ đó, người lao
động làm việc cho người sử dụng lao
động theo thỏa thuận việc làm trong
khu vực chính thức, phi chính thức,
lao động làm việc theo các hình thức
mới phù hợp với thời đại công nghệ
số, lao động làm việc cho các doanh
nghiệp và hộ gia đình sử dụng dưới
10 lao động... Ngoài ra, Bộ luật Lao
động mới cũng bổ sung, sửa đổi các
quy định về thử việc, thẩm quyền giao
kết hợp đồng lao động, phụ lục hợp
đồng, và các quy định về việc thực
hiện, chấm dứt hợp đồng lao động,
cho thuê lại lao động nhằm đảm bảo
tính khả thi. Theo nghiên cứu, đánh
giá của chúng tôi, trong nội dung luật
mới sửa đổi lần này các nhà làm luật
đã nghiên cứu sửa đổi những nội
dung trọng tâm phù hợp với thực tiễn
phát triển nguồn nhân lực lao động xã
hội, góp phần tích cực cho sự phát
triển kinh tế đất nước hiện tại và
tương lai. Bên cạnh đó, Luật Lao động
nói chung và chế định hợp đồng lao
động nói riêng tiếp tục được nghiên
cứu, bổ sung ngày càng hoàn thiện và
tiệm cận với sự thay đổi của đời sống
xã hội. Trong phạm vi bài viết, tác giả
đưa ra nhận định liên quan đến một
số nội dung sửa đổi thuộc chế định
hợp đồng lao động của Bộ luật Lao
động 2019 nhằm góp phần xây dựng
pháp luật lao động Việt Nam ngày
càng hoàn thiện hơn.
2. MỘT SỐ ĐIỂM MỚI TRONG CHẾ
ĐỊNH HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG CỦA
BỘ LUẬT LAO ĐỘNG 2019
2.1. Vấn đề xác định thẩm quyền
giao kết hợp đồng lao động
Qua nghiên cứu chúng tôi nhận thấy
quy định của Bộ luật Lao động năm
2012 về thẩm quyền giao kết hợp
đồng lao động chủ yếu tập trung điều
chỉnh đối với người lao động, đến Bộ
luật Lao động 2019 đã đề cập mở
rộng đến người sử dụng lao động. Cụ
thể quy định này được ghi rõ tại Điểm
a Khoản 1 Điều 14 Thông tư 30/2013/
TT-BLĐTBXH hướng dẫn thi hành
Nghị định 44/2013/NĐ-CP quy định
chi tiết thi hành một số điều của Bộ
luật Lao động về hợp đồng lao động
thì người sử dụng lao động có thẩm
quyền ký kết hợp đồng lao động bao
gồm: “i) Người đại diện theo pháp luật
quy định tại Điều lệ của doanh nghiệp
hoặc người được người đại diện theo
pháp luật ủy quyền đối với doanh
nghiệp hoạt động theo Luật doanh
nghiệp; ii) Người đại diện theo pháp
luật quy định tại Điều lệ hợp tác xã,
liên hiệp hợp tác xã hoặc người được
người đại diện theo pháp luật ủy
quyền đối với hợp tác xã, liên hiệp
hợp tác xã hoạt động theo Luật Hợp
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 12 (256) 2019
86
tác xã; iii) Người đứng đầu cơ quan,
đơn vị, tổ chức hoặc người được
người đứng đầu cơ quan, đơn vị, tổ
chức ủy quyền đối với cơ quan nhà
nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức chính
trị, tổ chức chính trị - xã hội có sử
dụng lao động làm việc theo chế độ
hợp đồng lao động; iv) Người đứng
đầu tổ chức hoặc người được người
đứng đầu tổ chức ủy quyền đối với cơ
quan, tổ chức, chi nhánh, văn phòng
đại điện của nước ngoài hoặc quốc tế
đóng tại Việt Nam; v) Chủ hộ hoặc
người đại diện hộ gia đình có thuê
mướn, sử dụng lao động; vi) Cá nhân
trực tiếp sử dụng lao động”.
Tại Điều 18 của Bộ luật Lao động mới
được Quốc hội thông qua năm 2019,
cơ quan soạn thảo đã kế thừa, phát
huy tinh thần quy định từ văn bản
dưới luật để xây dựng thẩm quyền
giao kết hợp đồng lao động với các
khoản riêng biệt mang tính toàn diện
và khoa học hơn giữa các bên người
lao động và người sử dụng lao động,
như sau:
“1. Người lao động trực tiếp giao kết
hợp đồng lao động, trừ trường hợp
quy định tại Khoản 2 Điều này.
2. Đối với công việc theo mùa vụ,
công việc nhất định có thời hạn dưới
12 tháng thì nhóm người lao động từ
đủ 18 tuổi trở lên có thể ủy quyền cho
một người lao động trong nhóm để
giao kết hợp đồng lao động; trong
trường hợp này, hợp đồng lao động
phải được giao kết bằng văn bản và
có hiệu lực như giao kết với từng
người lao động.
Hợp đồng lao động do người được ủy
quyền ký kết phải kèm theo danh sách
ghi rõ họ tên, ngày tháng năm sinh,
giới tính, nơi cư trú và chữ ký của
từng người lao động.
3. Người giao kết hợp đồng lao động
bên phía người sử dụng lao động là
người thuộc một trong các trường hợp
sau đây:
a) Người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp hoặc người được ủy
quyền theo quy định của pháp luật;
b) Người đứng đầu cơ quan, tổ chức
có tư cách pháp nhân theo quy định
của pháp luật hoặc người được ủy
quyền theo quy định của pháp luật;
c) Người đại diện của hộ gia đình, tổ
hợp tác, tổ chức khác không có tư
cách pháp nhân hoặc người được ủy
quyền theo quy định của pháp luật;
d) Cá nhân trực tiếp sử dụng lao động.
4. Người giao kết hợp đồng lao động
bên phía người lao động là người thuộc
một trong các trường hợp sau đây:
a) Người lao động từ đủ 18 tuổi trở lên;
b) Người lao động từ đủ 15 tuổi đến
chưa đủ 18 tuổi khi có sự đồng ý bằng
văn bản của người đại diện theo pháp
luật của người đó;
c) Người chưa đủ 15 tuổi và người đại
diện theo pháp luật của người đó;
d) Người lao động được những người
lao động trong nhóm ủy quyền hợp
pháp giao kết hợp đồng lao động.
5. Người được ủy quyền giao kết hợp
đồng lao động không được ủy quyền
lại cho người khác giao kết hợp đồng
lao động”.
TRẦN QUỐC BẢO – MỘT SỐ ĐIỂM MỚI CỦA CHẾ ĐỊNH HỢP ĐỒNG
87
Quy định tại Điều 18 về thẩm quyền
giao kết hợp đồng lao động (Bộ luật
Lao động 2019) trên đây bảo đảm tính
khoa học và hợp lý về phạm vi và nội
hàm. Như vậy việc chưa rõ ràng, khó
xác định theo quy định trước đây:
trường hợp người lao động từ đủ 15
tuổi đến chưa đủ 18 tuổi thì việc giao
kết hợp đồng lao động phải được sự
đồng ý của người đại diện theo pháp
luật của người lao động – “sự đồng ý”
của người đại diện theo pháp luật
được đề cập ở đây chưa thực sự rõ
ràng
(1). Theo quy định mới, người đại
diện theo pháp luật của người lao
động không được đồng ý bằng các
hình thức lời nói, hành vi khác mà
phải bằng văn bản trong trường hợp
người lao động từ đủ 15 tuổi đến
chưa đủ 18 tuổi để việc giao kết hợp
đồng lao động có giá trị pháp lý.
Quy định mới cho thấy, các nhà soạn
thảo đã thực sự lường hết được tính
phức tạp của việc chấp thuận đồng ý
của người đại diện theo pháp luật của
người lao động từ đủ 15 tuổi đến
chưa đủ 18 tuổi khi giao kết hợp đồng
lao động.
2.2. Không còn hợp đồng lao động
theo mùa vụ; ghi nhận hình thức
hợp đồng lao động điện tử và được
ký hợp đồng xác định thời hạn
nhiều lần với người cao tuổi
Một trong những điểm mới trong bộ
luật sửa đổi lần này là hợp đồng lao
động theo thời vụ đã bị loại ra khỏi
danh mục xác định các hình thức hợp
đồng lao động. Theo nhìn nhận của
chúng tôi, tại Điều 20 Bộ luật Lao
động 2019 đã bỏ nội dung về hợp
đồng mùa vụ hoặc theo một công việc
có thời hạn dưới 12 tháng, thay vào
đó chỉ còn 2 loại hợp đồng là: hợp
đồng lao động không xác định thời
hạn và hợp đồng lao động xác định
thời hạn, đây là điểm tiến bộ của pháp
luật lao động nhằm bảo vệ người lao
động, hạn chế tình trạng người sử
dụng lao động “lách luật”, không đóng
bảo hiểm xã hội cho người lao động
bằng cách ký các loại hợp đồng mùa
vụ, dịch vụ...
Ghi nhận hình thức hợp đồng lao
động điện tử, theo chúng tôi là xuất
phát từ thực tiễn phát triển của khoa
học công nghệ, đặc biệt công nghệ
4.0 mà nòng cốt là công nghệ thông
tin, trong quan hệ lao động hiện nay,
việc giao kết hợp đồng lao động
không chỉ bằng văn bản, lời nói hay
hành vi mà được thể hiện đa dạng linh
hoạt trong đời sống xã hội. Chính vì
vậy, Điều 14 Bộ luật Lao động 2019
đã ghi nhận thêm hình thức giao kết
hợp đồng lao động thông qua phương
tiện điện tử có giá trị như hợp đồng
lao động bằng văn bản.
Ngoài ra, với những trường hợp hai
bên thỏa thuận bằng tên gọi khác
nhưng có nội dung thể hiện việc làm
có trả công, tiền lương và sự quản lý,
điều hành, giám sát của một bên thì
vẫn được coi là hợp đồng lao động.
Một điểm mới mà trước đây chưa
từng được đề cập liên quan đến chế
tài hợp đồng lao động đó chính là cho
phép người sử dụng lao động được
ký hợp đồng xác định thời hạn nhiều
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 12 (256) 2019
88
lần với người cao tuổi. Xét theo
phương diện thực tiễn, người cao tuổi
thường là những người có nhiều năm
làm việc với nhiều kinh nghiệm quý
báu, đặc biệt là những công việc đòi
hỏi trình độ cao, chuyên môn thành
thạo. Do đó, để phát huy giá trị của
người cao tuổi, các nhà làm luật đã
xây dựng Điều 149 trong Bộ luật Lao
động nhằm mục đích cho phép người
sử dụng lao động thỏa thuận giao kết
nhiều lần hợp đồng lao động xác định
thời hạn với người cao tuổi thay vì
kéo dài thời hạn hợp đồng lao động
hoặc giao kết hợp đồng lao động mới
như trước đây.
3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
Phải thừa nhận rằng, nội dung mới về
hợp đồng lao động trong bộ luật sửa
đổi lần này mang tính tích cực cao.
Theo góc nhìn của chúng tôi, trong
thực tiễn người lao động và doanh
nghiệp được hưởng lợi từ lần sửa đổi
này là không nhỏ. Tuy nhiên, cần thiết
phải chú ý hoàn thiện kịp thời trong
quá trình triển khai áp dụng chế định
hợp đồng trong bộ luật mới này, cụ
thể là:
3.1. Về vấn đề thông báo chấm dứt
hợp đồng lao động
Tại Điều 45 của Bộ luật Lao động
2019, quy định 2 khoản riêng biệt:
“1. Người sử dụng lao động phải
thông báo bằng văn bản cho người
lao động về việc chấm dứt hợp đồng
lao động khi hợp đồng lao động chấm
dứt theo quy định của bộ luật này, trừ
trường hợp quy định tại các Khoản 4,
5, 6, 7 và 8 Điều 34 của bộ luật này.
2. Trường hợp người sử dụng lao
động không phải là cá nhân chấm dứt
hoạt động thì thời điểm chấm dứt hợp
đồng lao động tính từ thời điểm có
thông báo chấm dứt hoạt động.
Trường hợp người sử dụng lao động
không phải là cá nhân bị cơ quan
chuyên môn về đăng ký kinh doanh
thuộc Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh ra
thông báo không có người đại diện
theo pháp luật, người được ủy quyền
thực hiện quyền và nghĩa vụ của
người đại diện theo pháp luật theo quy
định tại Khoản 7 Điều 34 của bộ luật
này thì thời điểm chấm dứt hợp đồng
lao động tính từ ngày ra thông báo”.
Tại Khoản 1 của điều này, xét theo
phương diện nghĩa vụ phải thông báo
việc chấm dứt hợp đồng lao động khi
hợp đồng lao động chấm dứt theo quy
định cho thấy đây là một quy định bắt
buộc. Các nhà làm luật sử dụng cụm
từ “phải thông báo” như là một mệnh
lệnh xử sự chung mà người có thẩm
quyền sử dụng lao động phải thực
hiện nghĩa vụ bắt buộc thông báo
bằng văn bản cho ngừời lao động, trừ
trường hợp quy định tại các Khoản 4,
5, 6, 7 và 8 Điều 34 của bộ luật này(2).
Về Khoản 2 Điều 45, theo chúng tôi
thì quy định như trên chưa phù hợp
với thực tiễn, chồng chéo và không
khoa học với các quy định trong bộ
luật này và pháp luật khác có liên
quan. Cụ thể:
Theo quy định của Luật Doanh nghiệp
hiện hành tại Điều 13 về người đại
diện theo pháp luật của doanh nghiệp
cho thấy:
TRẦN QUỐC BẢO – MỘT SỐ ĐIỂM MỚI CỦA CHẾ ĐỊNH HỢP ĐỒNG
89
Một: Người đại diện theo pháp luật
của doanh nghiệp là cá nhân đại diện
cho doanh nghiệp thực hiện các
quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao
dịch của doanh nghiệp, đại diện cho
doanh nghiệp với tư cách nguyên
đơn, bị đơn, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan trước trọng tài, tòa
án và các quyền và nghĩa vụ khác
theo quy định của pháp luật;
Hai: Công ty trách nhiệm hữu hạn và
công ty cổ phần có thể có một hoặc
nhiều người đại diện theo pháp luật.
Điều lệ công ty quy định cụ thể số
lượng, chức danh quản lý và quyền,
nghĩa vụ của người đại diện theo
pháp luật của doanh nghiệp;
Ba: Doanh nghiệp phải bảo đảm luôn
có ít nhất một người đại diện theo
pháp luật cư trú tại Việt Nam. Trường
hợp doanh nghiệp chỉ có một người
đại diện theo pháp luật thì người đó
phải cư trú ở Việt Nam và phải ủy
quyền bằng văn bản cho người khác
thực hiện quyền và nghĩa vụ của
người đại diện theo pháp luật khi xuất
cảnh khỏi Việt Nam. Trường hợp này,
người đại diện theo pháp luật vẫn phải
chịu trách nhiệm về việc thực hiện
quyền và nghĩa vụ đã ủy quyền;
Bốn: Trường hợp hết thời hạn ủy
quyền theo Khoản 3 điều này mà
người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp chưa trở lại Việt Nam
và không có ủy quyền khác thì thực
hiện theo quy định sau đây: a) Người
được ủy quyền vẫn tiếp tục thực hiện
các quyền và nghĩa vụ của người đại
diện theo pháp luật của doanh nghiệp
tư nhân trong phạm vi đã được ủy
quyền cho đến khi người đại diện theo
pháp luật của doanh nghiệp trở lại làm
việc tại doanh nghiệp; b) Người được
ủy quyền vẫn tiếp tục thực hiện các
quyền và nghĩa vụ của người đại diện
theo pháp luật của công ty trách
nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công
ty hợp danh trong phạm vi đã được ủy
quyền cho đến khi người đại diện theo
pháp luật của công ty trở lại làm việc
tại công ty hoặc cho đến khi chủ sở
hữu công ty, Hội đồng thành viên, Hội
đồng quản trị, quyết định cử người
khác làm người đại diện theo pháp
luật của doanh nghiệp;
Năm: Trường hợp doanh nghiệp chỉ
có một người đại diện theo pháp luật
và người này vắng mặt tại Việt Nam
quá 30 ngày mà không ủy quyền cho
người khác thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của người đại diện theo
pháp luật của doanh nghiệp hoặc bị
chết, mất tích, tạm giam, kết án tù, bị
hạn chế hoặc mất năng lực hành vi
dân sự thì chủ sở hữu công ty, Hội
đồng thành viên, Hội đồng quản trị cử
người khác làm người đại diện theo
pháp luật của công ty.
Sáu: Đối với công ty trách nhiệm hữu
hạn có hai thành viên, nếu có thành
viên là cá nhân làm người đại diện
theo pháp luật của công ty bị tạm
giam, kết án tù, trốn khỏi nơi cư trú, bị
mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự hoặc bị tòa án tước quyền
hành nghề vì phạm tội buôn lậu, làm
hàng giả, kinh doanh trái phép, trốn
thuế, lừa dối khách hàng và tội khác
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 12 (256) 2019
90
theo quy định của Bộ luật Hình sự thì
thành viên còn lại đương nhiên làm
người đại diện theo pháp luật của
công ty cho đến khi có quyết định mới
của Hội đồng thành viên về người đại
diện theo pháp luật của công ty;
Bảy: Trong một số trường hợp đặc
biệt, tòa án có thẩm quyền có quyền
chỉ định người đại diện theo pháp
luật trong quá trình tố tụng tại tòa án.
Như vậy, theo quy định của Luật
Doanh nghiệp xác định người đại diện
theo pháp luật, người đại diện ủy
quyền có liên quan đến cơ quan quản
lý nhà nước về đăng ký kinh doanh
cấp tỉnh, thành ra thông báo khi họ
“không còn” chỉ có hai loại hình doanh
nghiệp đó là doanh nghiệp tư nhân và
công ty TNHH một thành viên do một
cá nhân làm chủ sở hữu mà thôi. Hay
nói cách khác, loại hình doanh nghiệp
tư nhân do một cá nhân làm chủ và
công ty TNHH một thành viên là cá
nhân làm chủ sở hữu là 2 chủ thể
thuộc đối tượng điều chỉnh theo quy
định tại Khoản 2 Điều 45 của Bộ luật
Lao động năm 2019.
Đối với quy định thẩm quyền phòng
đăng ký kinh doanh cấp huyện cấp
giấy phép hoạt động thì duy nhất chỉ
có hộ kinh doanh do một cá nhân còn
hộ kinh doanh do một nhóm người,
một gia đình nhiều thành viên tham
gia kinh doanh thì người đại diện theo
pháp luật và người đại diện theo ủy
quyền luôn luôn hiện diện không bị
mất đi.
Theo chúng tôi, cần xác định rõ đối
tượng có thể “không còn” liên quan
đến việc thông báo chấm dứt hợp
đồng lao động với người lao động
trong quy phạm này đó là: “chủ doanh
nghiệp tư nhân, chủ sở hữu công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên
là cá nhân và hộ kinh doanh do một
cá nhân hoặc một hộ gia đình thành
lập”.
Nhìn nhận theo góc độ khoa học pháp
lý đối với vấn đề phân cấp thẩm
quyền ra thông báo “ thì cơ quan
quản lý nhà nước về đăng ký kinh
doanh ra thông báo chấm dứt hợp
đồng lao động” trong bộ luật mới chưa
phù hợp với thực tiễn hiện nay, bởi vì
nó trái với quy định thẩm quyền quản
lý nhà nước đối với các cơ quan hành
pháp, ví dụ như: Luật Tổ chức chính
quyền địa phương 2015 và Khoản 4
Điều 213 của bộ luật này “Ủy ban
Nhân dân các cấp thực hiện quản lý
nhà nước về lao động trong phạm vi
địa phương mình”. Đặc biệt, quy định
tại Khoản 1 Điều 209 Luật Doanh
nghiệp hiện hành cũng như Nghị định
hướng dẫn thi hành một số điều của
Luật Doanh nghiệp 2015 thì cơ quan
đăng ký kinh doanh không có nhiệm
vụ và quyền hạn liên quan đến giao
kết và thực hiện hợp đồng lao động
của tổ chức, cá nhân.
Để khoa học hơn và áp dụng chung từ
Trung ương đến địa phương một cách
hợp lý, hạn chế rủi ro trong quá trình
áp dụng quy định pháp luật này cần
quy định rõ về cơ quan “ra thông báo
chấm dứt hợp đồng lao động”. Thuận
tiện nhất cho cơ quan hành pháp là
Chính phủ cần thiết phải ban hành
TRẦN QUỐC BẢO – MỘT SỐ ĐIỂM MỚI CỦA CHẾ ĐỊNH HỢP ĐỒNG
91
nghị định hướng dẫn chi tiết một số
điều của Bộ luật Lao động trong đó
hướng dẫn rõ hơn về cơ quan quản lý
nhà nước về lao động cấp tỉnh, thành
trong cả nước có thẩm quyền ra thông
báo tổ chức, cá nhân người đại diện
theo pháp luật hoặc người được người
đại diện theo pháp luật ủy quyền trong
tổ chức đó bị cơ quan chuyên môn về
đăng ký kinh doanh thuộc Ủy ban
Nhân dân cấp tỉnh ra thông báo không
có người đại diện theo pháp luật,
người được ủy quyền thực hiện quyền
và nghĩa vụ của người đại diện theo
pháp luật theo quy định tại Khoản 7
Điều 34 của bộ luật này thì thời điểm
chấm dứt hợp đồng lao động tính từ
ngày ra thông báo.
3.2. Về quyền đơn phương chấm
dứt hợp đồng lao động của người
sử dụng lao động
Điều 36 của Bộ luật Lao động 2019
với cấu trúc 3 khoản riêng biệt thể
hiện rõ nội dung những trường hợp cụ
thể để người sử dụng lao động được
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động và phải thông báo trước cho
người lao động khi sử dụng quyền
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động(3). Xét về mặt quyền trong quan
hệ lao động bằng hợp đồng thì nó thể
hiện được bản chất người sử dụng
lao động chỉ đơn phương chấm dứt
hợp đồng khi xuất hiện những lý do
chủ quan từ phía người lao động. Xét
theo phương diện phạm vi điều chỉnh
thì quy định này điều chỉnh mối quan
hệ lao động trong các cơ quan, đơn vị
có quy mô hoạt động lớn và số lượng
đông người lao động tham gia. Nhưng
xét theo khía cạnh thực tế thì việc
chấm dứt hợp đồng diễn ra trong
quan hệ lao động phải đảm bảo tính
bền vững, giảm thiểu rủi ro cho các
bên là chính doanh nghiệp, người lao
động và cơ quan nhà nước có thẩm
quyền thì cần phải nghiên cứu thật
chuẩn xác và hợp lý hơn.
Theo quan điểm của chúng tôi, Điểm
a Khoản 1 Điều 36 Bộ luật Lao động
năm 2019 quy định trường hợp
“người lao động thường xuyên không
hoàn thành công việc theo hợp đồng
lao động được xác định theo tiêu chí
đánh giá mức độ hoàn thành công
việc trong quy chế của người sử dụng
lao động. Quy chế đánh giá mức độ
hoàn thành công việc do người sử
dụng lao động ban hành nhưng phải
tham khảo ý kiến tổ chức đại diện
người lao động tại cơ sở đối với nơi
có tổ chức đại diện người lao động tại
cơ sở” là chưa hợp lý, thiếu tính thống
nhất trong cách hiểu, không khả thi
trong thực tiễn, cụ thể:
Một: Quy định này chỉ hợp lý cho
những người sử dụng từ 10 người lao
động trở lên, với hình thức hợp đồng
lao động có thời hạn theo luật định, trả
lương theo tháng cho người lao động.
Ở đó họ sẽ xây dựng “tiêu chí đánh
giá mức độ hoàn thành công việc
trong quy chế của người sử dụng lao
động”. Thực tiễn cho thấy, những
người sử dụng lao động có quy mô
nhỏ lẻ, việc thiết lập “quy chế” mang
tính chuyên nghiệp thường là không
cần thiết.
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 12 (256) 2019
92
Hai: Cụm từ “thường xuyên” ở đây
thiên về định tính, sẽ có nhiều cách
hiểu khác nhau, không thống nhất đối
với việc đơn phương chấm dứt hợp
đồng lao động. Quy định này vô hình
trung ủng hộ “cảm tính” cho người sử
dụng lao động trong việc đơn phương
chấm dứt hợp đồng đối với người lao
động. Từ đó dễ nảy sinh sự thiếu công
bằng trong thực tiễn áp dụng quy định
này tại các doanh nghiệp. Nếu như các
nhà làm luật quy định tối thiểu số lần
không hoàn thành công việc theo hợp
đồng thì chắc chắn quyền đơn phương
chấm dứt hợp đồng lao động của
người sử dụng lao động sẽ thực chất
hơn, giảm nhiều rủi ro tranh chấp hơn
trong thực tiễn bởi nó thể hiện một
cách rõ ràng và định lượng.
Như vậy, Điểm a Khoản 1 Điều 36 Bộ
luật Lao động 2019 cần điều chỉnh
theo hướng phải quy định số ngày, lần
không hoàn thành công việc mang
tính định lượng để áp dụng chung
thống nhất cho người sử dụng lao
động từ 10 người lao động trở lên đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động
với người lao động.
3.3. Bổ sung hành vi người sử dụng
lao động không được làm khi giao
kết, thực hiện hợp đồng lao động
tại Điều 17 của Bộ luật Lao động 2019
Đối với Điểm b Khoản 1 Điều 36 của
Bộ luật Lao động 2019 xác định
những người lao động bị ốm đau, tai
nạn đã điều trị 12 tháng liên tục đối
với người làm theo hợp đồng lao động
không xác định thời hạn, đã điều trị 6
tháng liên tục đối với người lao động
làm theo hợp đồng lao động xác định
thời hạn từ 12 tháng đến 36 tháng và
quá nửa thời hạn hợp đồng lao động
đối với người làm theo hợp đồng lao
động xác định thời hạn dưới 12 tháng
mà khả năng lao động chưa hồi phục
thì cũng bị người sử dụng lao động
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động. Tuy nhiên, quy định: “Khi sức
khỏe của người lao động bình phục,
thì người sử dụng lao động xem xét
để tiếp tục giao kết hợp đồng lao động
với người lao động” chưa khoa học và
không hợp lý. Nhìn nhận theo góc độ
bảo vệ con người, người lao động đã
có quan hệ lao động với người sử
dụng lao động bằng hợp đồng, khi bị
rơi vào hoàn cảnh khó khăn do ốm
đau, tai nạn ngoài ý muốn thì quy định
này rất nhân văn. Nhưng nếu xét theo
góc độ quản lý của nhà nước, xem
việc này là nghĩa vụ của người sử
dụng lao động mà đặt nội dung này
trong quy phạm của Điểm b Khoản 1
Điều 37 của bộ luật này là không hợp
lý. Quy định “người sử dụng lao động
xem xét để tiếp tục giao kết hợp đồng
lao động với người lao động” mang
tính chất tùy nghi không dứt khoát,
tính bắt buộc rất mờ nhạt, bởi người
sử dụng lao động chỉ xem xét và điều
này phụ thuộc vào ý chí thích hay
không thích của người sử dụng lao
động. Nếu người sử dụng lao động
xem xét thấy không được thì người
lao động không có cơ hội tiếp tục làm
việc mặc dù sức khỏe của người lao
động đã thực sự bình phục. Nhìn
nhận theo khoa học pháp lý, vấn đề
này không thuộc về nội dung quyền
TRẦN QUỐC BẢO – MỘT SỐ ĐIỂM MỚI CỦA CHẾ ĐỊNH HỢP ĐỒNG
93
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động của người sử dụng lao động mà
nó phải được thiết lập trong quy định
“hành vi người sử dụng lao động
không được làm khi giao kết, thực
hiện hợp đồng lao động” tại Điều 17
của Bộ luật Lao động sửa đổi để đảm
bảo khoa học hơn.
4. KẾT LUẬN
Bộ luật Lao động 2019 đã được Quốc
hội khóa XIII thông qua ngày
20/11/2019, bắt đầu có hiệu lực từ
01/01/2021. Bộ luật Lao động 2019 đã
đưa ra những quy định cụ thể hơn và
bảo vệ lợi ích cho người lao động
nhiều hơn. Trong đó vai trò của những
nội dung mới về hợp đồng lao động
có tác dụng rất sâu sắc đến quá trình
tham gia trao đổi sức lao động của
người lao động và người sử dụng lao
động trong nền kinh tế thị trường ở
nước ta. Trong chế định hợp đồng lao
động các nhà làm luật đã nghiên cứu
để thiết kế 45 điều riêng biệt từ Điều
13 đến Điều 58 của Chương 3 Bộ luật
Lao động phù hợp với thực tế áp dụng
luật điều chỉnh trong quan hệ lao động.
Quy định mới đã thể hiện sự bình
đẳng giữa các bên trong quan hệ lao
động cũng như bảo đảm được khách
thể của quan hệ lao động trong nền
kinh tế thị trường mở ở nước ta mà
các bên tham gia hướng tới. Qua
những nội dung mới về chế định hợp
đồng lao động đã được sửa đổi, bổ
sung trong Bộ luật Lao động 2019 cho
thấy sự hoàn thiện hơn của Bộ luật
Lao động ở nước ta hiện nay.
CHÚ THÍCH
(1)
Điểm b Khoản 4 Điều 18 Bộ luật Lao động 2019.
(2)
Nghĩa là, những trường hợp liệt kê sau đây thì người sử dụng lao động không có nghĩa
vụ thông báo: “i. Người lao động bị kết án phạt tù nhưng không được hưởng án treo hoặc
không thuộc trường hợp được trả tự do theo quy định tại Khoản 5 Điều 328 của Bộ luật Tố
tụng hình sự, tử hình hoặc bị cấm làm công việc ghi trong hợp đồng lao động theo bản án,
quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật; ii. Người lao động là người nước ngoài làm
việc tại Việt Nam bị trục xuất theo bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật,
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; iii. Người lao động chết; bị tòa án tuyên
bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc đã chết; iv. Người lao động là cá nhân chết;
bị tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc đã chết. Người lao động
không phải là cá nhân chấm dứt hoạt động hoặc bị cơ quan chuyên môn về đăng ký kinh
doanh thuộc Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh ra thông báo không có người đại diện theo pháp
luật, người được ủy quyền thực hiện quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật;
v. Người lao động bị xử lý kỷ luật sa thải”.
(3)
Điều 36. Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động
1. Người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong
trường hợp sau đây:
a) Người lao động thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động được
xác định theo tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành công việc trong quy chế của người sử
dụng lao động. Quy chế đánh giá mức độ hoàn thành công việc do người sử dụng lao động
ban hành nhưng phải tham khảo ý kiến tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở đối với nơi
có tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở;
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 12 (256) 2019
94
b) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 12 tháng liên tục đối với người làm việc theo
hợp đồng lao động không xác định thời hạn hoặc đã điều trị 06 tháng liên tục đối với người
làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn từ 12 tháng đến 36 tháng
hoặc quá nửa thời hạn hợp đồng lao động đối với người làm việc theo hợp đồng lao động
xác định thời hạn có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa hồi phục.
Khi sức khỏe của người lao động bình phục thì người sử dụng lao động xem xét để tiếp tục
giao kết hợp đồng lao động với người lao động;
c) Do thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh nguy hiểm, địch họa hoặc di dời, thu hẹp sản xuất, kinh
doanh theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà người sử dụng lao động đã
tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải giảm chỗ làm việc;
d) Người lao động không có mặt tại nơi làm việc sau thời hạn quy định tại Điều 31 của bộ
luật này;
đ) Người lao động đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định tại Điều 169 của bộ luật này, trừ trường
hợp có thỏa thuận khác;
e) Người lao động tự ý bỏ việc mà không có lý do chính đáng từ 5 ngày làm việc liên tục
trở lên;
g) Người lao động cung cấp không trung thực thông tin theo quy định tại Khoản 2 Điều 16
khi giao kết hợp đồng lao động làm ảnh hưởng đến việc tuyển dụng người lao động.
2. Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong trường hợp quy định tại các Điểm a,
b, c, đ và g Khoản 1, người sử dụng lao động phải báo trước cho người lao động như sau:
a) Ít nhất 45 ngày đối với hợp đồng lao động không xác định thời hạn;
b) Ít nhất 30 ngày đối với hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn từ 12 tháng đến
36 tháng;
c) Ít nhất 3 ngày làm việc đối với hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn dưới 12
tháng và đối với trường hợp quy định tại Điểm b Khoản 1 điều này;
d) Đối với một số ngành, nghề, công việc đặc thù thì thời hạn báo trước được thực hiện theo
quy định của Chính phủ.
3. Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động quy định tại Điểm d và Điểm e Khoản 1
điều này thì người sử dụng lao động không phải báo trước cho người lao động.
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN
1. Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Hiến pháp năm 2013. Hà Nội.
2. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. 2012. Bộ luật Lao động năm
2012. Hà Nội.
3. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. 2015. Luật Doanh nghiệp năm
2015. Hà Nội.
4. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. 2015. Luật Tổ chức chính
quyền địa phương năm 2015. Hà Nội.
5. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. 2019. Bộ luật Lao động 2019,
Bộ luật Lao động số 45/2019/QH14. Hà Nội.
6. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Dự thảo trình Ủy ban thường
vụ Quốc hội tại phiên họp lần thứ 36, tháng 8/2019 Bộ luật Lao động sửa đổi,
https://luatvietnam.vn/lao-dong/du-thao-bo-luat-lao-dong-sua-doi-nam-2019-172373-
d10.html#noidung, truy cập ngày 21/9/2019.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_diem_moi_cua_che_dinh_hop_dong_lao_dong_bo_luat_lao_d.pdf