MỤC LỤC
Lời mở đầu 3
Chương I - Những vấn đề lý luận chung về thanh toán xuất nhập khẩu5
I - Khái niệm và vai trò của thanh toán xuất nhập khẩu trong hoạt động các ngân hàng thương mại5
1. Khái niệm về thanh toán xuất nhập khẩu. 5
2. Điều kiện thanh toán xuất nhập khẩu. 6
2.1 Điều kiện tiền tệ: 6
2.2 ĐiÒu kiện thời gian thanh toán: 6
2.3 Điều kiện về địa điểm thanh toán: 8
2.4 Điều kiện về phương thức thanh toán: 8
2.5 Điều kiện đảm bảo hối đoái: 9
3 . Vai trò của thanh toán xuất nhập khẩu. 9
3.1 Thanh toán xuất nhập khẩu là đòi hỏi tất yếu khách quan trong phát triển kinh tế: 9
3.2, Thanh toán xuất nhập khẩu là khâu quan trọng trong hoạt động xuất nhập khẩu: 9
3.3, Thanh toán xuất nhập khẩu là thước đo, là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh: 9
3.4, Thanh toán xuất nhập khẩu là một nghiệp vụ quan trọng trong hoạt động đối ngoại của ngân hàng: 9
II - Các phương thức thanh toán xuất nhập khẩu .10
1. Phương thức chuyển tiền (Remittance). 11
2. Phương thức ghi sổ (Open account). 12
3. Phương thức thanh toán nhờ thu (Collection of Payment). 12
4. Phương thức thanh toán thư tín dụng (Letter of credit). 14
5. Phương thức uỷ thác mua. 17
6. Phương thức bảo đảm trả tiền. 18
III - Các nhân tố ảnh hưởng tới quá trình thanh toán xuất nhập khẩu nói chung và đối với các ngân hàng thương mại nói riêng18
1 . Từ phía Ngân hàng. 18
2 . Từ phía khách hàng. 19
3 . Hoạt động quản lý của Nhà nước. 19
Chương II - Thực trạng hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội. 22
I - Khái quát chung về Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội22
1 . Lịch sử hình thành và phát triển. 22
2 . Cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội. 23
2.1. Phòng Kinh doanh: 24
2.2. Phòng Kế toán: 24
2.3. Phòng ngân quỹ: 25
2.4. Phòng hành chính nhân sự: 25
2.5. Phòng kế hoạch: 26
2.6. Phòng thanh toán quốc tế: 26
2.7. Phòng kiểm soát: 26
3 . Tình hình hoạt động của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội, giai đoạn 1996 -1999. 27
II - Thực trạng hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội30
1 . Quy định về quy trình nghiệp vụ thanh toán xuất nhập khẩu tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội. 30
1.1, Quy trình thanh toán L/C nhập khẩu: 30
1.2, Quy trình thanh toán L/C xuất khẩu: 32
1.3, Quy trình thanh toán chuyển tiền: 34
1.4, Quy trình thanh toán nhờ thu: 34
2 . Tình hình hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội. 35
2.1 Thanh toán hàng xuất nhập khẩu: 35
III - Đánh giá chung về hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội42
1 . Kết quả hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội. 42
2 . Những tồn tại trong hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội. 44
3 . Một số nguyên nhân của những tồn tại trong thanh toán xuất nhập khẩu tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội. 46
Chương III- Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội 49
I - Phương hướng phát triển hoạt động kinh doanh của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội49
1 . Định hướng phát triển của ngành Ngân hàng Việt Nam. 49
2 . Phương hướng phát triển của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội. 50
II - Một số giải pháp cơ bản góp phần hoàn thiện hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội 54
1 . Các giải pháp đối với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội. 54
1.1. Đa dạng hoá các phương thức thanh toán xuất nhập khẩu: 54
1.2. Xây dựng chiến lược phát triển thị trường thanh toán xuất nhập khẩu phù hợp: 54
1.3. Ứng dông Marketing trong hoạt động của Ngân hàng: 55
1.4. Hoàn thiện nghiệp vụ thanh toán xuất nhập khẩu: 57
1.5. Nâng cao trình độ nghiệp vụ của thanh toán viên: 58
1.6. Thực hiện chiến lược hỗ trợ nâng cao nghiệp vụ của khách hàng: 59
2 . Kiến nghị đối với Nhà nước. 61
3 . Kiến nghị đối với các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu. 64
Kết luận 66
72 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1835 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g vốn ngoại tệ từ các đơn vị. Mặt khác do tâm lý của người dân Việt Nam thích mua bán ngoại tệ tại các cửa hàng tư nhân. Vì vậy, nguồn vốn ngoại tệ của Ngân hàng không mạnh, chủ yếu là nguồn huy động tiền gửi dân cư và nguồn vốn ngoại tệ điều hoà từ Trung ương. Đây là một khó khăn đối với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội khi thực hiện thanh toán xuất nhập khẩu, Ngân hàng đã phải từ chối một số giao dịch do không đủ ngoại tệ đáp ứng nhu cầu thanh toán.
Thứ hai, về tổ chức nghiệp vụ thanh toán xuất nhập khẩu, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội chưa thực hiện nghiệp vụ thanh toán xuất nhập khẩu theo mét quy chế, quy định chính thức, đồng bộ hoàn chỉnh. Chính vì thanh toán xuất nhập khẩu được tiến hành theo các quy định mang tính tạm thời (dưới dạng dự thảo) nên còn nhiều chỗ chưa thực sự hợp lý như tình trạng chồng chéo trong sử lý chứng từ, Sở đã tiến hành kiểm tra nhưng xuống chi nhánh lại kiểm tra lại hoặc ngược lại cả hai bộ phận đều kiểm tra không kỹ vì ỷ lại cho bộ phận kia. Việc tiến hành nhiều bước chồng chéo tại Sở và chi nhánh lại dẫn đến sự lãng phí sức người, sức của, làm giảm hiệu quả thanh toán trong nội bộ Ngân hàng.
Thứ ba, về trình độ cán bộ nghiệp vụ, qua các năm công tác, trách nhiệm và trình độ của thanh toán viên ngày càng nâng song thực sự vẫn chưa đạt được yêu cầu. Nghiệp vụ kiểm tra chứng từ thanh toán viên còn chưa cao, còn lúng túng nhiều trong thực hiện, đặc biệt là các thanh toán viên ở các Chi nhánh bên dưới. Tuy không gây sai sót gì lớn trong thanh toán như kéo dài thời gian sử lý bộ hồ sơ, chứng từ, nhưng lập được bộ hố sơ lại mất nhiều thời gian. Nhiều khi không phát hiện được sai sót trong hồ sơ, chứng từ để kịp thời hướng dẫn khách hàng sửa đổi, bổ sung, thanh toán viên đã sử lý bước tiếp theo.
Số cán bộ hiểu cặn kẽ nghiệp vụ ngoại thương, nghiệp vụ thanh toán xuất nhập khẩu chưa nhiều, thường chỉ chuyên môn tiến hành một mảng công việc nào đó, khi chuyÓn sang làm mảng công việc khác thì rất lúng túng. Trình độ cán bộ ở các Sở đầu mối tương đối cao song cán bộ chi nhánh còn cần đào tạo, nâng cao thêm. Cần phải nói thêm là sự hiểu biết của thanh toán viên về lĩnh vực khác đôi khi chưa rộng, chưa sâu, nắm tình hình tài chính của khách đôi khi chưa chắc.
Thứ tư, về máy móc thiết bị chuyên dùng, tuy Ngân hàng đang tiến hành hiện đại hoá, song máy móc thiết bị hiện đại chuyên dùng chỉ được đầu tư cho các sở đầu mối, chưa đầu tư xuống các cơ sở ( như nối mạng SWIFT...). Trình độ vi tính của cán bộ Ngân hàng chưa đồng đều. Tuy tham gia chính thức vào hệ thống SWIFT, hệ thống truyền tin điện tử quốc tế, trong đó các thông tin đã được mã hoá giữa các ngân hàng thành viên trên toàn thế giới từ tháng 03/1995 song vẫn còn đang ở giai đoạn thử nghiệm, chưa phát huy được hết công suất máy, thanh toán vẫn phải qua phương tiện truyền thống. Do đó, thời gian thanh toán vẫn chưa được rút ngắn xuống mức tối thiểu.
Thứ năm, về môi trường hoạt động kinh doanh và môi trường pháp lý, thời gian qua, môi trường hoạt động kinh doanh của Ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Tình trạng lừa lọc, tiêu cực không chỉ trong nước mà ngày càng gia tăng trong thương trường quốc tế ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động kinh doanh đối ngoại nói chung và hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu nói riêng. Bên cạnh đó các quy định trong quy trình nghiệp vụ thanh toán thiếu chặt chẽ, tình trạng mở L/C bảo lãnh trả chậm tràn lan gây ra nhiều vấn đề nổi cộm trong hoạt động Ngân hàng. Chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước cũng không đồng bộ. Một số chỉ thị, quy định của Ngân hàng Nhà nước về ngoại hối có tính chất tình thế (như về bảo lãnh, mở L/C trả chậm...) do đó đã gây lúng túng trong việc thực hiện của các Ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội nói riêng.
3. Một số nguyên nhân của những tồn tại trong thanh toán xuất nhập khẩu tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội.
a) Trong thanh toán hàng nhập khẩu:
Một số đơn vị đã ký những hợp đồng nhập khẩu mà không nắm vững được lý lịch cũng như khả năng giao của người bán, lại đồng ý áp dụng phương thức thanh toán chuyển tiền trả trước qua Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội (đặt cọc, ứng trước tiền hàng...) do đó đã nhờ Ngân hàng chuyển tiền rồi mà không nhận được hàng. Vốn đã bị thiếu lại bị chiếm dụng trong thời gian dài.
Cũng đã xảy ra những trục trặc nhỏ như việc đóng sai trọng lượng hàng hoá. Từ những sai sót nhỏ này không ảnh hưởng đến số phận hàng hoá ( nhất là về quy cách phẩm chất), người nhập khẩu có thể châm trước được, song không đảm bảo được rằng lần sau họ được may mắn như vậy hay không.
Khi áp dụng phương thức chuyển tiền sau, có đơn vị nhập khẩu đã có ý định trì hoãn hoặc vì lý do nào đó không trả tiền đúng hạn như trong hợp đồng quy định sau khi đã nhận được bộ chứng từ đi nhận hàng. Do đó, khi đến Ngân hàng yêu cầu thực hiện việc chuyển tiền cho bên xuất khẩu nước ngoài thì đã quá hạn thanh toán trong hợp đồng vài ngày. Tuy sự chậm trễ này được sự đồng ý của bên xuất khẩu (khi họ chấp nhận những rủi ro như vậy) và đã đi trình cơ quan chủ quản cấp trên. Tuy Ngân hàng không hề có trách nhiệm gì trong việc người nhập khẩu kéo dài thời hạn chuyển trả tiền ra nước ngoài song với tư cách là Ngân hàng chuyển tiền hộ những khách hàng như vậy có thể làm ảnh hưởng tới uy tín của Ngân hàng đối với người xuất khẩu cũng như Ngân hàng phục vụ người xuất khẩu. Do đó, có thể dẫn đến trong thanh toán hàng xuất, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội sẽ không được họ chọn làm ngân hàng thông báo, ngân hàng phục vụ người hưởng lợi. Điều này có nghĩa là giảm khả năng mở rộng hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thông Hà Nội.
Khi ra lệnh chuyển tiền, các đơn vị này không ghi rõ ràng, đầy đủ họ tên, địa chỉ của người hưởng lợi, có khi còn ghi nhầm làm Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội phải điện đi hỏi lại họ hoặc ngân hàng nước ngoài. Tất nhiên, những chi phí phát sinh do các đơn vị này gây ra phải chịu song đã giảm hiệu quả thanh toán của Ngân hàng.
Trong áp dụng phương thức thanh toán nhờ thu kèm chứng từ với hàng nhập, tức là đơn vị nhập khẩu của ta tương đối dành thế chủ động trong thanh toán, tuy chưa có bộ chứng từ nào bị đơn vị nhập khẩu của ta từ chối hoàn toàn phải trả lại phía xuất khẩu, song có tình trạng đơn vị nhập khẩu chưa thu xếp được nguồn thanh toán nên lần lữa không nhận bộ chứng từ. Theo UCP 500, Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội chỉ có 07 ngày làm việc từ khi nhận được bộ chứng từ và uỷ nhiệm thu từ ngân hàng nước ngoài đến khi phản hồi lại cho họ, nên Ngân hàng đã phải điện đơn vị nhập khẩu có phúc đáp chấp nhận thanh toán hay không. Một vài trường hợp do chứng từ không rõ ràng hoặc không khớp với hợp đồng đã ký kết buộc Ngân hàng phải điện tra soát với phía nước ngoài, kéo dài tiến trình thanh toán của Ngân hàng.
Với trình độ của khách hàng chưa cao nên trong thanh toán L/C cũng gây cho thanh toán viên của ngân hàng nhiều phiền toái. Ví dụ, ngay từ những bước đầu trong quá trình lập hồ sơ, nộp chứng từ liên quan để mở L/C, họ đã gặp nhiều lúng túng, sai sót. Khi xin mở L/C không thể đưa vào toàn bộ những điều kiện trong hợp đồng mà cần có sự lựa chọn để đưa vào L/C những nội dung cần thiết, cán bộ Ngân hàng cũng phải trợ giúp họ rất nhiều.
Còng do khả năng tài chính của khách hàng không đảm bảo thanh toán L/C nên khi chi nhánh nhận được bộ chứng từ hoàn hảo từ Sở đầu mối, trên tài khoản của khách không có đủ tiền (ngoại tệ) để thanh toán, nên đã phải sinh nợ quá hạn. Tuy số phát sinh không quá lớn song điều này cũng có ảnh hưởng đến hoạt động của Ngân hàng, tức là ảnh hưởng đến hiệu quả công tác hoạt động của Ngân hàng.
Khi ký kết hợp đồng, các đơn vị nhập khẩu không tìm hiểu danh sách các ngân hàng có quan hệ đại lý với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội trước, vì vậy Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội tuy là ngân hàng mở L/C cho họ song phải thanh toán thông qua ngân hàng khác. Quá trình thanh toán vừa vòng vèo giảm hiệu quả thanh toán của ngân hàng, giảm hiệu quả thu nhập từ hoạt động dịch vụ này của ngân hàng.
b) Trong thanh toán hàng xuất khẩu:
Đối với các đơn vị xuất khẩu vẫn còn sai sót trong thiết lập chứng từ. Điều này không chỉ xảy ra đối với khách hàng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội mà còn là tình trạng chung của các đơn vị xuất khẩu.
Khi ký kết hợp đồng, đơn vị xuất nhập khẩu đã không chú ý đến điểm thời hạn mở L/C. Do đó, thực tế nhiều L/C mở cho ta quá chậm, dẫn đến hàng đã tập chung ở cảng, thậm chí tàu chuyên chở đã cập cảng mà vẫn chưa nhận được L/C để giao hàng, làm cho ta phát sinh thêm chi phí lưu kho bãi. Ngược lại có những L/C mở cho ta quá sớm, chưa kịp tập chung hàng đã nhận được L/C, làm cho ta bị động, không thực hiện điều kiện giao hàng... Công tác thanh toán xuất nhập khẩu của ngân hàng cũng bị động theo.
Do trong hợp đồng cũng như trong L/C có tồn tại một số điều khoản văn tự ý nghĩa không rõ ràng như about, approximate... khi nói về số lượng, số tiền. Chính những điều khoản không rõ ràng này làm cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn mất rất nhiều thời gian để xử lý chứng từ.
Trên đây là một số tồn tại chính gây ra từ phía khách hàng làm cho hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội bị trì trệ, kếo dài không đạt hiệu quả như mong muốn.
CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN XUẤT NHẬP KHẨU TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HÀ NỘI
I- Phương hướng phát triển hoạt động kinh doanh của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội.
Nền kinh tế quốc dân là tổng thể các ngành kinh tế, các lĩnh vực kinh tế có mối quan hệ chặt chẽ, cùng hỗ trợ lẫn nhau để phát triển. Ngành ngân hàng là một bộ phận quan trọng trong hệ thống kinh tế nhÊt là đối với một nước đang phát triển như nước ta. Để có một sự thống nhất trong công cuộc xây dựng kinh tế giữa các ngành, tạo điều kiện thuận lợi đạt tới những thành tựu tốt đẹp nhất, đòi hỏi tất cả các thành viên trong nền kinh tế nói chung và ngành ngân hàng nói riêng phải có những định hướng phù hợp với tình hình chung, nhằm thực hiện những mục tiêu đất nước đề ra, tranh thủ và tạo điều kiện phục vụ tốt hơn yêu cầu phát triển nền kinh tế trong nước, hội nhập với cộng đồng tài chính khu vực và trên thế giới.
1. Định hướng phát triển của ngành Ngân hàng Việt Nam.
Trong tình hình bối cảnh kinh tế- chính trị trên thế giới và khu vực không ngừng biến động, tác động trực tiếp và gián tiếp cả những mặt tích cực và những mặt tiêu cực tới các quan hệ kinh tÕ - chính trị của mỗi quốc gia. Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra mục tiêu phát triển kinh tế và hoàn thành nhiệm vụ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Giai đoạn này là giai đoạn phát triển và thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá hướng về xuất khẩu tạo tiền đề cho các năm tiếp theo.
Sau một thời gian liên tục phấn đấu, kim ngạch xuất khẩu đã được cải thiện tăng từ 20-30%/năm. Nhưng để xếp vào một trong các nước có nền ngoại thương tương đối phát triển (có mức xuất khẩu bành quân 170USD/người/năm trở lên) thì kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam phải đạt tối thiểu 13,6 tỷ USD. Như vậy tốc độ tăng trưởng bình quân của xuất khẩu hàng năm phải đạt mức 24-24%.
Định hướng phát triển và mở rộng hoạt động kinh doanh đối ngoại trọng tâm hướng vào xuất khẩu sẽ triển khai theo hướng sau:
- Đầu tư công nghệ hiện đại trong công nghiệp sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu, tăng tỷ trọng các sản phẩm đã qua chế biến trong cơ cấu hàng xuất khẩu.
- Phát triển hình thức liên doanh với nước ngoài sản xuất và kinh doanh hàng xuÊt khẩu, bên cạnh hình thức hợp tác gia công, sơ chế cho nước ngoài, tiếp tục đưa các khu chế suất mới vào hoạt động đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động các khu đã có.
- Cần có chính sách xuất nhập khẩu một số mặt hàng trọng yếu của nền kinh tế như gạo, phân bón, chè, cà phê, dầu thô... Đối với những mặt hàng này, Nhà nước sẽ quy vào đầu mối cân đối ngoại tệ cho một số doanh nghiệp Nhà nước chuyên kinh doanh xuất nhập khẩu và tiêu thụ ở trong nước để đáp ứng nhu cầu và bình ổn giá cả trong nước. Để khuyến khích xuất nhập khẩu, Nhà nước sẽ tiến tới xoá bỏ việc cấp giấy phép xuất nhập khẩu một số mặt hàng theo từng tuyến bao gồm cả giấy phép sử dụng nhiều lần.
- Mở rộng quan hệ thương mại với các nước trong khu vực và trên thế giới.
- Tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp luật, đặc biệt là các văn bản dưới luật, đảm bảo sự thi hành thống nhất từ Trung ương đến các địa phương tạo điều kiện cho việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
- Tăng cường đào tạo, nâng cao trình độ cán bộ và công tác kinh doanh đối ngoại, đặc biệt là công tác xuất nhập khẩu.
2. Phương hướng phát triển của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội.
Trong bối cảnh cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính - tiền tệ của các nước trong khu vực, cộng với tình hình kinh tế Việt Nam đang có những biểu hiện phát triển chậm lại và mất cân đối trên một số lĩnh vực đã tác động một cách trực tiếp mạnh mẽ trên mọi mặt hoạt động của ngành ngân hàng. Hoạt động ngân hàng đang được quan tâm nhằm chấn chỉnh và nâng cao hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại. Là một ngân hàng thương mại có những đóng góp đáng kể vào quá trình phát triển của các doanh nghiệp trong nước. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội cũng không nằm ngoài những định hướng phát triển chung của toàn đất nước và của ngành ngân hàng.
- Mét trong những vấn đề hàng đầu là đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, đáp ứng ngày càng cao yêu cầu vốn mở rộng vốn sản xuất kinh doanh phục vụ mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Đi vào công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, nhu cầu vốn đầu tư cho các ngành kinh tế là rất lớn. Trong điều kiện thị trường vốn trong nước chưa mấy phát triển, thì vai trò huy động vốn của các Ngân hàng thương mại hết sức quan trọng. Tiếp tục thực hiện phương châm "đi vay để cho vay". Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội sẽ duy trì và phát triển các giải pháp huy động vốn hữu hiệu nhằm tập chung các nguồn vốn sẵn có trong nước cũng như trên thị trường quốc tế, cả bằng VNĐ và ngoại tệ. Trong quá trình huy động vốn phải có những biện pháp để đảm bảo nguồn vốn được ổn định và tăng trưởng như đa dạng hoá các phương thức huy động vốn trong nước như phát hành kỳ phiếu ngân hàng, tiết kiệm, tiền gửi, trái phiếu, chú ý vấn đề huy động vốn trung và dài hạn. Ngân hàng nông nghiệp phải luôn ý thức rõ việc thường xuyên ổn định và tăng trưởng nguồn vốn là nguồn động lực, tạo đà thực hiện thành công các nghiệp vụ chiến lược của ngành ngân hàng.
- Trên cơ sở nguồn vốn huy động, thực hiện phương châm đầu tư thận trọng, đạt hiệu quả kinh tế cao, đảm bảo an toàn vốn cho ngân hàng với mục tiêu:
+ Tăng trưởng khối lượng tín dụng phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế đã được định hướng trong mục tiêu của chính sách tiền tệ qua các thời kỳ. Vốn tín dụng sẽ được đầu tư vào các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế, các ngành sản xuất, chế biến kinh doanh hàng hoá xuất nhập khẩu... Đặc biệt là đầu tư cho các dự án có công nghệ tiên tiến, có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân (điện lực, hàn không, bưu điện, dầu khí...) nhằm góp phần đẩy mạnh tốc độ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đát nước.
+ Nâng cao chất lượng tín dụng song song với mở rộng tín dụng, tích cực tìm giải pháp giải quyết nợ khoanh, nợ khó đòi nhằm giải phóng tối đa nguồn vốn đầu tư cho tín dụng.
- Nâng cao chất lượng các dịch vụ ngân hàng truyền thống đồng thời mở ra nhiều dịch vụ ngân hàng mới, phục vụ tốt hơn yêu cầu của khách hàng.
Phải phấn đấu để xử lý tốt các dịch vụ ngân hàng với chi phí thấp vừa có ý nghĩa khuyến khích khách hàng đến với Ngân hàng ngày một nhiều hơn, vừa tác động đÕn việc mở rộng công tác huy động vốn.
Những dịch vụ Ngân hàng mới được trú trọng phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới là:
+ Nối mạng thanh toán tực tiếp với các khách hàng lớn, phát triển điều kiện trang thiết bị tin học hiện đại.
+ Dịch vụ tư vấn đầu tư, mua bán chứng khoán với khách hàng.
+ Dịch vụ giữ hộ tài sản quý.
+ Dịch vụ thuê mua tài chính, bảo lãnh.
- Củng cố mở rộng và nâng cao hiệu quả quan hệ đối ngoại vốn có với các ngân hàng chi nhánh khác để góp phần vào chiến lược huy động vốn từ bên ngoài, phát triển và hiện đại hoá nhanh chóng công nghệ Ngân hàng, rút ngắn khoảng cách về trình độ tạo điều kiện sớm hoà nhập với cộng đồng tài chính quốc tế.
- Đẩy mạnh hoạt động nghiệp vụ tại các thị trường nội tệ, ngoại tệ, liên ngân hàng, thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc trong nước đồng thời tham gia vào thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế có cân nhắc, chọn lọc với tinh thần vừa làm vừa rút kinh nghiệm, học hỏi thêm nhằm phát huy tối đa cả nguồn vốn trong và ngoài nước, đồng thời tìm thấy ở những thị trường trên những mối quan hệ làm ăn mới, những dịch vụ những dự án kinh doanh khả thi.
- Đẩy mạnh công nghệ tin học phục vụ công nghệ hiện đại hoá hoạt động ngân hàng. Xác định vị trí của công nghệ là đòn bẩy của sự phát triển, là chìa khoá mở cánh cửa hội nhập với cộng đồng tài chính thế giới. Hiện đại hoá công nghệ theo hướng:
+ Củng cố và tăng cường các cơ sở hạ tầng cho tin học ngân hàng theo kịp trình độ thế giới. Thực hiện trang thiết bị hiện đại, đồng bộ mạng tin học trong nội bộ ngân hàng và toàn hệ thống nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ, giảm chi phí lao động tạo ra sản phẩm có sức cạnh tranh, phục vụ kịp thời cho yêu cầu quản lý của hệ thống.
+ Tổ chức và phân định rõ chức năng nghiệp vụ của các bộ phận theo quan điểm chuyên môn hoá, phục vụ đa năng nhằm tạo mọi điều kiện thuận lợi cho khách hàng đến giao dịch tại ngân hàng.
+ Tập chung quản lý vốn, quản lý thông tin về khách hàng, tạo ra các sản phẩm công nghệ xử lý và cung cấp thông tin chính xác, kịp thời phục vụ cho công tác chỉ đạo điều hành.
+ Đa dạng hoá các loại hình dịch vụ trên cơ sở của việc ứng dụng những công nghệ mới cũng như các quan điểm dịch vụ mới của ngân hàng hiện đại, tạo ra cho khách hàng một quan điểm cũng như tư duy mới và ngân hàng và dịch vụ ngân hàng, tạo ra sự gắn bó giữa khách hàng với ngân hàng.
- Xây dựng quy hoạch mở rộng mạng lưới hệ thống tổ chức của Ngân hàng tạo ra một cơ cấu các chi nhánh hợp lý trên toàn quốc, tập chung khai thác tiềm năng kinh tế trên các địa bàn, đảm bảo phục vụ cho các ngành kinh tế, các vùng kinh tế trọng điểm, phù hợp với trình độ quản lý, khả năng của đội ngũ cán bộ trong hệ thống.
- Xây dựng chính sách đào tạo nguồn nhân lực để không ngừng phát triển đội ngũ cán bộ - nhân tố quyết định mọi sự thành công của quá trình đổi mới các hoạt động ngân hàng theo các định hướng sau:
+ Đào tạo lại đội ngũ cán bộ điều hành cũng như cán bộ nghiệp vụ tại các ngân hàng để trang bị cho họ những nguyên lý cơ bản của nền kinh tế thị trường hiện đại, những kỹ năng cơ bản để có khả năng phân tích tình hình hoạt động của các doanh nghiệp, các nhân tố bên trong và bên ngoài tác động đến hoạt động của doanh nghiệp mình đầu tư.
+ Có chương trình biện pháp cụ thể để đào tạo và đào tạo lại nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực điều hành của cán bộ quản lý, năng lực công tác nghiệp vụ của cán bộ kinh doanh, viên chức nghiệp vụ, nhất là những cán bộ hiện đang đảm nhiệm những mặt nghiệp vụ mới.
+ Tổ chức đào tạo có trọng điểm theo những tiêu chuẩn nhất định đối với những cán bộ trong quy hoạch, có tâm huyết với nghề nghiệp... để tạo lập đội ngũ cán bộ nòng cốt cho các ngân hàng. Có giải pháp bố trí, sắp xếp đội ngũ cán bộ hiện có nhằm phát huy hết sức mạnh của mỗi người và của mọi người. Phải trên cơ sở yêu cầu của công việc, khả năng của cán bộ để bố trí đúng người đúng việc.
- Đổi mới công tác quản trị và điều hành. Quản trị và điều hành mọi hoạt động của hệ thống ngân hàng phải trên cơ sở chấp hành các văn bản pháp quy của Nhà nước, bổ sung, chỉnh sửa... đảm bảo đủ và đúng để cấp dưới cùng thực hiện.
- Nâng cao hiệu lực hoạt động của cơ quan kiểm soát trực thuộc Hội đồng quản trị cũng như hệ thống kiểm soát nội bộ, đảm bảo mọi hoạt động của hệ thống phải được soát xét cả trước và sau khi thực hiện nhằm đảm bảo các hoạt động đi đúng hành lang pháp lý cho phép, bảo vệ được tài sản của Nhà nước.
Để hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu có những đóng góp đáng kể vào sự phát triển của ngân hàng trong tưoưng lai thì phải có những định hướng phát triển gắn liền với phương hướng hoạt động của toàn hệ thống.
Thứ nhất, thực hiện nghiêm chỉnh các cam kết với nước ngoài tôn trọng tính bình đẳng và thông lệ quốc tế.
Thứ hai, thường xuyên theo dõi tình hình và diễn biến thị trường trong và ngoài nước liên quan đến hoạt động Ngân hàng, để khi cần thiết phải có những phản ứng, đối sách kịp thời nhằm giải toả những thông tin sai lệch, ngăn chặn những cảm nhận xấu trong cộng đồng tài chính quốc tế, thận trọng trong các nghiệp vụ kinh doanh đối ngoại như chiết khấu chứng từ hàng xuất, mở L/C trả chậm nhằm hạn chế tối đa rủi ro có thể xảy ra.
Thứ ba, tổ chức nghiên cứu vấn đề mở rộng mạng lưới các chi nhánh, văn phòng đại diện tại các thị trường quan trọng, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống này.
Cố gắng mở rộng hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu cả về phương thức và đối tượng khách hàng như áp dụng các phương thức thanh toán mới thuận lợi hơn cùng với việc cải thiện các phương thức đang áp dụng trở lên ưu việt hơn sẽ tạo điều kiện thuận lợi để ngày càng thu hút được nhiều khách hàng thực hiện thanh toán qua Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội. Do đó doanh thu và lợi nhuận sẽ tăng.
II- Một số giải pháp cơ bản góp phần hoàn thiện hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội.
1. Các giải pháp đối với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội.
1.1. Đa dạng hoá các phương thức thanh toán xuất nhập khẩu:
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn cần áp dụng các phương thức thanh toán mới nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, hỗ trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu, mở rộng thị trường cũng như thu hút ngày càng nhiều khách hàng, góp phần làm tăng doanh thu cho hoạt động của Ngân hàng. Với những phương thức mới có nhiều ưu điểm thuận lợi cho khách hàng sẽ đem lại cho Ngân hàng nhiều uy tín.
1.2. Xây dựng chiến lược phát triển thị trường thanh toán xuất nhập khẩu phù hợp:
Thanh toán xuất nhập khẩu là một hoạt động hứa hẹn mang lại một nguồn doanh thu cho hoạt động nghiệp vụ của Ngân hàng. Vì vậy cần phải có chiến lược phát triển thị trường thanh toán xuất nhập khẩu ngày càng rộng lớn hơn và để đạt được điều đó phải luôn luôn thực hiện phương châm "khách hàng là thượng đế".
*Đối với thị trường trong nước:
Cần duy trì mối quan hệ tốt đẹp với các đơn vị xuất nhập khẩu trong nước.
- Có chính sách ưu đãi hợp lý với những khách hàng lâu năm, có uy tín hoặc có doanh sè thanh toán lớn để khuyến khích đồng thời để giữ khách hàng.
- Kết hợp với công tác tín dụng thẩm định tốt cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị xuất nhập khẩu được vay vốn hoạt động để có thể thu hút thêm được nhiều khách hàng. Vận dụng cơ chế tín dụng hiện hành để ký kết các hợp đồng mua bán ngoại tệ kỳ hạn đối với các L/C hoặc hợp đồng xuất khẩu. Hình thức này đảm bảo an toàn thu hồi vốn và lãi, thường xuyên duy trì cân bằng trạng thái ngoại hối, đảm bảo khả năng thanh toán trong và ngoài nước. áp dụng hình thức cho vay hàng xuất bằng VNĐ với lãi suất thấp có bảo đảm thu bằng ngoại tệ và mua ngoại tệ có kỳ hạn các L/C xuất. Việc vận dụng các hình thức này tạo sự chạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài cho vay ngoại tệ và thu hút được khách hàng. Cho vay nhập khẩu với điều kiện khách hàng phải có hàng xuất khẩu tương đương, điều này bắt buộc các khách hàng phải xuất trình bộ chứng từ hàng xuất chứng minh khả năng thanh toán.
*Đối với thị trường nước ngoài:
Thiết lập mạng lưới ngân hàng đại lý để thuận tiện cho việc thanh toán.
Thường xuyên củng cố mối quan hệ với các ngân hàng nước ngoài đã có quan hệ lâu dài. Việc thanh toán nhanh chóng và đầy đủ sẽ giúp uy tín của Ngân hàng ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế, các mối quan hệ làm ăn sẽ được ngày càng tăng lên, ngày càng chặt chẽ hơn.
Đối với các ngân hàng nước ngoài, mặc dù đã có sự nhân nhượng và mềm dẻo trong việc thanh toán nhằm giữ uy tín và khách hàng nhưng không để cho họ làm ảnh hưởng đến lợi Ých của khách hàng.
1.3. Ứng dông Marketing trong hoạt động của Ngân hàng:
Các nghiệp vụ Ngân hàng cũng là một trong những hoạt động kinh doanh, vì vậy để thu hút khách hàng và ngày càng mở rộng thị phần thanh toán của mình thì hoạt động Marketing là cần thiết đối với bất cứ ngân hàng nào. Mục đích chủ yếu của hoạt động Ngân hàng là làm sao thu hút được nhiều nhất khối lượng tiền giả và cho vay ra được tối đa. Ngoài ra, mỗi ngân hàng còn thu lợi nhuận từ các hoạt động khác (nghiệp vụ hoa hồng). Hiện nay, trong kinh doanh Ngân hàng có nhiều cạnh tranh gay gắt, ngân hàng nào có nhiều khách hàng và tuyên truyền quảng cáo tốt cho hoạt động của mình thì sẽ đứng vững được trên thị trường. Như vậy việc áp dụng Marketing vào hoạt động của ngân hàng chính là làm thế nào để phát triển một cách tốt nhất các hoạt động trên, từ đó thu được lợi nhuận cao nhất. Những điểm chủ yếu cần trú trọng trong công tác Marketing của Ngân hàng bao gồm:
- Nghiên cứu thị trường Ngân hàng để nắm bắt được tập tính, thái độ và đặc biệt là động cơ của khách hàng khi lựa chọn ngân hàng cho giao dịch của mình. Nghiên cứu đã chứng tỏ rằng sự lựa chọn ngân hàng của khách hàng thường được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu và so sánh các tiêu chuẩn của các ngân hàng như địa điÓm giao dịch của ngân hàng, chất lượng dịch vụ, sự dễ dàng trong giao dịch, thuận lợi về thời gian, hình ảnh, về sức mạnh và độ an toàn của Ngân hàng.
- Nghiên cứu khả năng cạnh tranh của Ngân hàng hiện tại và trong tương lai.
- Phân tích sự phát triển của thị trường, dự đoán phản ứng của thị trường trước những ứng xử có tính chất đổi mới của ngân hàng.
Từ những phân tích nghiên cứu này mà Ngân hàng đề ra những chính sách thích hợp cho hoạt động kinh doanh của mình:
+ chính sách sản phẩm: bao gồm chính sách quản lý tiền gửi, quyết toán tài sản, cấp phát tín dụng và các dịch vụ bổ sung khác...
+ Chính sách giá cả: chính là chính sách lãi suất đối với tiền gửi, tiền cho vay. Phải nghiên cứu sự biến động cung cầu về tiền tệ tín dụng giá cả... Trong hoạt động Ngân hàng trên thị trường, phân tích mối quan hệ giữa lãi suất và lợi nhuận từ đó đưa ra những biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ, giảm khí, nâng cao sức mạnh cạnh tranh của Ngân hàng.
+ Các chính sách phân bổ lực lượng: phân tích nhu cầu phân bổ các chi nhánh, văn phòng đại diện của Ngân hàng trên thị trường quốc tế, nhu cầu về quan hệ đại lý ở nước ngoài, việc mở tài khoản vãng lai trong thanh toán quốc tế... Xem xét, sắp xếp, bố trí bên trong các chi nhánh ngân hàng để đảm bảo vừa tiện lợi vừa có thẩm mỹ, hiện đại hoá các phương tiện làm việc để công việc được tiến hành nhanh chóng nhất.
+ Chính sách giao tiếp quảng cáo kinh doanh theo cơ chế thị trường, Ngân hàng phải không ngừng cạnh tranh với các ngân hàng khác, phải tiến hành quảng cáo để thu hót sự chú ý của khách hàng, tạo sự hấp dẫn đối với khách hàng.
+ Chính sách khách hàng: chính sách khách hàng phải được thực hiện theo phương châm chủ động tìm đến khách hàng, giữ khách hàng lớn truyền thống, mở rộng việc thu hút đông đảo số lượng khách hàng thuộc loại doanh nghiệp vừa và nhỏ, không phân biệt thành phần kinh tế, lập danh sách khách hàng có quan hệ làm ăn thường xuyên với Ngân hàng. Phân loại khách hàng theo nguyên tắc phân đoạn thị trường.
Theo các tiêu thức khác nhau, đánh giá và phân loại khách hàng để có những chính sách thích hợp khuyến khích khách hàng mở rộng giao dịch tại Ngân hàng. Đối với những khách hàng đặc biệt cho họ được hưởng lại suất cho vay thấp hơn đối với các khách hàng khác, tỷ lệ ký quỹ L/C nhập khẩu cũng thấp hơn. Phục vụ khách hàng nhanh chóng tiện lợi nhất là với các khách hàng lớn truyền thống.
1.4. Hoàn thiện nghiệp vụ thanh toán xuất nhập khẩu:
Ngân hàng phải luôn cố gắng củng cố quan hệ đối ngoại và quan hệ thanh toán quốc tế nhằm nâng cao uy tín của mình đối với bạn hàng trong nước cũng như nước ngoài bằng cánh luôn luôn tiến hành nâng cao trình độ nghiệp vụ và sử dụng thêm các công cụ thanh toán mới. Cụ thể là:
*Trong thanh toán nhập khẩu:
Để việc thanh toán được thực hiện một cách nhanh chóng thì Ngân hàng cần phải giảm tối thiểu thời gian mở L/C mà vẫn đảm bảo hợp lệ, hợp pháp thông qua việc giảm những thủ tục như giấy chứng nhận quota xuất nhập khẩu, hợp đồng thương mại thuộc phạm vị quản lý và kiểm soát của Ngà nước. Cố gắng tránh những sai sót gây mất thời gian và chi phí sửa đổi.
Cần có những chính sách ràng buộc chặt chẽ với những đơn vị có nhu cầu mở L/C có số dư nợ còn lớn, không cho tiếp tục ký quỹ nếu như xét thấy đơn vị kinh doanh không hiệu quả. Như vậy, có thể tránh được tình trạng nợ dây dưa làm ảnh hưởng đến lợi Ých của ngân hàng, đồng thời việc thanh toán cũng diễn ra thuận lợi hơn. Mặt khác trên cơ sở thăm dò khách hàng nếu xét thấy khả năng tài chính của họ đảm bảo cho việc thanh toán, dự án kinh doanh thực tế có nhiều thuận lợi, Ngân hàng có thể xem xét giảm mức ký quỹ cho đơn vị.
Việc thanh toán chậm tiền hàng cần phải hạn chế. Vì nếu thanh toán chậm sẽ làm giảm uy tín của bản thân Ngân hàng hoặc gặp ngân hàng nước ngoài gây khó khăn, Ngân hàng sẽ bị tổn hại về phí tổn. Đối với trường hợp bên đối tác chậm thanh toán thì ta cũng có thể phạt tiền và duy trì mức phí phạt cao. Do vậy, Ngân hàng phải có các quy định chặt chẽ, các biện pháp đánh giá chính xác khả năng trả nợ của các đơn vị nhập khẩu trong hoạt động bảo lãnh L/C mua chịu.
* Trong thanh toán xuất khẩu:
Hiện nay, tất cả các Ngân hàng nước ngoài đều tiến hành thẩm định khách hàng xuất nhập khẩu của mình, trên cơ sở đó ký với khách hàng của mình bản hợp đồng khung tín dụng, trong đó quy định rõ mức dư nợ tối đa cho vay xuất khẩu, nhập khẩu. Thông thường cứ 6 tháng hoặc một năm Ngân hàng lại xem xét và đánh giá lại hoạt động của công ty và ký lại với công ty bản hợp đồng khung tín dụng mới. Trong việc thẩm định các ngân hàng này làm rất kỹ, chặt chẽ nhưng thủ tục rút vốn lại rất đơn giản. Ở các Ngân hàng Citibank, ANZ... việc ứng trước tiền hàng xuất khẩu họ áp dụng tỷ lệ 100% trị giá bộ chứng từ trừ đi lãi tính trên số ngày dự định Ngân hàng nước ngoài báo có (Citibank là 10 ngày, ANZ là từ 7- 10 ngày...). Như vậy, thực chất các Ngân hàng nước ngoài cũng chỉ ứng trước tiền hàng xuất khẩu theo tỷ lệ Ngân hàng Việt Nam áp dụng nhưng cách chào sản phẩm của họ như trên làm cho khách hàng thấy hấp dẫn hơn.
Để khuyến khích và thu hút khách hàng đồng thời cạnh tranh với các Ngân hàng khác, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội nên nghiên cứu một cách làm ưu việt, nhanh chóng và hiện đại như các Ngân hàng nước ngoài. Tuy nhiên bên cạnh sự cố gắng của Ngân hàng đòi hỏi các doanh nghiệp xuất nhập khẩu của ta cũng phải thiết lập được sự tin cậy đối với bạn hàng trên thị trường quốc tế, có như vậy mới bảo đảm cho công tác thanh toán được an toàn và nhanh gọn.
Trong trường hợp đến hạn mà đơn vị mua chịu không trả được nợ hoặc đơn vị xuất khẩu không giao được hàng thì Ngân hàng phải đứng ra thanh toán sòng phẳng cho ngân hàng nước ngoài theo đúng trách nhiệm của một Ngân hàng bảo lãnh nhằm giữ uy tín chi chính Ngân hàng. Bên cạnh đó phải có biện pháp xử phạt thích đáng đối với các đơn vị không trả được nợ.
1.5. Nâng cao trình độ nghiệp vụ của thanh toán viên:
Để công tác thanh toán xuất nhập khẩu đạt hiệu quả cao thì đội ngũ cán bộ nhân viên làm công tác này phải có sự hiểu biết nhất định về nghiệp vụ, đồng thời cần phải trang bị cơ sở vất chất phục vụ cho công tác thanh toán, nhanh chóng nâng cao trình độ về kỹ thuật. Có như vậy thì chúng ta mới có thể bắt kịp với trình độ thế giới và có thể đứng vững cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Mặc dù các cán bộ thanh toán xuất nhập khẩu đều tốt nghiệp trình độ đại học trở lên, có trình độ ngoại ngữ, thường xuyên được đào tạo trong chuyên môn đã phát huy tốt khả năng của mình đảm bảo cho công tác thanh toán an toàn, nhanh chóng, chính xác, được khách hàng tin tưởng, nhưng để đáp ứng nhu cầu phát triển không ngừng quan hệ ngoại thương, quan hệ hợp tác quốc tế thì vấn đề đào tạo và nâng cao trình độ nghiệp vụ cho đội ngũ thanh toán viên là hết sức cần thiết. Ngân hàng cần phải thường xuyên tổ chức các hội thảo, hội nghị, chuyên dề về các nghiệp vụ đã được sử dụng ở Ngân hàng và tổ chức huấn luyện cho các cán bộ về các nghiệp vụ mới, các nghiệp vụ còn vướng mắc trong quá trình thực hiện. Ngoài ra Ngân hàng cũng nên thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng trình độ nghiệp vụ cho các thanh toán viên, nếu được các chuyên gia nước ngoài giảng dạy thì càng tốt, đÓ họ có thêm những hiểu biết sâu sắc về nghiệp vụ...
Các Ngân hàng nước ngoài được các ngân hàng mẹ tài trợ về nguồn vốn họ không bị ràng buộc bởi cơ chế tín dụng của Việt Nam, họ có sẵn máy móc thiết bị hiện đại, công nghệ tiên tiến nên khả năng cạnh tranh của họ nhất định phải có nhiều thuận lợi hơn. Để khắc phục được điều này thì Ngân hàng của ta cần thiết đổi mới triệt để trang thiết bị và phương tiện làm việc, áp dụng những công nghệ ngân hàng tiên tiến, đào tạo, bồi dưỡng và có chế độ thích hợp với những cán bộ giỏi để đưa công nghệ ngân hàng ta tiến kịp với các ngân hàng lớn trên thế giới.
Đội ngũ cán bộ thanh toán xuất nhập khẩu ngoài trình độ nghiệp vụ còn cần phải có một thái độ giao tiếp văn minh lịch sự đối với khách hàng như:
- Ân cần vui vẻ đón tiếp khách hàng.
- Lắng nghe chăm chú và cặn kẽ các yêu cầu của khách hàng.
- Giải quyết công việc nhanh gọn theo đúng thời gian và quy trình nghiệp vụ.
- Giải thích rõ những thắc mắc của khách hàng một cách tận tình.
Có làm tốt những yêu cầu đó thì khách hàng đến với Ngân hàng sẽ cảm thấy gần gũi, được giúp đỡ, họ sẽ sẵn sàng bày tỏ những mong muốn của mình qua đó Ngân hàng có thể hiểu được khách hàng của mình mong muốn gì và đề ra những chính sách thích hợp.
1.6. Thực hiện chiến lược hỗ trợ nâng cao nghiệp vụ của khách hàng:
Sự hạn chế về trình độ nghiệp vụ ngoại thương, đặc biệt là về nghiệp vụ thanh toán xuất nhập khẩu của các cán bộ thuộc các doanh nghiệp làm kinh doanh xuất nhập khẩu đã dẫn đến những bất lợi nhất định cho những nhà nhập khẩu của ta như: trong một số giao dịch đã lựa chọn những phương thức không an toàn bất lợi, nhiều khi cán bộ nghiệp vụ và cả lãnh đạo của các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu không am hiểu nguyên tắc "độc lập của bộ chứng từ đối với hàng hoá" trong hoạt động thanh toán của ngân hàng, họ quan niệm đơn giản là nhận hàng rồi trả tiền. Muốn khắc phục hạn chế này thì biện pháp hiệu quả là tự ngân hàng phải góp phần vào việc nâng cao trình độ của khách hàng về các mặt: tín dụng, ký kết hợp đồng ngoại thương, thực hiện các khâu chung từ thanh toán, chuyển tiền... trong đó đặc biệt chú ý đến những khách hàng mới thực hiện công tác xuất nhập khẩu.
Những biện pháp trước mắt là:
- Kịp thời hướng dẫn khách hàng sửa chữa sai sót và bổ sung chứng từ yêu cầu khi cần thiết. Điều này rất quan trọng và phụ thuộc vào hoàn cảnh trình độ nghiệp vụ của cán bộ thanh toán. Việc hướng dẫn khách hàng sửa chữa một cách kịp thời sẽ giúp cho việc thanh toán được nhanh chóng, góp phần nâng cao uy tín cho Ngân hàng.
- Tăng cường công tác tìm hiểu khách hàng để kịp thời tư vấn cho họ. Việc tìm hiểu khách hàng có thể phân ra cho một vài cán bộ theo thị trường hoặc theo mặt hàng, cùng có thể kết hợ với phòng tín dụng.
- Tố chức các hội nghị khách hàng thường niên để giúp đỡ họ có thêm những kinh nghiệm trong công tác thanh toán, các hội nghị này không chỉ giúp khách hàng rót ra được những kinh nghiệm trong công tác thanh toán mà còn là mọi cơ hội để khuyếch trương, quảng cáo cho hoạt động của Ngân hàng.
- Cố vấn nhà nhập khẩu nên mở L/C như thế nào (loại L/C, thời gian hợp lý để mở L/C...). đối với L/C có xác nhận của Ngân hàng nước ngoài, ngoài việc ký quỹ gây đọng vốn trong thời gian dài, việc yêu cầu có xác nhận của Ngân hàng thứ ba thể hiện việc nước ngoài không tin tưởng vào khả năng thanh toán của Ngân hàng Việt Nam. Để khắc phục tình trạng này, Ngân hàng của ta phải tự đổi mới nâng cao uy tín trên trường quốc tế, cùng đơn vị xuất nhập khẩu đấu tranh trong hợp đồng mua bán ngoại thương để không bị bên nước ngoài xử Ðp.
- Cố vấn cho các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu về việc lựa chọn Ngân hàng thông báo, Ngân hàng thanh toán.
- Cố vấn cho các đơn vị nhập khẩu trong việc thanh toán những nguồn hàng khan hiếm, cần thiết. Thông thường trong thương mại có những mặt hàng mang tính chất độc quyền chỉ có ở một số nước hoặc chỉ do một công ty sản xuất. Do vậy muốn mua được loại hàng này, người nhập khẩu phải trả trước toàn bộ trị giá lô hàng hoặc trả một phần giá trị tiền hàng (đặt cọc) trước khi bên bán giao hàng. Trong việc thanh toán tiền hàng kiểu này, bên bán hoàn toàn không phải chịu rủi ro lớn. Từ đó cho thấy, cách thanh toán này chỉ nên áp dụng khi nhà xuất khẩu đáng tin cậy, hai bên có quan hệ quen biết lâu dài, khi hàng hoá thất cần thiết và chỉ khi không mua được loại hàng hoá tương tự ở nơi khác.
Để hạn chế bớt rủi ro trong thường hợp này, Ngân hàng có thể cố vấn giúp các đơn vị nhập khẩu bằng việc:
+ Đề nghị nhà xuất khẩu trả lãi tiền đặt cọc, tiền trả trước.
+ Đề nghị Ngân hàng bên bán bảo lãnh tiền đặt cọc, tiền trả trước.
- Ngân hàng nên thành lập một bộ phận tư vấn cho khách hàng để đáp ứng yêu cầu của khách hàng về nghiệp vụ. Cung cấp các thông tin về những đặc điểm trong luật lệ xuất nhập khẩu, thanh toán qua Ngân hàng, về những đối tác có tiềm năng... của từng thị trường, từng khu vực trên thị trường quốc tế để giúp khách hàng lựa chọn được những bạn hàng tốt, những đối tác có sức cạnh tranh mạnh trên thị trường quốc tế. Mặt khác, bộ phận tư vấn này của Ngân hàng sẽ phát huy vai trò tư vấn của mình trong việc hướng dẫn đầu tư nươc ngoài và giúp cho các đơn vị trong nước tiếp cận thị trường thế giới. Những người đảm nhiệm công việc tư vấn cho khách hàng phải có sự am hiểu về mọi vấn đề liên quan đến thanh toán và đáp ứng được nhu cầu tìm hiểu của khách hàng.
2. Kiến nghị đối với Nhà nước.
Nhà nước có vai trò điều khiển vĩ mô nền kinh tế. Các chính sách kinh tế của Nhà nước tác động trực tiếp đến mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi tổ chức cá nhân trong nước, đặc biệt trong lĩnh vực xuất nhập khẩu và có tác động mạnh mẽ đến hoạt động thanh toán quốc tế của các Ngân hàng. Việc có một chính sách kinh tế hợp lý cho hoạt động xuất nhập khẩu là điều kiện cần thiết để đảm bảo cho công tác thanh toán xuất nhập khẩu của hệ thống ngân hàng nói chung và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội nói riêng đạt hiệu quả cao. Do đó để công tác thanh toán xuất nhập khẩu được hoàn chỉnh nhanh chóng và chính xác hơn thì Nhà nước cần phải có một số giải pháp sau: Thanh toán hàng xuất nhập khẩu là một lĩnh vực rất phong phú đa dạng nhưng cũng rất phức tạp, nó không chỉ liên quan đến các đơn vị trong nước mà còn liên quan chặt chẽ đến các đối tác nước ngoài. Để thực hiện tốt công tác này đòi hỏi phải có sự cố gắng nỗ lực của bản thân Ngân hàng cùng với sự hỗ trợ phù hợp của các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Trong thời gian qua, công tác thanh toán xuất nhập khẩu không ngừng được hoàn thiện và nâng cao tại Ngân hàng nông nghiệp nhưng không thể tránh được hết những thiếu sót hạn chế. Để khắc phục những tồn tại và vướng mắc đó cần phải có những giải pháp cụ thể:
Thứ nhất, Nhà nước cần chỉ đạo các ngành hữu quan thống nhất thực hiện các văn bản đã được ban hành về các nghiệp vụ ngân hàng, tránh sự mâu thuẫn trong công việc hướng dẫn thực hiện các văn bản này của các cơ quan khác nhau.
Đối với hoạt động kinh tế đối ngoại cần có hệ thống văn bản pháp lý riêng và phải được quy định một cách cụ thể, rõ ràng vì đây là một hệ thống có nhiều khó khăn phức tạp, kết quả của nó không chỉ ảnh hưởng đến bản thân các nhà xuất nhập khẩu mà còn ảnh hưởng tực tiếp đến lợi Ých của đất nước.
Thứ hai, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho công tác xuất nhập khẩu cụ thể là:
*Về thể chế và thủ tục xuất nhập khẩu:
Phải có những quy chế bắt buộc đối với các điều kiện về tài chính, về trình độ cán bộ, hướng phát triển...thì mới cấp giấy phép xuất nhập khẩu trực tiếp không nên cấp ồ ạt, tránh những rủi ro không đáng có do trình độ hiểu biết của người làm công tác xuất nhập khẩu. Trước mắt Nhà nước cần rà soát các đơn vị, tổ chức kinh tế không đủ điều kiện xuất nhập khẩu trực tiếp thì phải chuyển sang uỷ thác xuất nhập khẩu. Các thể chế và thủ tục xuất nhập khẩu phải tạo thuận lợi tối đa cho các doanh nghiệp phát triển hoạt động kinh tế đối ngoại khuyến khích xuất khẩu và kiểm soát được nhập khẩu, giảm tỷ lệ nhập siêu. Doanh nghiệp có hàng hoá, có đối tác và thị trường nước ngoài đều có thể được trực tiếp hoạt động xuất nhập khẩu.
Chủ trương cấp quota xuất nhập khẩu có thể tạo lợi thế cho doanh nghiệp này mà gây ra bất lợi này cho doanh nghiệp khác làm mất cân đối giữa cung và cầu khiến nhiều loại vật tư, nguyên liệu, hàng trăm tấn thép, xi măng, đường... tồn đọng gây tổn hại cho nền kinh tế và khó khăn cho các Ngân hàng. Tình trạng nhập khẩu tràn lan các mặt hàng tiêu dùng đã làm cho sản xuất và tiêu dùng trong nước bị đình trệ, nhiều doanh nghiệp thua lỗ.
*Về thuế xuất nhập khẩu:
Nhà nước cần ban hành luật thuế xuất nhập khẩu phù hợp. Biểu thuế của Nhà nước luôn thay đổi làm cho các đơn vị xuất nhập khẩu không chủ động được trước các diễn biến trong tương lai, dẫn đến các doanh nghiệp sẽ gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh, ảnh hưởng đến lợi nhuận. Mỗi khi sửa đổi luật thuế xuất nhập khẩu, Nhà nước ta mới chi quy định ngày hiệu lực của luật mà không quy định biểu thuế ưu đãi đối với các hợp đồng xuất nhập khẩu đẫ ký trước ngày thực hiện luật thuế đó. Điều này sẽ gây khó khăn cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. Vì vậy, Nhà nước cần phải có những quy định rõ ràng và ổn định luật thuế xuất nhập khẩu.
*Về thông tin giá cả:
Nhà nước cần có những thông tin về giá cả trên thị trường thế giới một cách kịp thời để thông tin cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. Đây là một trong những vấn đề hết sức quan trọng, nếu thiếu sự hiểu biết thông tin sẽ làm cho các doanh nghiệp dễ bị thua lỗ khi giá cả thay đổi. Ví dụ như giá cả hàng hoá trong nước biến động và không phù hợp với giá cả trên thị trường thế giới sẽ gây ảnh hưởng đến việc xuất nhập khẩu hàng hoá. Đơn cử như trường hợp xuất khẩu lạc ở nước ta. Lạc là một mặt hàng xuất khẩu có tỷ trọng tương đối lớn trong khối lượng hàng nông sản, nhưng phát triển theo thời vụ. Đến mùa lạc, các đơn vị xuất khẩu đổ xô đi mua gom lạc, mỗi nhà xuất khẩu vì muốn tăng khối lượng thu gom của mình nên tăng giá lạc lên làm cho giá lạc xuất khẩu trong nươc tăng tự do mà Nhà nước không kiểm soát được. Nếu giá lạc trên thị trường thế giới có xu hướng suy giảm, các nhà nhập khẩu lạc không thể nhập khẩu một khối lượng lớn hoặc không chấp nhận ở mức giá mà tại đó chúng ta mới có lợi nhuận. Vì vậy đã gây nên tình trạng ứ đọng hàng hoá, các nhà xuất khẩu (khách hàng của Ngân hàng) lại phải giảm giá để mong tiêu thụ được hàng hoặc thậm chí chấp nhận xuất hàng thanh toán chậm. Như vậy, sự kiểm soát giá cả không chặt chẽ của hàng hoá trong nước cũng gây ra không Ýt những khó khăn cho công tác xuất nhập khẩu và ảnh hưởng đến quy trình thanh toán của xuất nhập khẩu.
*Về trợ cấp xuất nhập khẩu:
Nhà nước cần trợ cấp cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu thông qua chế độ lãi suất ưu đãi, để hỗ trợ các doanh nghiệp thực hiện các mặt hàng chiến lược theo yêu cầu cụ thể trong từng giai đoạn, phát huy lợi thế so sánh của nước ta. Trước mắt nên trợ cấp cho các doanh nghiệp sản xuất và các doanh nghiệp thu mua xuất khẩu gạo, than, cà phê, cao su, lạc nhân, chè, hát điều, hàng nông lâm thuỷ sản, hàng dệt may, dầu thô...
Để đảy mạnh tiến trình công nghiệp hoá về xuất khẩu, đưa nền kinh tế Việt Nam phát triển theo cơ chế thị trường có điều tiết của Nhà nước thì ngoài việc có chiến lược xuất nhập khẩu, có chính sách trợ giá tạo thuận lợi khuyến khích các nhà sản xuất, có sự đầu cơ bảo trợ của Nhà nước cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu còn cần có một đường lối chính sách đúng đắn về Ngân hàng sao cho các Ngân hàng Việt Nam phát huy được vai trò giúp đỡ cho nền kinh tế Việt Nam.
Thứ ba, hoàn thiện khung pháp lý trong hoạt động Ngân hàng Việt Nam đang là đòi hỏi cấp bách. Mọi hoạt động Ngân hàng phải được pháp luật đảm bảo khi có tranh chấp xảy ra. Hoạt đông Ngân hàng chỉ phát triển với hiệu quả cao khi nó tồn tại trong một môi trường pháp lý hoàn thiện.
Việc hình sự hoá các mối quan hệ kinh tế thông thường giữa cho vay và trả nợ đã làm cho hoạt động của Ngân hàng trở nên hết sức khó khăn, lung tung khi phải tiếp xúc với các đoàn thanh tra liên tục trong một khoảng thời gian, gây ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh.
Thứ tư, về phía Ngân hàng, Nhà nước cần giúp đỡ các ngân hàng thương mại khi cần thiết hỗ trợ. Ngân hàng Nhà nước cần có chế độ quản lý ngoại hối chặt chẽ và hợp lý hơn, đồng thời xem xét tỷ giá hối đoái thường xuyên.
3. Kiến nghị đối với các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu.
Những trục trặc tồn tại trong công tác thanh toán xuất nhập khẩu chủ yếu là từ phía các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu. Để khắc phục những yếu kém này thì bản thân các đơn vị phải có những giải pháp cho riêng mình. Cụ thể là:
a) Đối với đơn vị nhập khẩu:
Để tránh rủi ro có thể xảy ra, bảo đảm an toàn cho thanh toán hàng nhập khẩu, nhà nhập khẩu cần phải chú ý:
-Trước khi ký kết hợp đồng phải tìm hiểu ký bạn hàng của mình về mặt pháp lý, lĩnh vực kinh doanh, uy tín trên thị trường quốc tế và thiện chí của người xuất khẩu.
- Những điều khoản trong hợp đồng phải chặt chẽ để có thể nắm bắt được dễ dàng nội dung, đảm bảo sự hoàn hảo. Bởi vì tiền hàng đã trả theo bộ chứng từ xuất trình cho Ngân hàng đều phù hợp cả về số lượng, chất lượng và cả về thời gian. Nhưng thực tế lại có tranh chấp, do hàng hoá nhập được không đúng như thoả thuận Vì vậy, người tham gia vào chính quá trình xuất nhập khẩu phải giỏi chuyên môn, giàu kinh nghiệm, hiểu biết rộng tất cả các lĩnh vực khác, đặc biệt là hiểu biết về luật pháp, các quy định của Nhà nước để khi ký kết, thực hiện hợp đồng thanh toán đạt hiệu quả.
-Trong nhiều trường hợp cần tham gia thêm ý kiến của Ngân hàng giàu kinh nghiệm trong kinh doanh thanh toán để nhập được hàng sớm, dùng tiêu chuẩn chất lượng. Tránh những rủi ro trong kinh doanh như bị người xuất khẩu lừa dối, hoặc đưa ra những điều kiện không hợp lý nhằm gây khó khăn cho nhà nhập khẩu.
b) Đối với đơn vị xuất khẩu:
Cần khẩn trương lập bộ chứng từ và nộp đầy đủ, đúng hạn theo quy định trong thư tín dụng. Cần phải xem xét bộ chứng từ cẩn thận theo quy định, nếu không sẽ bị ngân hàng từ chối thanh toán, gây khó khăn tốn kém về thời gian và chi phí để sửa đổi hoặc đàm phán lại với nhà nhập khẩu.
Bên cạnh đó phải trú trọng việc chỉ định ngân hàng thanh toán, ngân hàng thanh toán nên là một ngân hàng ở nước người bán để tránh tình trạng kéo dài thời gian thu tiền do việc luân chuyển chứng từ chậm hơn từ ngân hàng phục vụ người bán đến ngân hàng phục vụ người mua. Mặt khác cũng để đề phòng biến động tỷ giá (ngoại tệ/ nội tệ) khi tỷ giá giảm, và để phòng rủi do ngân hàng mở bị phá sản (rủi ro này nhìn chung Ýt xảy ra nhưng không phải là không có). Vì vậy, nhà xuất khẩu cần yêu cầu nhà nhập khẩu mở thư tín dụng ở ngân hàng có uy tín, nếu điều này không thực hiện được thì phải yêu cầu mở thư tín dụng có xác nhận, xác nhận này phải của ngân hàng lớn có uy tín trên thế giới.
Kết luận
Đất nước ta đang bước vào một thời đại mới đầy cơ hội và biến động. Là một nước đi sau trên con đường mở cửa nền kinh tế, để thúc đẩy quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, thu hút nhiều hơn nữa vốn và công nghệ tiên tiến đòi hỏi các cấp, các ngành trong đó có ngành ngân hàng phải có những cải tiến để đóng góp tốt hơn cho công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước.
Qua việc xem xét, nghiên cứu hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội, em đã có một nhận thức rõ ràng hơn về tầm quan trọng của nghiệp vụ này đối với đời sống kinh tế chính trị đất nước. Tăng cường hiệu quả công tác thanh toán quốc tế nói chung và thanh toán xuất nhập khẩu nói riêng có tác dụng thúc đẩy hoạt động thương mại giữa nước ta với các nước trên thế giới. Qua đó nâng cao trình độ, năng lực cũng như thu nhập cho ngân hàng. Kết hợp giữa lý luận và thực tế, bài viết đã giải quyết được một số vấn đề sau:
-Khái quát tầm quan trọng của thanh toán xuất nhập khẩu trong các quan hệ kinh tế quốc tế nói chung và thanh toán xuất nhập khẩu trong hoạt động của các ngân hàng thương mại nói riêng.
-Bên cạnh đó bài viết đề cập đến phương thức thanh toán xuất nhập khẩu để dưa ra những ưu điểm và hạn chế của mỗi phương thức.
-Vận dông lý thuyết vào phân tích đánh giá hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội. Từ đó rót ra những thành tựu, hạn chế trong hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu tại Ngân hàng, đồng thời cũng đưa ra một số kiến nghị và giải pháp để không ngừng phát huy những mặt mạnh, khắc phục những mặt còn hạn chế.
Nhận xét của cơ sở thực tập
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………..
Nhận xét của giáo viên hướng dẫn
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………..
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 0 46.doc