“Điều 298. Giới hạn của việc xét xử
3. Trường hợp xét thấy cần xét xử bị cáo về
tội danh nặng hơn tội danh Viện kiểm sát truy tố
thì Tòa án trả hồ sơ để Viện kiểm sát truy tố lại
và thông báo rõ lý do cho bị cáo hoặc người đại
diện của bị cáo, người bào chữa biết; nếu Viện
kiểm sát vẫn giữ tội danh đã truy tố thì Tòa án
đề nghị Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp xem xét.
Nếu Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp vẫn giữ
nguyên quyết định truy tố của Viện kiểm sát đã
truy tố thì Tòa án xét xử theo tội danh đó”.
Thứ sáu, sửa đổi quy định thủ tục xét
hỏi tại phiên tòa bảo đảm phân định rõ trách
nhiệm, quyền hạn của các chủ thể thực hiện
chức năng buộc tội, gỡ tội, xét xử; bổ sung quy
định về căn cứ kháng nghị phúc thẩm của VKS
trong TTHS
- Về thủ tục xét hỏi tại phiên toà: BLTTHS
năm 2015 cần hoàn thiện theo hướng, tham
gia vào thủ tục xét hỏi chỉ có các bên tranh
tụng; Bên buộc tội là VKS và người bị hại,
nguyên đơn dân sự; Bên bào chữa là người
bào chữa, bị cáo, bị đơn dân sự. Xét hỏi
chính là cách thức chứng minh bằng các
chứng cứ sự tồn tại (hoặc không tồn tại)
của những sự kiện, tình tiết cụ thể của vụ
án. Chứng minh tội phạm là nghĩa vụ của
bên buộc tội và chứng minh không phải tội
phạm là quyền của bên bào chữa. Toà án
không phải là bên tranh tụng nên không
tham gia xét hỏi mà là người điều khiển
quá trình xét hỏi. Những câu hỏi của Toà
án trong phần này chỉ có thể là những câu
hỏi mang tính thủ tục. Bất kỳ câu hỏi nào
của Toà án về tình tiết cụ thể của vụ án đều
không đúng chức năng và đều có thể làm
nghi ngờ sự vô tư khách quan của Toà án.
- Về căn cứ kháng nghị phúc thẩm của VKS
khi thực hành quyền công tố: BLTTHS năm
2015 cần hoàn thiện theo hướng, khi thực
hành quyền công tố, VKS kháng nghị phúc
thẩm vụ án hình sự khi có sai lầm nghiêm
trọng trong việc áp dụng pháp luật./.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 322 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số hạn chế, vướng mắc của chế định thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự hiện hành và kiến nghị hoàn thiện pháp luật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
25Khoa học Kiểm sát
VŨ ĐỨC HẠNH
Số 05 - 2019
Thực hành quyền công tố trong TTHS hiện hành đã có nhiều sửa đổi, bổ sung so với quy định của
BLTTHS năm 2003, trong đó có bổ sung
thêm nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi
thực hành quyền công tố trong giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố; mở rộng thẩm quyền khởi tố vụ
án, khởi tố bị can; quy định rõ nhiệm vụ,
quyền hạn của VKS khi tiến hành thực
hiện một số biện pháp điều tra; tách thủ tục
truy tố thành một giai đoạn độc lập; phân
định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi
thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt
động tư pháp trong tất cả các giai đoạn
TTHS; đổi mới trình tự, thủ tục, thời hạn
tiến hành các hoạt động TTHS theo hướng
minh bạch, dễ thực hiện, bảo đảm dân chủ
trong TTHS.v.v1. Tuy nhiên, qua khảo sát
thực tiễn thực hiện BLTTHS năm 2015 cho
thấy, một số quy định về nhiệm vụ, quyền
hạn của VKS khi thực hành quyền công tố
còn những hạn chế, vướng mắc làm ảnh
hưởng đến chất lượng thực thi quyền công
tố của VKS theo yêu cầu cải cách tư pháp
và hội nhập quốc tế; yêu cầu bảo đảm và
1 Nguyễn Hòa Bình (chủ biên) (2016), Những nội
dung mới của BLTTHS năm 2015, NXB Chính trị
quốc gia.
MỘT SỐ HẠN CHẾ, VƯỚNG MẮC CỦA CHẾ ĐỊNH THỰC HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ HIỆN HÀNH
VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VŨ ĐỨC HẠNH*
* Thạc sĩ, Trưởng phòng Đào tạo và Quản lý sinh
viên, Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội; NCS Khoa
Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
Để thực hiện được mục tiêu thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân
dân (VKSND) quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS), một trong những
yêu cầu là BLTTHS phải quy định đầy đủ, đảm bảo tính đồng bộ và khả thi các
quyền năng pháp lý của VKS. Tuy nhiên, thực tiễn thi hành chế định thực hành
quyền công tố trong tố tụng hình sự (TTHS) hiện hành cho thấy một số khó khăn,
hạn chế cần phải tiếp tục nghiên cứu để kiến nghị hoàn thiện trong thời gian tới.
Từ khóa: Thực hành quyền công tố, Viện kiểm sát nhân dân, Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015.
Ngày nhận bài: 16/10/2019; Biên tập xong: 25/10/2019; Duyệt đăng: 26/10/2019.
In order for the Procuracy to exercise prosecution right prescribed
in 2015 Criminal Procedure Code, one of requirements is that this Code
has to regulate fully and ensure the uniformity and feasibility of the
Procuracy’s legal powers. However, the practice of exercising this right in
criminal proceedings has witnessed some difficulties and shortcomings
in 2015 Criminal Procedure Code which needs to continuously study and
complete in the future.
Keywords: Exercising prosecution right, the People’s Procuracy, the
Criminal Procedure Code in 2015.
26
MỘT SỐ HẠN CHẾ, VƯỚNG MẮC CỦA CHẾ ĐỊNH THỰC HÀNH QUYỀN...
Khoa học Kiểm sát Số 05 - 2019
bảo vệ quyền con người được quy định
trong Hiến pháp năm 2013.
1. Một số hạn chế, vướng mắc trong
quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của
Viện kiểm sát khi thực hành quyền công
tố trong tố tụng hình sự
Thứ nhất, phạm vi thẩm quyền giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
còn hạn chế, chưa thể hiện hết vị trí, vai trò
của VKS; quy định về thẩm quyền của VKS khi
khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi
chưa đồng bộ
Theo quy định tại Điều 145 BLTTHS
năm 2015, VKS giải quyết tố giác, tin báo
về tội phạm, kiến nghị khởi tố trong trường
hợp phát hiện Cơ quan điều tra (CQĐT),
các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra có vi phạm pháp
luật nghiêm trọng trong hoạt động kiểm
tra, xác minh tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố hoặc có dấu hiệu bỏ lọt
tội phạm mà VKS đã yêu cầu bằng văn bản
nhưng không được khắc phục. Căn cứ quy
định này, trường hợp CQĐT, các cơ quan
được giao tiến hành một số hoạt động điều
tra có thực hiện nhưng thực hiện không
đầy đủ những yêu cầu của VKS thì VKS
không được trực tiếp giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
Trường hợp khác, khi VKS thực hiện
thẩm quyền yêu cầu CQĐT, cơ quan được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra tiến hành kiểm tra, xác minh theo
quy định tại Điều 159 BLTTHS năm 2015
nhưng CQĐT, cơ quan được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
không thực hiện với nhiều lý do khác
nhau thì VKS cũng không được tự mình
tiến hành các hoạt động kiểm tra, xác minh
để giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố. Đây là những hạn chế
trong việc xác định phạm vi thẩm quyền
trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố của VKS trong
BLTTHS năm 2015, chưa đảm bảo đầy đủ
quyền hạn cho VKS trong phát hiện, xử lý
kịp thời tội phạm, chống oan, sai, lọt tội
phạm, người phạm tội.
Ngoài ra, quy định của BLTTHS năm
2015 về việc tiến hành các hoạt động điều
tra của VKS trong quá trình giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi
tố còn chưa đồng bộ. Theo quy định tại
khoản 3, khoản 4 Điều 147 BLTTHS năm
2015, khi VKS trực tiếp giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thì
có thẩm quyền tiến hành các biện pháp
khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm
tử thi nhưng tại các Điều 201, Điều 202
BLTTHS năm 2015 về khám nghiệm hiện
trường, khám nghiệm tử thi lại không quy
định thẩm quyền VKS khám nghiệm hiện
trường, khám nghiệm tử thi nên cũng chưa
có sự thống nhất về nhận thức pháp luật.
Trình tự, thủ tục, thẩm quyền tiến hành các
hoạt động này của VKS như thế nào cũng
chưa được BLTTHS năm 2015 hoặc văn bản
dưới luật nào quy định, hướng dẫn cụ thể.
Thứ hai, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS
trong quản lý việc tiếp nhận, xử lý ban đầu tin
báo, tố giác tội phạm, kiến nghị khởi tố của Đồn
Công an, Công an xã, phường, thị trấn chưa
được quy định trong BLTTHS năm 2015
Điều 159, Điều 160 BLTTHS năm 2015
chỉ quy định nhiệm vụ, quyền hạn của
VKS khi thực hành quyền công tố, kiểm
sát đối với hoạt động giải quyết, tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của
CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra. Tuy nhiên,
theo quy định tại Điều 146 BLTTHS năm
27Khoa học Kiểm sát
VŨ ĐỨC HẠNH
Số 05 - 2019
2015, Công an phường, thị trấn, Đồn Công
an có trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo
về tội phạm, lập biên bản tiếp nhận, tiến
hành kiểm tra, xác minh sơ bộ và chuyển
ngay tố giác, tin báo về tội phạm kèm theo
tài liệu, đồ vật có liên quan cho CQĐT có
thẩm quyền. Công an xã có trách nhiệm
tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, lập
biên bản tiếp nhận, lấy lời khai ban đầu và
chuyển ngay tố giác, tin báo về tội phạm
kèm theo tài liệu, đồ vật có liên quan cho
CQĐT có thẩm quyền, nhưng Đồn Công
an, Công an phường, thị trấn, Công an
xã không phải là CQĐT nên không thuộc
phạm vi thực hành quyền công tố, kiểm sát
hoạt động điều tra của VKS.
Trên thực tế, rất nhiều trường hợp Đồn
Công an, Công an phường, thị trấn, Công
an xã tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về
tội phạm nhưng VKS không thể thực hiện
được nhiệm vụ, quyền hạn thực hành
quyền công tố, kiểm sát việc tuân theo
pháp luật đối với các cơ quan này. Do vậy,
nhiều tố giác, tin báo về tội phạm đã bị xử
lý sai, chủ yếu bỏ lọt tội phạm trong giai
đoạn này do không xử lý, tiến hành hòa
giải hoặc xử phạt vi phạm hành chính. Qua
khảo sát thực tế công tác kiểm tra của một
VKS cấp huyện năm 2018 về công tác tiếp
nhận, giải quyết ban đầu tố giác, tin báo
về tội phạm của Công an phường, thị trấn,
Công an xã cho thấy, Công an phường, thị
trấn, Công an xã không lập sổ thụ lý; không
phân công xác minh và thiết lập hồ sơ ban
đầu; giải quyết tin báo, tố giác không đúng
thẩm quyền; vi phạm thời hạn chuyển tin
báo, tố giác cho CQĐT, có trường hợp có
dấu hiệu của tội phạm nhưng tiến hành
xử lý hành chính mà không chuyển CQĐT
có thẩm quyền giải quyết.v.v. Đây là một
trong những nguyên nhân dẫn đến tình
trạng bỏ lọt tội phạm, người phạm tội.
Thứ ba, phạm vi thẩm quyền khởi tố vụ án
hình sự của VKS đã được mở rộng nhưng chưa
thể hiện được hết vị trí, vai trò quyết định của
VKS trong giai đoạn khởi tố
Điều 153 BLTTHS năm 2015 quy định
thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của
VKS. Theo đó, VKS ra quyết định khởi tố
vụ án hình sự trong trường hợp: (1) Viện
kiểm sát hủy bỏ quyết định không khởi
tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra, cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra; (2) Viện kiểm sát
trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố; (3) Viện kiểm sát
trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm hoặc
theo yêu cầu khởi tố của Hội đồng xét xử.
Theo quy định này, trong trường hợp VKS
căn cứ quy định tại Điều 159 BLTTHS năm
2015 yêu cầu CQĐT, cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra khởi tố vụ án hình sự nhưng CQĐT, cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra không thực hiện thì
VKS không được ra quyết định khởi tố vụ
án. Đây là một bất cập trong quy định về
phạm vi thẩm quyền khởi tố vụ án của VKS
và không đồng bộ với thẩm quyền khởi tố
bị can của VKS. Theo quy định tại Điều 179
BLTTHS năm 2015, trong giai đoạn điều
tra, trường hợp VKS phát hiện có người đã
thực hiện hành vi mà BLHS quy định là tội
phạm chưa bị khởi tố thì trực tiếp ra quyết
định khởi tố bị can nếu đã yêu cầu nhưng
CQĐT không thực hiện2.
Thứ tư, quy định VKS chỉ có thẩm quyền
phê chuẩn, không phê chuẩn hoặc hủy bỏ việc áp
dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều
tra chưa phản ánh hết vai trò của VKS trong
2 Điều 179 BLTTHS năm 2015.
28
MỘT SỐ HẠN CHẾ, VƯỚNG MẮC CỦA CHẾ ĐỊNH THỰC HÀNH QUYỀN...
Khoa học Kiểm sát Số 05 - 2019
việc bảo đảm quyền con người trong TTHS
Điều 161 BLTTHS năm 2015 không
quy định việc VKS phê chuẩn hoặc không
phê chuẩn các quyết định về việc bắt
người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp,
gia hạn tạm giữ mà những quyền hạn này
được quy định tại các điều luật cụ thể về
giữ người trong trường hợp khẩn cấp, tạm
giữ và trong Điều 165 BLTTHS năm 2015
về “Nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi thực
hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự”, trong khi những quyền hạn
này VKS chỉ thực hiện trong giai đoạn khởi
tố vụ án hình sự. Đây cũng là những quy
định chưa bảo đảm tính khoa học, hợp lý
trong BLTTHS năm 2015.
Điều 165 BLTTHS năm 2015 quy định
về việc VKS phê chuẩn hoặc không phê
chuẩn các lệnh bắt người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp, lệnh gia hạn tạm
giữ, lệnh tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc
tài sản để bảo đảm mà không có thẩm
quyền quyết định việc áp dụng các biện
pháp trên trong giai đoạn điều tra là chưa
hợp lý. Bởi lẽ, khi CQĐT ra các quyết định
trên, chuyển quyết định và hồ sơ cho VKS
phê chuẩn, nếu VKS không đồng ý phê
chuẩn hoặc hủy bỏ thì phải có những căn
cứ rõ ràng về việc áp dụng trái pháp luật
của CQĐT. Tuy nhiên, trong nhiều trường
hợp, việc áp dụng của CQĐT không trái
pháp luật nhưng xét trong trường hợp cụ
thể thì không cần thiết áp dụng biện pháp
này, CQĐT áp dụng không nhằm mục
đích chính là ngăn chặn tội phạm mà chỉ
để thuận lợi cho việc điều tra. Nhưng để
chứng minh được việc không cần thiết áp
dụng là vấn đề phức tạp, thường gây tranh
cãi, do vậy, VKS thường phải phê chuẩn các
quyết định này như một lẽ đương nhiên. Ở
một số trường hợp ngược lại, khi VKS thấy
cần phải áp dụng biện pháp ngăn chặn
tạm giam chứ không phải biện pháp ngăn
chặn khác, yêu cầu áp dụng nhưng CQĐT
không áp dụng vì thấy không cần thiết thì
VKS cũng khó điều chỉnh được. Những
bất cập trên dẫn đến việc áp dụng các biện
pháp ngăn chặn trong một số trường hợp
chưa được chính xác, ảnh hưởng đến quyền
con người trong TTHS và chất lượng thực
hành quyền công tố của VKS.
Thứ năm, quy định về giới hạn xét xử, thủ
tục xét hỏi tại phiên tòa chưa phản ánh đúng vị
trí, vai trò, phạm vi của chủ thể thực hiện các
chức năng TTHS, ảnh hưởng đến việc nâng
cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa
xét xử; căn cứ kháng nghị phúc thẩm bản án,
quyết định của Tòa án chưa được quy định cụ
thể ảnh hưởng đến chất lượng công tác kháng
nghị của VKS
Về giới hạn xét xử. Điều 298 BLTTHS
năm 2015 quy định về giới hạn của việc xét
xử, theo đó, khi xét xử, Tòa án xét thấy cần
xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh
VKS truy tố thì Tòa án trả hồ sơ để VKS
truy tố lại và thông báo rõ lý do cho bị cáo
hoặc người đại diện của bị cáo, người bào
chữa biết; nếu VKS vẫn giữ tội danh đã
truy tố thì Tòa án có quyền xét xử bị cáo về
tội danh nặng hơn đó3. Việc quy định như
trên là không phù hợp, bởi lẽ, trong trường
hợp VKS không đồng ý truy tố về tội danh
nặng hơn đó thì trong cáo trạng của VKS sẽ
không truy tố, luận tội của VKS sẽ không
đề nghị loại và mức hình phạt của tội danh
đó, VKS sẽ không tranh luận, đối đáp về
tội danh đó. Vậy bị cáo, người bào chữa và
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự, bị hại sẽ tranh luận, đối đáp
như thế nào. Hơn nữa, khoản 2 Điều 326
3 Khoản 3 Điều 298 BLTTHS năm 2015.
29Khoa học Kiểm sát
VŨ ĐỨC HẠNH
Số 05 - 2019
BLTTHS năm 2015 quy định: “Việc nghị án
chỉ được căn cứ vào những chứng cứ, tài liệu
đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem
xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ của vụ án, ý
kiến của KSV, bị cáo, người bào chữa, người
tham gia tố tụng khác”. Vậy trong trường
hợp này, ý kiến của KSV có được Tòa án
xem xét khi nghị án hay không? Đặc biệt
hơn nữa, trong trường hợp này, xét về bản
chất nội dung thì Tòa án đã thực hiện chức
năng buộc tội thay cho VKS.
Về thủ tục xét hỏi. Xét hỏi thực chất là
cuộc điều tra chính thức tại phiên tòa để
xác định sự thật khách quan của vụ án. Các
bên tham gia tố tụng đều có quyền điều tra
dưới sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa từ
hỏi người khác, xem xét vật chứng, tài liệu.
Việc xét hỏi này chỉ kết thúc khi tòa án thấy
rằng thông qua xét hỏi sự thật khách quan,
đối tượng chứng minh trong vụ án đã được
xác định đầy đủ, các tình tiết liên quan đến
việc giải quyết đã được làm rõ. Vì thế, thủ
tục tố tụng quy định quyền thu thập chứng
cứ chỉ cho các cơ quan tiến hành tố tụng,
quy định gánh nặng xét hỏi cho tòa án, quy
định chỉ cho phép một số ít các bên tham
gia xét hỏi (đại diện VKS, luật sư) cần được
xem xét lại từ góc độ tranh tụng.
BLTTHS năm 2015 vẫn giữ nguyên
như quy định tại Điều 207 BLTTHS năm
2003 về thủ tục xét hỏi. Theo đó, khi xét
hỏi từng người, chủ tọa phiên tòa hỏi trước
rồi đến các Hội thẩm, sau đó đến Kiểm sát
viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền
lợi của đương sự là chưa thực sự phù hợp.
VKS là cơ quan truy tố bị can ra tòa để xét
xử và thực hiện việc buộc tội tại phiên tòa.
Người bào chữa, luật sư là người đưa ra
những lý lẽ, luận cứ để bào chữa cho người
bị buộc tội. Tòa án nhân danh công lý căn
cứ vào chứng cứ được thẩm tra công khai
tại phiên tòa đưa ra phán quyết khách
quan, có căn cứ và đúng pháp luật. Vì vậy,
tại phiên tòa, việc xét hỏi chính phải là đại
diện bên buộc tội và bên gỡ tội chứ không
phải là Thẩm phán chủ tọa phiên tòa và
Hội thẩm. Hội đồng xét xử không phải
thẩm vấn vấn đề mới đối với bị cáo mà có
tính chất kiểm tra sự thật, loại trừ những
mâu thuẫn trong lời khai. Tòa án với chức
năng xét xử, đó là xem xét những chứng
cứ mà bên buộc tội và bên gỡ tội đã xét hỏi
để thẩm tra tại tòa để từ đó ra phán quyết.
VKS phải có trách nhiệm bảo vệ quan điểm
truy tố của mình trước Hội đồng xét xử,
bên bào chữa phải có trách nhiệm chứng
minh phản bác những chứng cứ buộc tội
mà bên buộc tội đưa ra, đồng thời chứng
minh những tình tiết có lợi cho bị cáo.
Về kháng nghị phúc thẩm bản án, quyết
định của Tòa án khi VKS thực hành quyền công
tố trong giai đoạn xét xử. Điều 266 BLTTHS
năm 2015 quy định cho VKS khi thực hành
quyền công tố được kháng nghị bản án,
quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp
luật trong trường hợp có oan, sai, lọt tội
phạm, người phạm tội. Quy định này có
thể gián tiếp hiểu căn cứ kháng nghị của
VKS đối với bản án, quyết định của Toà
án khi thực hành quyền công tố là bản án,
quyết định sơ thẩm của Toà án có oan, sai,
lọt tội phạm, người phạm tội. Tuy nhiên,
nội hàm của các trường hợp oan, sai, lọt tội
phạm, người phạm tội cũng cần quy định
trong BLTTHS năm 2015 để đảm bảo tính
hiệu lực và tạo tính thống nhất trong áp
dụng pháp luật TTHS.
2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp
luật về thực hành quyền công tố
Cơ sở của việc tiếp tục hoàn thiện chế
định thực hành quyền công tố trong TTHS
ngoài việc phải xuất phát từ những hạn
30
MỘT SỐ HẠN CHẾ, VƯỚNG MẮC CỦA CHẾ ĐỊNH THỰC HÀNH QUYỀN...
Khoa học Kiểm sát Số 05 - 2019
chế, vướng mắc trong thi hành chế định
thực hành quyền công tố còn đòi hỏi nhà
làm luật: Phải nhận thức đầy đủ, khoa
học về lý luận quyền công tố, thực hành
quyền công tố; đánh giá mức độ thể chế
hoá các chủ trương của Đảng về cải cách
tư pháp, yêu cầu của hội nhập quốc tế,
yêu cầu trong đấu tranh, xử lý tội phạm
trong tình hình mới và các quy định của
Hiến pháp năm 2013, tính khả thi, đồng bộ
của các quy định của BLTTHS, từ đó xác
định được những yêu cầu tiếp tục hoàn
thiện BLTTHS năm 2015. Bởi vậy, tác giả
kiến nghị hoàn thiện một số quy định của
BLTTHS năm 2015 cụ thể như sau:
Thứ nhất, mở rộng phạm vi thẩm quyền
trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố của VKS và quy định cơ chế
phối hợp hiệu quả giữa VKS với CQĐT, các
cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động
điều tra để VKS thực hiện có hiệu quả hoạt
động giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố
BLTTHS năm 2015 cần quy định bổ
sung thẩm quyền trực tiếp tiến hành kiểm
tra, xác minh của VKS trong trường hợp
VKS đã yêu cầu nhưng CQĐT, các cơ quan
được giao tiến hành một số hoạt động điều
tra tiến hành kiểm tra, xác minh nhưng các
cơ quan này không thực hiện. Quy định rõ
trách nhiệm của CQĐT, các cơ quan được
giao tiến hành một số hoạt động điều tra khi
không thực hiện yêu cầu của VKS dẫn đến
chứng cứ, tài liệu bị tiêu hủy hoặc không thể
thu thập được, ảnh hưởng đến việc chứng
minh tội phạm. Bổ sung quy định VKS có
thẩm quyền tiến hành các hoạt động điều
tra được thực hiện trước khi khởi tố vụ án
theo quy định của pháp luật và có cơ chế
pháp lý phối hợp giữa CQĐT, các cơ quan
được giao tiến hành một số hoạt động điều
tra với VKS theo hướng CQĐT, các cơ quan
được giao tiến hành một số hoạt động điều
tra phải có trách nhiệm phối hợp VKS khi
VKS yêu cầu để tiến hành kiểm tra, xác
minh. Theo đó:
- “Điều 145. Trách nhiệm tiếp nhận và
thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm, kiến nghị khởi tố
1...
3...
a)...
c) Viện kiểm sát giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố trong
trường hợp hoặc trong trường hợp Viện
kiểm sát đã yêu cầu kiểm tra, xác minh nhưng
Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra không
thực hiện. Cơ quan điều tra, cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
có trách nhiệm phối hợp với Viện kiểm sát tiến
hành kiểm tra, xác minh khi có yêu cầu của
Viện kiểm sát”.
- “Điều 201. Khám nghiệm hiện trường
1. ...;
4. Trường hợp Viện kiểm sát trực tiếp giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố thì Viện kiểm sát tiến hành khám nghiệm
hiện trường. Việc khám nghiệm hiện trường
được tiến hành theo quy định tại Điều này”.
- “Điều 202. Khám nghiệm tử thi
1;
5. Trường hợp Viện kiểm sát trực tiếp
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố thì Viện kiểm sát tiến hành khám
nghiệm tử thi. Việc khám nghiệm tử thi được
tiến hành theo quy định tại Điều này”.
Thứ hai, bổ sung thẩm quyền thực hành
31Khoa học Kiểm sát
VŨ ĐỨC HẠNH
Số 05 - 2019
quyền công tố, kiểm sát việc tuân theo pháp
luật TTHS trong việc tiếp nhận, xử lý ban đầu
tin báo, tố giác tội phạm, kiến nghị khởi tố của
Đồn công an, Công an cấp xã
Điều 159 BLTTHS năm 2015 cần bổ
sung thêm thẩm quyền: “Hủy bỏ quyết
định trái pháp luật của Công an phường,
thị trấn, Đồn công an và Công an xã trong
việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về
tội phạm; yêu cầu những cơ quan này
tiến hành kiểm tra, xác minh ban đầu và
chuyển ngay tố giác, tin báo về tội phạm
kèm theo tài liệu, đồ vật có liên quan cho
Cơ quan điều tra có thẩm quyền”. Tương
tự như vậy, về nhiệm vụ, quyền hạn của
VKS trong việc tiếp nhận và kiểm sát
việc giải quyết nguồn tin về tội phạm theo
Điều 160 BLTTHS năm 2015 cũng cần bổ
sung thẩm quyền kiểm sát hoạt động tiếp
nhận, giải quyết ban đầu của Công an xã,
phường, thị trấn và Đồn Công an.
Thứ ba, mở rộng phạm vi thẩm quyền khởi
tố vụ án hình sự, xây dựng cơ chế pháp lý phù
hợp để bảo đảm thực chất vai trò quyết định
của VKS trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự
Bổ sung thẩm quyền khởi tố vụ án của
VKS trong trường hợp VKS đã yêu cầu
CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra khởi tố vụ
án hình sự nhưng các cơ quan này không
thực hiện. Như vậy, khoản 3 Điều 153
BLTTHS năm 2015 hoàn thiện theo hướng
bổ sung thêm một điểm như sau:
“Điều 153. Thẩm quyền khởi tố vụ án
hình sự
1...
3. Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố vụ
án hình sự trong trường hợp: a); b);c)
.d) Viện kiểm sát đã yêu cầu Cơ quan điều tra,
cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra khởi tố vụ án hình sự nhưng
không thực hiện”.
Việc mở rộng thẩm quyền khởi tố vụ
án hình sự là cần thiết, phản ánh đúng vị
trí, vai trò của VKS trong TTHS. Tuy nhiên,
để bảo đảm tính khả thi trong thực tiễn thi
hành thì BLTTHS cần phải quy định thêm
những cơ chế pháp lý hữu hiệu để VKS
thực thi thẩm quyền của mình. VKS khởi
tố vụ án, khởi tố bị can nhưng thẩm quyền
điều tra vụ án lại thuộc CQĐT nên kết quả
cuối cùng phụ thuộc rất lớn vào sự tích
cực và phối hợp của CQĐT. Do đó, nếu
CQĐT không tích cực, phối hợp không tốt
với VKS thì dễ dẫn đến tình trạng vụ án
phải đình chỉ hoặc tạm đình chỉ. Như vậy,
để có cơ chế hữu hiệu đảm bảo việc thực
thi quyền công tố trong giai đoạn điều tra,
VKS cần có thẩm quyền điều tra tất cả các
tội phạm khi thấy cần thiết. Thiết chế điều
tra trực thuộc VKS là cánh tay nối dài của
VKS khi thực hành quyền công tố, là cơ sở
để tăng cơ chế kiểm soát quyền trong quá
trình điều tra, thể hiện được vai trò quyết
định thực sự của VKS trong giai đoạn điều
tra, đảm bảo cho VKS thực thi có hiệu quả
quyền công tố.
Thứ tư, quy định VKS có thẩm quyền
quyết định áp dụng một số biện pháp ngăn
chặn trong giai đoạn điều tra
Điều 165 BLTTHS năm 2015 bổ sung
theo hướng VKS ra quyết định áp dụng
các biện pháp ngăn chặn, trừ biện pháp
bắt và tạm giữ do CQĐT áp dụng. Trên cơ
sở xem xét căn cứ, sự cần thiết, VKS sẽ ra
quyết định áp dụng hoặc không áp dụng
biện pháp ngăn chặn do CQĐT đề nghị.
Cụ thể, Điều 165 BLTTHS đề nghị sửa đổi,
bổ sung như sau:
32
MỘT SỐ HẠN CHẾ, VƯỚNG MẮC CỦA CHẾ ĐỊNH THỰC HÀNH QUYỀN...
Khoa học Kiểm sát Số 05 - 2019
“Điều 165.
1...
4. Phê chuẩn hoặc hủy bỏ lệnh bắt người bị
giữ trong trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm
giữ, khám xét, thu giữ, tạm giữ đồ vật, thư
tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, áp dụng
biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt; phê chuẩn,
không phê chuẩn các quyết định tố tụng khác
không có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan
điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra theo quy định của Bộ
luật này; hủy bỏ các quyết định tố tụng không
có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều
tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra. Trường hợp không phê
chuẩn hoặc hủy bỏ thì trong quyết định hủy bỏ
phải nêu rõ lý do”
Thứ năm, sửa đổi quy định về giới hạn
xét xử của Tòa án theo hướng bảo đảm cơ
chế kiểm soát quyền tư pháp và nâng cao chất
lượng tranh tụng
Điều 298 BLTTHS năm 2015 hoàn thiện
theo hướng bỏ quy định về việc Tòa án xét
xử về tội danh nặng hơn tội danh VKS đã
truy tố. Trường hợp xét thấy cần xét xử bị
cáo về tội danh nặng hơn tội danh Viện
kiểm sát truy tố thì Tòa án trả hồ sơ để
VKS truy tố lại và thông báo rõ lý do cho bị
cáo hoặc người đại diện của bị cáo, người
bào chữa biết; nếu VKS vẫn giữ tội danh
đã truy tố thì Tòa án đề nghị VKS cấp trên
trực tiếp xem xét. Nếu VKS cấp trên trực
tiếp vẫn giữ nguyên quyết định truy tố của
VKS đã truy tố thì Tòa án xét xử theo tội
danh đó. Cụ thể:
“Điều 298. Giới hạn của việc xét xử
1
3. Trường hợp xét thấy cần xét xử bị cáo về
tội danh nặng hơn tội danh Viện kiểm sát truy tố
thì Tòa án trả hồ sơ để Viện kiểm sát truy tố lại
và thông báo rõ lý do cho bị cáo hoặc người đại
diện của bị cáo, người bào chữa biết; nếu Viện
kiểm sát vẫn giữ tội danh đã truy tố thì Tòa án
đề nghị Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp xem xét.
Nếu Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp vẫn giữ
nguyên quyết định truy tố của Viện kiểm sát đã
truy tố thì Tòa án xét xử theo tội danh đó”.
Thứ sáu, sửa đổi quy định thủ tục xét
hỏi tại phiên tòa bảo đảm phân định rõ trách
nhiệm, quyền hạn của các chủ thể thực hiện
chức năng buộc tội, gỡ tội, xét xử; bổ sung quy
định về căn cứ kháng nghị phúc thẩm của VKS
trong TTHS
- Về thủ tục xét hỏi tại phiên toà: BLTTHS
năm 2015 cần hoàn thiện theo hướng, tham
gia vào thủ tục xét hỏi chỉ có các bên tranh
tụng; Bên buộc tội là VKS và người bị hại,
nguyên đơn dân sự; Bên bào chữa là người
bào chữa, bị cáo, bị đơn dân sự. Xét hỏi
chính là cách thức chứng minh bằng các
chứng cứ sự tồn tại (hoặc không tồn tại)
của những sự kiện, tình tiết cụ thể của vụ
án. Chứng minh tội phạm là nghĩa vụ của
bên buộc tội và chứng minh không phải tội
phạm là quyền của bên bào chữa. Toà án
không phải là bên tranh tụng nên không
tham gia xét hỏi mà là người điều khiển
quá trình xét hỏi. Những câu hỏi của Toà
án trong phần này chỉ có thể là những câu
hỏi mang tính thủ tục. Bất kỳ câu hỏi nào
của Toà án về tình tiết cụ thể của vụ án đều
không đúng chức năng và đều có thể làm
nghi ngờ sự vô tư khách quan của Toà án.
- Về căn cứ kháng nghị phúc thẩm của VKS
khi thực hành quyền công tố: BLTTHS năm
2015 cần hoàn thiện theo hướng, khi thực
hành quyền công tố, VKS kháng nghị phúc
thẩm vụ án hình sự khi có sai lầm nghiêm
trọng trong việc áp dụng pháp luật./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_han_che_vuong_mac_cua_che_dinh_thuc_hanh_quyen_cong_t.pdf