Thứ ba, cần hoàn thiện tổ chức ngành
thủy sản, tiếp tục kiện toàn, nâng cao năng
lực hoạt động (nhân lực, cơ sở vật chất, kinh
phí hoạt động) cho Tổng cục Thủy sản và
các Chi cục chuyên ngành thủy sản tại địa
phương để thực hiện những thẩm quyền,
nhiệm vụ được phân cấp trong Luật Thủy
sản (sửa đổi). Rà soát, bổ sung hoàn thiện
Thứ tư, tăng cường hợp tác quốc tế
về thủy sản để tận dụng tối đa các nguồn
lực, kinh nghiệm của các quốc gia và các tổ
chức quốc tế trong việc hoàn thiện hệ thống
pháp luật về thủy sản. Nghiên cứu các quy
định của luật pháp quốc tế về khai thác thủy
sản để nội luật hoá trong các quy định của
quốc gia. Khuyến khích các doanh nghiệp,
các Trường đại học, các Viện nghiên cứu
khoa học liên doanh, liên kết với các nhà
đầu tư nước ngoài để đầu tư phát triển thủy
sản, đặc biệt trong việc ứng dụng khoa học
công nghệ trong khai thác nuôi trồng và chế
biến thủy sản, sử dụng công nghệ định vị,
vệ tinh để quản lý hoạt động khai thác thủy
sản. Tăng cường và mở rộng hợp tác quốc
tế trong nghề cá, trước hết đối với các nước
trong khu vực ASEAN và các nước trong
khu vực Biển Đông. Đẩy mạnh việc đàm
phán, ký kết các thỏa thuận hợp tác nghề cá
song phương và đa phương với các nước,
các tổ chức quốc tế trong khu vực và trên
thế giới.
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 222 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chính sách, pháp luật về thủy sản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Qua phân tích thực trạng hệ thống chính sách, pháp luật về thủy sản, bài
viết chỉ ra những tồn tại, hạn chế trong các quy định liên quan đến bảo
vệ nguồn lợi thủy sản, nuôi trồng, khai thác thủy sản, quản lý tàu cá và
dịch vụ trong khai thác thủy sản; từ đó, đưa ra các đề xuất, kiến nghị sửa
đổi, bổ sung Luật Thủy sản năm 2003, hoàn thiện tổ chức ngành thủy
sản, tăng cường hợp tác quốc tế về thủy sản, gắn mục tiêu phát triển
kinh tế biển với bảo đảm quốc phòng, an ninh trên biển.
Bùi Thị Thùy Linh**
Nguyễn Minh Sơn*
Abstract:
Based on the analysis of the applicable policies and legal frammework
on the fisheries sector, this article provides the shortcomings and
limitations of the regulations relating to the protection of the fisheries
resources, aquaculture, capture fisheries, and management of fishing
ships and fishery activitity service-providing establishments, for which
recommendations are proposed for amendments of and supplements
to the Fisheries Law of 2003, enhancing fishery managing system,
promoting international cooperation on fisheries and creating a close
connection between developing marine economics and ensuring
national defense and security.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: chính sách và pháp luật,
thủy sản, Luật Thủy sản năm 2003
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 17/08/2017
Biên tập: 12/10/2017
Duyệt bài: 18/10/2017
Article Infomation:
Keywords: policies and laws,
fisheries, Law on Fisheries of 2003
Article History:
Received: 17 Aug. 2017
Edited: 12 Oct. 2017
Appproved: 18 Oct. 2017
* TS, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội.
* Vụ Kinh tế, Văn phòng Quốc hội.
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN
CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ THỦY SẢN
1. Thực trạng hệ thống chính sách, pháp
luật về thủy sản
1.1 Tác động tích cực của chính
sách, pháp luật về thủy sản đối với phát
triển kinh tế
Thứ nhất, hệ thống chính sách, pháp
luật về thủy sản đã có tác động rõ rệt tới tăng
trưởng kinh tế, thể hiện qua chỉ tiêu GDP,
sản lượng thủy sản và giá trị sản xuất thủy
sản.
Thực hiện chủ trương phát huy các
nguồn lực, đổi mới để phát triển trong xu thế
mở cửa và hội nhập đất nước, ngành thủy
sản luôn coi xuất khẩu là động lực và ưu
tiên đầu tư. Việc chú trọng đầu tư ngày một
nhiều hơn và đúng hướng là tiền đề quan
trọng để phát triển kinh tế thủy sản, tạo nên
sự chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất kinh
doanh, nâng cao năng lực, mở rộng quy mô
sản xuất, kinh doanh, tạo ra nhiều việc làm
CHÑNH SAÁCH
29Số 20(348) T10/2017
và tăng thu nhập cho lao động nghề cá cả
nước, tạo nguồn thu lớn cho ngân sách nhà
nước (NSNN).
Trong chiến lược phát triển ngành, các
lĩnh vực khai thác và nuôi trồng thủy sản
được định hướng phát triển phục vụ xuất
khẩu. Ngược lại, thành công trong chế biến,
xuất khẩu đã trở thành động lực thúc đẩy
khai thác và nuôi trồng thủy sản phát triển.
Ngành thủy sản đã chủ động đi trước trong
hội nhập quốc tế, đẩy mạnh việc áp dụng
khoa học công nghệ tiên tiến vào sản xuất,
gắn sản xuất nguyên liệu với chế biến, xúc
tiến thương mại, mở rộng thị trường xuất
khẩu.
Tổng sản lượng thủy sản đã vượt qua
ngưỡng 01 triệu tấn vào năm 1990, đạt 02
triệu tấn vào năm 1999, 05 triệu tấn vào năm
2010 và đạt mốc 06 triệu tấn vào năm 2014.
Kim ngạch xuất khẩu đã vượt qua mức 500
triệu USD năm 1995, vượt ngưỡng 01 tỷ
USD năm 2000, đạt 02 tỷ USD năm 2002,
trên 03 tỷ USD năm 2006, qua mức 04 tỷ
USD năm 2008, 06 tỷ USD năm 2011 và đạt
7,05 tỷ USD năm 2016. Sự tăng trưởng ổn
định của ngành thủy sản trong giai đoạn này
đã giữ vững vị thế cao của Việt Nam trong
cộng đồng nghề cá trên thế giới, đứng thứ 10
về sản lượng khai thác thủy sản, thứ 4 về giá
trị xuất khẩu thủy sản và thứ 3 về nuôi trồng
các loài thủy sản.
Thứ hai, hệ thống chính sách, pháp
luật về thủy sản đã có tác động đến việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản
theo hướng tăng tỷ trọng giá trị nuôi trồng
thủy sản và giảm tỷ trọng giá trị khai thác
thủy sản (Biểu đồ 1).
Từ chỗ là một nghề sản xuất phụ,
mang tính chất tự cấp tự túc, nuôi trồng thủy
sản đã trở thành một ngành sản xuất hàng
1 Phạm Thị Tình (2016), Chính sách pháp luật về thủy sản, kiến nghị và giải pháp hoàn thiện.
2 Như trên.
hoá tập trung với trình độ kỹ thuật tiên tiến,
phát triển ở tất cả các vùng nước ngọt, nước
lợ, nước mặn theo hướng bền vững, bảo vệ
môi trường, hài hòa với các ngành kinh tế
khác. Nuôi trồng thủy sản đang từng bước
trở thành một trong những ngành sản xuất
hàng hoá chủ lực, phát triển rộng khắp và
có vị trí quan trọng và đang hướng đến xây
dựng các vùng sản xuất tập trung. Các đối
tượng có giá trị cao có khả năng xuất khẩu
đã được tập trung đầu tư, khuyến khích phát
triển, hiệu quả tốt. Phát huy được tiềm năng
tự nhiên, nguồn vốn và sự năng động sáng
tạo trong doanh nghiệp và ngư dân. Nuôi
trồng thủy sản đang góp phần hết sức quan
trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong
nông nghiệp cũng như thực hiện xoá đói
giảm nghèo ở các vùng miền của đất nước.
Thứ ba, hệ thống chính sách, pháp luật
về thủy sản đã có tác động đến việc thu hút
một lực lượng lớn lao động tham gia vào các
hoạt động thủy sản, làm giảm sức ép về tình
trạng thiếu việc làm trên phạm vi cả nước.
Luật Thủy sản tạo khung pháp lý thuận
lợi phát triển các hoạt động thủy sản tác động
đến thu hút lao động của ngành thủy sản,
tăng liên tục từ 1,32 triệu người (năm 2003)
lên khoảng 1,63 triệu người năm 2007 và
trên 04 triệu lao động năm 2013. Như vậy,
từ năm 2003 đến năm 2007, tỷ lệ tăng bình
quân số lao động thường xuyên của ngành
thủy sản từ 4-5%/năm1.
Tỷ trọng lao động ngành thủy sản
trong tổng số lao động của nền kinh tế quốc
dân có xu hướng tăng lên, từ 2,63 % (năm
2000), lên 3,27% (năm 2003) và lên 3,7%
(năm 2007)2.
Thứ tư, hệ thống chính sách, pháp luật
về thủy sản đã góp phần bảo vệ chủ quyền,
CHÑNH SAÁCH
30 Số 20(348) T10/2017
đảm bảo an ninh quốc phòng ở vùng sâu,
vùng xa, đặc biệt là ở vùng biển và hải đảo.
Ngành thủy sản luôn giữ vai trò quan
trọng trong bảo vệ an ninh, chủ quyền trên
biển, ổn định xã hội và phát triển kinh tế các
vùng ven biển, hải đảo, góp phần thực hiện
chiến lược quốc phòng toàn dân và an ninh
nhân dân. Triển khai thực hiện Nghị định
số 67/2014/NĐ-CP ngày 07/7/2014 về một
số chính sách phát triển thủy sản và Nghị
định số 89/2015/NĐ-CP ngày 07/10/2015
sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định
số 67/2014/NĐ-CP, số tàu hiện diện trên các
vùng biển đã tăng mạnh, Nhà nước đã hỗ
trợ trên 2,7 nghìn tỷ đồng, ngư dân bỏ ra
khoảng 45 nghìn tỷ đồng để đóng 9.000 tàu;
đã hỗ trợ cho ngư dân về bảo hiểm, hỗ trợ
3 Tổng cục Thủy sản (2016), Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch năm 2015, Phương hướng nhiệm vụ, giải pháp chủ
yếu thực hiện kế hoạch năm 2016, Hội nghị Tổng kết năm 2015 và triển khai Kế hoạch năm 2016, Kế hoạch 5 năm
2016 - 2020 ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn, Hà Nội, ngày 05/1/2016, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn.
2.329 máy thông tin liên lạc trên tàu, thành
lập 4.400 tổ/đội khai thác trên biển3. Việc gia
tăng số lượng tàu lớn đánh bắt xa bờ không
chỉ nhằm khai thác các tiềm năng mới, cung
cấp nguyên liệu cho chế biến mà còn góp
phần bảo đảm quốc phòng, an ninh trên các
vùng biển của nước ta.
Thứ năm, hệ thống pháp luật về thuỷ
sản đã có tác động đến việc nâng cao ý thức
chấp hành pháp luật của người dân.
Sau 12 năm triển khai thực hiện Luật
Thủy sản và các văn bản hướng dẫn thi hành,
người dân nuôi trồng, khai thác thủy sản đã
phần nào có chuyển biến tốt hơn về ý thức
chấp hành pháp luật so với trước đây. Một
số hộ nuôi thủy sản đã có ý thức trong việc
xử lý nước trước khi xả thải ra môi trường;
Nguồn: Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (2016)
Biểu đồ 1. Sản lượng thủy sản Việt Nam từ năm 1995 - 2015
CHÑNH SAÁCH
31Số 20(348) T10/2017
không sử dụng hoá chất, kháng sinh cấm sử
dụng, tự giác chấp hành nghiêm thủ tục đăng
ký kinh doanh các ngành nghề thủy sản. Ở
nhiều địa phương, người dân có ý thức hơn
trong việc đánh bắt hải sản, đặc biệt đánh bắt
hải sản ven bờ, như giảm các hình thức đánh
bắt mang tính huỷ diệt (dùng xung điện, chất
nổ, khai thác các đối tượng cá nhỏ, cá đang
thời kỳ sinh sản), chuyển đổi từ lối đánh
bắt tự nhiên sang nuôi trồng có kế hoạch, kết
hợp bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản.
1.2 Một số tồn tại, hạn chế trong hệ
thống chính sách, pháp luật về thủy sản
1.2.1 Đối với bảo vệ và phát triển
nguồn lợi thủy sản
Thứ nhất, cho đến nay việc đánh giá
tổng thể nguồn lợi thủy sản, định kỳ điều tra
trữ lượng nguồn lợi thủy sản, xây dựng bản
đồ nguồn lợi thủy sản chưa được cơ quan
có trách nhiệm triển khai thực hiện thường
xuyên, bài bản. Việc điều tra, đánh giá nguồn
lợi thủy sản mới chỉ được quan tâm và tiến
hành ở trên biển mà chưa được thực hiện tại
các vùng nước nội địa. Do vậy, chưa có số
liệu đủ tin cậy về trữ lượng nguồn lợi thủy
sản để cấp giấy phép khai thác, cũng như
hoạch định các chính sách phát triển khai
thác thủy sản.
Thứ hai, biện pháp bảo tồn, bảo vệ,
tái tạo nguồn lợi thủy sản (cấm khai thác,
phương thức khai thác) chưa được áp dụng
đồng bộ, có hiệu quả tại các địa phương.
Tình trạng ngư dân khai thác các loài cấm,
loài thủy sinh quý hiếm có nguy cơ tuyệt
chủng như san hô, cá heo, rùa biển... vẫn
xảy ra.
Thứ ba, hầu hết các địa phương chưa
bố trí kinh phí thỏa đáng cho công tác tái tạo
nguồn lợi thủy sản. Công tác tái tạo nguồn
lợi thủy sản tại nhiều địa phương chưa được
quan tâm đúng mức, chưa được thực hiện
định kỳ và thường xuyên. Việc bảo vệ, kiểm
soát sau khi thả giống chưa được thực hiện
ảnh hưởng đến hiệu quả của việc tái tạo
nguồn lợi thủy sản.
Nguyên nhân của những hạn chế nói
trên là do:
Một là, nguồn kinh phí và năng lực
điều tra, đánh giá nguồn lợi thủy sản còn hạn
chế. Nhận thức về công tác bảo vệ, bảo tồn
nguồn lợi thủy sản của ngư dân còn thấp;
đời sống ngư dân còn nghèo; lực lượng kiểm
tra, kiểm soát còn mỏng; việc bố trí kinh phí
và đầu tư cho hoạt động thanh tra chuyên
ngành trong lĩnh vực thủy sản còn hạn chế;
chế tài xử lý chưa đầy đủ; công tác kiểm tra,
kiểm soát, xử lý vi phạm chưa được thực
hiện triệt để.
Hai là, Luật Thủy sản năm 2003 còn
tồn tại một số bất cập liên quan đến quy định
về bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản:
(i) Quy định về khu bảo tồn biển, khu bảo
tồn vùng nước nội địa đang có sự mâu thuẫn,
chồng chéo về thẩm quyền và nội dung quản
lý với Luật Đa dạng sinh học; (ii) Chưa quy
định NSNN cấp để hình thành Quỹ tái tạo
nguồn lợi thủy sản. Các nội dung cụ thể về
kinh phí hoạt động của Quỹ giao Chính phủ
quy định. Tuy nhiên, Nghị định số 27/2005/
NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
Thủy sản không quy định NSNN cấp ban
đầu cho Quỹ cũng như một số nội dung khác
mà trong Luật giao Chính phủ hướng dẫn
thực hiện. Mặc dù Thủ tướng Chính phủ đã
ban hành Quyết định số 29/2007/QĐ-TTg
thành lập và quy định về tổ chức, hoạt động
của Quỹ tái tạo nguồn lợi thủy sản Việt Nam.
Tuy nhiên, cho đến nay Quỹ này chưa đi vào
hoạt động.
1.2.2 Đối với khai thác thủy sản
Thứ nhất, việc thực hiện các quy định
về báo cáo khai thác và ghi nhật ký khai thác
trên thực tế còn mang tính hình thức và đối
phó, chưa mang lại hiệu quả thiết thực. Các
số liệu thống kê được qua việc ghi nhật ký
CHÑNH SAÁCH
32 Số 20(348) T10/2017
khai thác và báo cáo khai thác chưa thể làm
căn cứ tin cậy cho việc thống kê sản lượng
khai thác thủy sản, xác định ngư trường khai
thác và đánh giá hiện trạng của nguồn lợi
thủy sản.
Thứ hai, việc cấp Giấy phép khai thác
thủy sản cho ngư dân đã được các tỉnh thực
hiện nhưng chưa thực sự mang lại lợi ích
quản lý như mong đợi, chưa kiểm soát được
hạn mức cấp phép khai thác cho từng vùng
biển, từng đội tàu, dẫn đến có khả năng dư
thừa năng lực khai thác thủy sản, đặc biệt
là khai thác ở vùng biển ven bờ. Số lượng
giấy phép khai thác thủy sản được cấp hiện
nay chưa xuất phát từ thực trạng nguồn lợi
thủy sản và quy hoạch phát triển đội tàu mà
mới chỉ đáp ứng yêu cầu của người dân. Mặt
khác, do tổ chức và năng lực hoạt động của
thanh tra chuyên ngành thủy sản bị hạn chế
nên chưa quản lý được tàu cá có hoạt động
đúng như nội dung ghi trong Giấy phép khai
thác hay không dẫn tới việc quản lý nghề và
vùng khai thác cũng bị hạn chế theo.
Thứ ba, việc cấp văn bản chấp thuận
đóng mới, cải hoán tàu cá theo quy định của
Luật Thủy sản chưa đạt hiệu quả như mong
đợi, hầu hết các địa phương vẫn triển khai
thực hiện mang tính hình thức bởi còn thiếu
các căn cứ để thực hiện thủ tục này.
Thứ tư, khai thác thủy sản xa bờ đã
được quan tâm phát triển từ rất lâu. Tuy
nhiên, đầu tư phát triển nghề khai thác xa
bờ không những đòi hỏi có kinh phí lớn để
trang bị các thiết bị khai thác hiện đại, đảm
bảo an toàn cho người và tàu cá mà còn đòi
hỏi ngư dân phải am hiểu ngư trường, kỹ
thuật khai thác và khả năng áp dụng khoa
học công nghệ. Trong khi đó hoạt động
khuyến ngư trong khai thác thủy sản chưa
được quan tâm đúng mức, Nhà nước đã có
một số chính sách hỗ trợ dầu cho ngư dân đi
khai thác xa bờ nhưng hiệu quả khai thác xa
bờ còn nhiều hạn chế.
Thứ năm, khai thác thủy sản gần bờ đã
vượt quá giới hạn cho phép, nguồn lợi thủy
sản ven bờ đang giảm xuống và có nguy cơ
cạn kiệt. Tuy nhiên, khai thác nguồn lợi ven
bờ vẫn là hoạt động của rất nhiều ngư dân,
hộ ngư dân để kiếm sống, mưu sinh hàng
ngày. Bên cạnh đó, lực lượng tuần tra, kiểm
soát còn mỏng, kinh phí cấp cho lực lượng
này còn hạn nên công tác tuần tra, kiểm soát
không được tiến hành thường xuyên liên tục
dẫn đến tình trạng vi phạm chưa được ngăn
chặn kịp thời.
Thứ sáu, công tác quản lý vùng khai
thác còn hạn chế và là việc khó thực hiện,
có 18/28 tỉnh ven biển đã phân chia được
ranh giới trên biển với các tỉnh lân cận; 8/28
tỉnh mới thực hiện phân chia được một phần
ranh giới với các tỉnh lân cận và vẫn còn một
số tỉnh chưa thực hiện phân chia ranh giới
với các địa phương lân cận, đặc biệt là vùng
biển ven bờ như: Quảng Ninh, Thừa Thiên
Huế. Bên cạnh đó, ý thức của người dân về
khai thác theo vùng, tuyến chưa cao. Nhiều
tàu khai thác xa bờ vẫn đánh bắt tại vùng
biển ven bờ và vùng lộng.
Nguyên nhân của những hạn chế nói
trên là do:
Một là, các quy định quản lý về khai
thác thủy sản chưa thực sự phù hợp với hiện
trạng nghề cá quy mô nhỏ của Việt Nam.
Hai là, theo quy định của Luật Thủy
sản năm 2003, việc cấp phép mới chỉ dừng
lại ở khối tàu thực hiện hoạt động khai thác
thủy sản. Tuy nhiên, trên thực tế, các cơ
quan có thẩm quyền vẫn cấp Giấy phép khai
thác thủy sản đối với tàu chuyên hoạt động
dịch vụ hậu cần nghề cá. Do đó, cần bổ sung
quy định đối với việc cấp phép cho các tàu
thực hiện các hoạt động động dịch vụ hậu
cần nghề cá.
CHÑNH SAÁCH
33Số 20(348) T10/2017
Ba là, về quản lý các vùng khai thác,
Luật Biển Việt Nam đưa ra các quy định về
vùng biển Việt Nam bao gồm nội thủy, lãnh
hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa thuộc chủ quyền,
quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia
của Việt Nam được xác định theo pháp luật
Việt Nam, điều ước quốc tế về biên giới lãnh
thổ mà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là
thành viên và phù hợp với Công ước của Liên
hiệp quốc về Luật Biển năm 1982 (khoản 1
Điều 3). Trong khi đó, Luật Thủy sản năm
2003 cũng như Nghị định 33/2010/NĐ-CP
của Chính phủ về quản lý khai thác thủy sản
của tàu cá trong vùng biển Việt Nam lại đưa
ra các quy định quản lý tàu cá, khai thác và
phân vùng khai thác theo vùng biển ven bờ,
vùng lộng, vùng khơi, vùng biển cả.
Về lý thuyết, việc đưa ra các chuẩn
khác nhau tùy thuộc vào yêu cầu của cơ quan
quản lý, song với việc đưa ra nhiều chuẩn
như nói trên khó có thể tạo ra mối liên kết
giữa các lĩnh vực quản lý với nhau nhất là
trong thời điểm hiện nay, hoạt động thủy sản
luôn gắn với hoạt động bảo vệ chủ quyền
quốc gia, đồng thời gây ra những phức tạp
trong công tác quản lý thống kê. Các chuẩn
này còn không đồng nhất với các thống kê
nghề cá của Tổ chức Lương thực và Nông
nghiệp Liên hiệp quốc và các nước trong
khu vực. Đây là vấn đề cần xem xét vì khó
có thể hội nhập với nghề cá các nước.
Bốn là, các quy định về khai thác thủy
sản trong Luật Thủy sản năm 2003 chưa
thực sự phù hợp với việc khai thác thủy sản
trên các vùng nước nội đồng. Do đó, trong
thời gian qua việc quản lý đối với hoạt động
thủy sản trong nội đồng chưa được các cơ
quan quản lý nhà nước về thủy sản từ trung
ương đến địa phương chú trọng và có đầu tư
phù hợp.
1.2.3 Nuôi trồng thủy sản
Thứ nhất, vấn đề quy hoạch nuôi trồng
thủy sản còn chậm triển khai, mặc dù đã có
quy hoạch tổng thể nhưng nhiều địa phương
chưa xây dựng quy hoạch hoặc có nhưng
thiếu tính khả thi trên thực tiễn. Việc quản
lý quy hoạch, triển khai thực hiện theo quy
hoạch ở một số vùng, một số nơi còn nhiều
bất cập, đặc biệt những vùng phát triển nuôi
trồng thủy sản trọng điểm, những khu vực
sản xuất giống tập trung chưa được quan
tâm đúng mức.
Thứ hai, một số đối tượng nuôi chủ
lực như tôm thẻ, cá tra có thị trường, nghề
nuôi phát triển nhanh, quá mức dẫn tới phát
triển tự phát, mạnh ai nấy làm, không theo
quy hoạch nên đã nảy sinh nhiều vấn đề tồn
tại, bất cập về môi trường và dịch bệnh cũng
như không đảm bảo các yếu tố về giống có
chất lượng, lộn xộn trong quản lý cung ứng
thức ăn và vật tư, hóa chất, chất xử lý cải
tạo môi trường, phòng, trừ bệnh thủy sản, thị
trường tiêu thụ cạnh tranh thiếu lành mạnh...
Thứ ba, việc đầu tư cơ sở hạ tầng về
giao thông, thủy lợi tại các vùng nuôi trồng
thủy sản tập trung tuy đã có các cơ chế, chính
sách đầu tư, hỗ trợ phát triển song triển khai
trên thực tế còn chậm do thiếu vốn, đầu tư
thủy lợi phục vụ nuôi trồng thủy sản chưa
có gắn kết chặt chẽ, hiệu quả thấp. Bên cạnh
đó ý thức chấp hành pháp luật của người dân
nuôi trồng thủy sản chưa cao, còn tự phát,
hình thức nuôi manh mún, nhỏ lẻ, đầu tư
không theo quy hoạch, thiết kế ao nuôi thiếu
đồng bộ, do đó khó kiểm soát được dịch bệnh
và nguy cơ gây ô nhiễm môi trường.
Thứ tư, Luật Thủy sản đã có quy định
về mặt nước biển để nuôi trồng thủy sản.
Tuy nhiên, cho đến nay người nuôi trồng
thủy sản trên biển chưa được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng mặt nước biển để nuôi
trồng thủy sản (trừ người nuôi trồng thủy sản
CHÑNH SAÁCH
34 Số 20(348) T10/2017
tham gia mô hình thí điểm tại tỉnh Quảng
Ninh), tình trạng áp dụng các quy định này
ở mỗi địa phương ven biển trong cả nước có
sự khác nhau.
Nguyên nhân của tình trạng trên là do:
Một là, về quy hoạch nuôi trồng thủy
sản, Luật Thủy sản năm 2003 mới chỉ quy
định chung về nguyên tắc và thẩm quyền
xây dựng quy hoạch phát triển nuôi trồng
thủy sản; chưa phân định rõ về thẩm quyền
lập, xét duyệt và phê duyệt quy hoạch của
các cơ quan; chưa quy định căn cứ, điều kiện
và thẩm quyền điều chỉnh, thay đổi, bổ sung
quy hoạch phát triển nuôi trồng thủy sản.
Hai là, Luật chưa chỉ rõ cơ quan nào
giúp việc cho UBND cấp tỉnh, cấp huyện
trong việc thực hiện giao, cho thuê mặt
nước biển để nuôi trồng thủy sản. Trình tự
cụ thể của việc giao, cho thuê mặt nước biển
để nuôi trồng thủy sản cũng chưa được quy
định cụ thể mà chỉ đang vận dụng từ quy
định của pháp luật về đất đai.
Luật cũng mới chỉ quy định thời gian
tối đa để giao, cho thuê mặt nước biển để
nuôi trồng thủy sản, không quy định thời
gian tối thiểu. Điều này đã xảy ra trường
hợp các địa phương có thể áp dụng tuỳ tiện,
có thể là 3 năm hoặc 5 năm, trong khi có
những loài thủy sản phải nuôi 2 năm mới
được thu hoạch, như vậy chưa đảm bảo cho
người được giao, được thuê có điều kiện đầu
tư xây dựng cơ sở hạ tầng, đủ thời gian để
thu hồi vốn đầu tư và có lãi trên diện tích
mặt nước biển được giao, cho thuê.
Ba là, Luật chưa có quy định về chính
sách hỗ trợ rủi ro trong nuôi trồng thủy sản.
1.2.4 Đối với tàu cá và cơ sở dịch vụ
hoạt động thủy sản
Đối với quản lý tàu cá, việc tổ chức
thực hiện công tác đăng kiểm tàu cá gặp
không ít khó khăn vì nhiều địa phương đến
nay chưa đủ điều kiện để tổ chức thực hiện
việc phân cấp này. Ngoài ra, hiện nay công
tác đăng kiểm tàu cá vẫn mang tính chất hình
thức chưa đảm bảo chất lượng như mong đợi
của người dân và các cơ quan quản lý. Việc
giám sát hoạt động của tàu cá vẫn còn nhiều
khó khăn trong triển khai thực hiện, nhất là
vấn đề tổ chức bộ máy, biên chế và thống
nhất trong phân công tổ chức thực hiện ở địa
phương. Một số quy phạm pháp luật tuy cần
thiết song lại chưa có đủ các điều kiện triển
khai trên thực tế nên chưa được áp dụng
hoặc tính khả thi chưa cao như quy định về
phê duyệt hồ sơ thiết kế tàu cá, quy định về
đánh dấu tàu, đánh dấu ngư cụ khai thác.
Đối với cơ sở dịch vụ hoạt động thủy
sản, tổ chức và hoạt động của cảng cá chưa
được thống nhất trên toàn quốc, dẫn đến tình
trạng mỗi địa phương thực hiện một mô hình
tổ chức và hoạt động khác nhau, có nơi Ban
quản lý cảng cá trực thuộc UBND, có nơi
lại thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn. Điều này cũng gây khó khăn cho cơ
quan quản lý ở Trung ương. Vấn đề xã hội
hoá công tác đầu tư, quản lý, khai thác cảng
cá còn thiếu cơ sở pháp lý và điều kiện triển
khai thực hiện. Việc triển khai xây dựng các
tiêu chuẩn, quy chuẩn về cảng cá, khu neo
đậu tránh trú bão còn chậm dẫn đến tình
trạng thiếu căn cứ khoa học trong việc triển
khai đầu tư xây dựng. Một số cảng cá, khu
neo đậu tránh trú bão của tàu cá được đầu tư
xây dựng nhưng khi hoạt động chưa đạt hiệu
quả như mong đợi.
Nguyên nhân của tình trạng trên là do:
Một là, kinh phí đầu tư cho công tác
đăng kiểm tàu cá chưa thoả đáng, các trang
thiết bị phục vụ cho công tác đăng kiểm còn
rất sơ sài, nguồn nhân lực tổ chức thực hiện
đăng kiểm tàu cá còn hạn chế về số lượng và
năng lực thực hiện ở cả trung ương và địa
phương.
CHÑNH SAÁCH
35Số 20(348) T10/2017
Hai là, Luật Thủy sản năm 2003 còn
một số bật cập trong quy định về quản lý tàu
cá và cơ sở dịch vụ hoạt động thủy sản.
Về quản lý tàu cá, Luật chưa có khái
niệm rõ ràng về tàu cá, gây khó khăn trong
quá trình quản lý và xây dựng các văn bản
hướng dẫn. Trong Luật quy định cấu trúc
nổi dùng trong nuôi trồng thủy sản được coi
là tàu cá và phải thực hiện chế độ quản lý
như tàu cá. Có quá nhiều chỉ số quản lý liên
quan đến tàu cá trong các quy phạm pháp
luật không đồng nhất, ví dụ như cấp Giấy
phép khai thác thì căn cứ vào trọng tải tàu
nhưng khi phân cấp công tác đăng kiểm
tàu cá lại căn cứ vào đường nước thiết kế.
Điều kiện để thực hiện đăng kiểm tàu cá
lại căn cứ vào cả hai yếu tố là công suất và
đường nước thiết kế; các chuẩn 15CV liên
quan đến bằng thuyền trưởng, máy trưởng,
chuẩn 90CV liên quan đến tàu cá xa bờ; các
chuẩn 30CV liên quan đến các tàu thuộc diện
cấm và hạn chế phát triển; các chuẩn 40CV,
250CV, 400CV liên quan đến các loại bằng
cấp thuyền trưởng, máy trưởng. Việc phân
cấp thẩm quyền đăng ký tàu cá lại căn cứ
vào chủ sở hữu tàu cá và theo phạm vi địa
giới hành chính. Những bất cập này đã gây
khó khăn trong quá trình quản lý và phân cấp
quản lý tàu cá. Do đó, cần thống nhất về tiêu
chí để quản lý tàu cá trong đăng ký, đăng
kiểm, cấp phép khai thác và phân cấp quản
lý tàu cá giữa trung ương và địa phương.
Việc đưa ra các chuẩn khác nhau để
quản lý tàu cá khó có thể tạo ra mối liên kết
trong các lĩnh vực quản lý, gây ra những
phức tạp trong công tác quản lý thống kê.
Các chuẩn này còn không đồng nhất với
các thống kê nghề cá của FAO và các nước
trong khu vực. Đây là vấn đề quan trọng cần
xem xét vì rất khó có thể hội nhập với nước
ngoài.
Về cảng cá, khu neo đậu tránh trú bão
tàu cá, Luật Thủy sản năm 2003 mới quy
định chung về nội dung này. Luật chưa điều
chỉnh các nội dung như công bố cảng cá,
phân loại cảng cá, vai trò vị trí của cảng cá,
xã hội hoá đầu tư, khai thác cảng cá, quản
lý tàu cá nước ngoài vào cảng cá Việt Nam.
2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ
thống chính sách, pháp luật về thủy sản
Thứ nhất, cần xây dựng hoàn thiện hệ
thống pháp luật về thủy sản, trong đó trước
mắt tập trung xây dựng Luật Thủy sản (sửa
đổi) theo đúng tiến độ và đảm bảo phù hợp
với thực tiễn và xu hướng phát triển của
ngành thủy sản. Cụ thể, cần sửa đổi Luật
Thủy sản năm 2003 theo hướng:
(i) Về bảo vệ và phát triển nguồn lợi
thủy sản, cần sửa đổi, bổ sung quy định về
nguồn hình thành Quỹ tái tạo nguồn lợi thuỷ
sản. Xác định rõ nguồn cấp ban đầu của
NSNN cho Quỹ tái tạo nguồn lợi thủy sản.
Sửa đổi quy định về khu bảo tồn biển, khu
bảo tồn vùng nước nội địa theo hướng quy
định rõ cách thức quản lý, tiêu chí quản lý,
phân cấp quản lý. Phân định rõ thẩm quyền
quản lý đối với khu bảo tồn vùng nước nội
địa và kiểm soát các loài thủy sinh vật ngoại
lai của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn với Bộ Tài nguyên và Môi trường.
(ii) Về khai thác thủy sản, bổ sung quy
định quản lý đối với một số nghề khai thác
thủy sản không sử dụng tàu cá; quy định về
vùng khai thác, quản lý nghề khai thác. Sửa
đổi quy định về tiêu chí cấp Giấy phép khai
thác thủy sản đảm bảo phù hợp với tiêu chí
đăng ký và đăng kiểm tàu cá. Sửa đổi quy
định về đăng ký kinh doanh để phù hợp với
Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp.
(iii) Về nuôi trồng thủy sản, bổ sung
quy định về quản lý vật tư đầu vào trong nuôi
trồng thủy sản (thức ăn thủy sản, chất xử lý
CHÑNH SAÁCH
36 Số 20(348) T10/2017
cải tạo môi trường trong nuôi trồng thủy sản,
giống thủy sản...) đảm bảo phù hợp với Luật
Đầu tư và việc quản lý nuôi trồng thủy sản
theo chuỗi giá trị. Sửa đổi các trường hợp
Nhà nước thu hồi mặt nước biển để nuôi
trồng thủy sản, một số quy định về thời hạn
giao, cho thuê mặt nước biển cho phù hợp
với Luật Đất đai. Bổ sung quy định xác định
rõ thẩm quyền của các tổ chức thuộc ngành
nông nghiệp và phát triển nông thôn trong
quản lý nhà nước về mặt nước biển để nuôi
trồng thủy sản, tránh chồng chéo với trách
nhiệm, thẩm quyền của ngành tài nguyên và
môi trường trong quản lý tổng hợp tài nguyên
biển. Sửa đổi, làm rõ nội hàm một số thuật
ngữ cho phù hợp với Luật Tiêu chuẩn quy
chuẩn kỹ thuật, Luật Chất lượng sản phẩm
hàng hóa như: tiêu chuẩn Việt Nam, tiêu
chuẩn ngành, thú y thủy sản, thuốc thú y
Bổ sung quy định về quan trắc cảnh báo
môi trường trong nuôi trồng thủy sản; quy
định về việc thừa nhận lẫn nhau về các tiêu
chuẩn trong nuôi trồng thủy sản; quy định
về quản lý bè cá dùng trong nuôi trồng
thủy sản.
(iv) Về tàu cá và dịch vụ hoạt động thủy
sản, bổ sung một điều quy định về Hệ thống
thông tin quản lý tàu cá. Sửa đổi quy định về
thủ tục hành chính trong phê duyệt hồ sơ thiết
kế, đóng mới, cải hoán tàu cá; quy định tàu
cá đóng mới, cải hoán theo mẫu truyền thống
không bắt buộc có hồ sơ thiết kế, nhưng bắt
buộc phải có hồ sơ hoàn công đảm bảo cải
cách thủ tục hành chính. Bổ sung quy định
quản lý đối với các cơ sở đóng mới, cải hoán
tàu cá; định hướng phát triển tàu cá và xử lý
đối với các tàu cá nhỏ để phát triển nghề cá
hiện đại; quản lý đối với các loại vật tư dùng
trong khai thác thủy sản. Sửa đổi quy định
về cảng cá, bến cá, khu neo đậu tránh trú bão
cho tàu cá theo hướng quy định cụ thể về cơ
chế quản lý, tổ chức quản lý của cảng cá, bến
cá, khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá.
(v) Bổ sung quy định về đồng quản
lý nghề cá trong hoạt động thủy sản nhằm
phát huy tính hiệu quả của hình thức quản lý
này, nâng cao ý thức, trách nhiệm của người
dân trong hoạt động thủy sản. Theo đó, các
quy định về mô hình, cách thức tổ chức hoạt
động đồng quản lý, cơ quan có thẩm quyền
thành lập, kinh phí hoạt động, quyền hạn và
trách nhiệm của những người tham gia hoạt
động đồng quản lý và đặc biệt là vấn đề chia
sẻ lợi ích trong đồng quản lý cũng cần được
quy định cụ.
(vi) Về quản lý cấp phép khai thác
thủy sản theo hạn ngạch, Luật Thủy sản
(sửa đổi) cần giao trách nhiệm cụ thể cho cơ
quan có thẩm quyền quyết định hạn ngạch
đầu vào và điều tiết số lượng tàu được phép
khai thác dựa trên căn cứ khoa học đáng tin
cậy (dựa trên kết quả điều tra, đánh giá trữ
lượng nguồn lợi thủy sản trong vùng biển
Việt Nam và sự gia tăng phát triển về số
lượng tàu thuyền đánh bắt hải sản) để bảo vệ
và phát triển nguồn lợi thủy sản.
(vii) Về xã hội hóa công tác đăng kiểm
tàu cá: để thống nhất quản lý trong công tác
đăng kiểm tàu cá, nhằm thực hiện chuyên
môn hóa cao trong các hoạt động đăng kiểm
cũng như tạo điều kiện để đầu tư các nguồn
lực (nhân lực, vật lực, tài lực), huy động sự
tham gia của các tổ chức, cá nhân đầu tư cho
công tác đăng kiểm tàu cá, đảm bảo chất
lượng của hoạt động đăng kiểm, khắc phục
tình trạng “đăng kiểm hành chính” như hiện
nay, đề nghị bỏ nội dung về phân cấp đăng
kiểm trong các văn bản hiện hành, đồng
thời bổ sung quy định về xã hội hóa đăng
kiểm tàu cá, điều kiện và thủ tục công nhận
các đơn vị đăng kiểm khi tiến hành xã hội
hóa. Nội dung về xã hội hóa công tác đăng
kiểm tàu cá cần dựa trên những tổng kết từ
CHÑNH SAÁCH
37Số 20(348) T10/2017
đề án thí điểm đăng kiểm tàu cá theo vùng
trọng điểm; đề án xã hội hoá công tác đăng
kiểm tàu cá do Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn triển khai thực hiện để có những
quy định mang tính đột phá, tách bạch giữa
những hoạt động mang tính kỹ thuật theo
dịch vụ công với công tác quản lý nhà nước
về tàu cá.
(viii) Về kiểm ngư, cần thiết phải quy
định bổ sung về kiểm ngư tại dự án Luật
Thủy sản (sửa đổi) để thiết lập cơ sở pháp
lý cao nhất cho tổ chức và hoạt động của
Kiểm ngư Việt Nam nhằm tăng cường kiểm
tra, giám sát các hoạt động khai thác thủy
sản và bảo vệ nguồn lợi thủy sản. Đồng thời,
việc có lực lượng kiểm ngư với thẩm quyền
và trang thiết bị đủ mạnh và có cơ chế phối
hợp với các lực lượng khác sẽ góp phần tăng
cường sự hiện diện của các lực lượng chức
năng Việt Nam trên biển; góp phần đảm bảo
quốc phòng, an ninh, trật tự trên biển.
Thứ hai, cần kịp thời ban hành theo
thẩm quyền văn bản quy phạm pháp luật quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành những
nội dung sửa đổi mới trong Luật Thủy sản
như: kiểm ngư; phân cấp thẩm quyền quản
lý thủy sản cho địa phương; giao, cho thuê
mặt nước biển để nuôi trồng thủy sản; quản
lý tàu cá; quản lý chất lượng thủy sản; quản
lý nuôi trồng thủy sản theo hướng bền vững,
đảm bảo truy xuất nguồn gốc; quản lý khai
thác thủy sản nội đồng, cấp giấy phép khai
thác thủy sản...
Thứ ba, cần hoàn thiện tổ chức ngành
thủy sản, tiếp tục kiện toàn, nâng cao năng
lực hoạt động (nhân lực, cơ sở vật chất, kinh
phí hoạt động) cho Tổng cục Thủy sản và
các Chi cục chuyên ngành thủy sản tại địa
phương để thực hiện những thẩm quyền,
nhiệm vụ được phân cấp trong Luật Thủy
sản (sửa đổi). Rà soát, bổ sung hoàn thiện
chức năng nhiệm vụ, quy chế hoạt động, cơ
chế phối hợp của Tổng cục Thủy sản với
các Cục, Vụ thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn và các cơ quan có liên quan.
Chuyên môn hóa đội ngũ cán bộ làm công
tác thủy sản, tăng cường năng lực cán bộ
làm công tác thủy sản tại địa phương.
Thứ tư, tăng cường hợp tác quốc tế
về thủy sản để tận dụng tối đa các nguồn
lực, kinh nghiệm của các quốc gia và các tổ
chức quốc tế trong việc hoàn thiện hệ thống
pháp luật về thủy sản. Nghiên cứu các quy
định của luật pháp quốc tế về khai thác thủy
sản để nội luật hoá trong các quy định của
quốc gia. Khuyến khích các doanh nghiệp,
các Trường đại học, các Viện nghiên cứu
khoa học liên doanh, liên kết với các nhà
đầu tư nước ngoài để đầu tư phát triển thủy
sản, đặc biệt trong việc ứng dụng khoa học
công nghệ trong khai thác nuôi trồng và chế
biến thủy sản, sử dụng công nghệ định vị,
vệ tinh để quản lý hoạt động khai thác thủy
sản... Tăng cường và mở rộng hợp tác quốc
tế trong nghề cá, trước hết đối với các nước
trong khu vực ASEAN và các nước trong
khu vực Biển Đông. Đẩy mạnh việc đàm
phán, ký kết các thỏa thuận hợp tác nghề cá
song phương và đa phương với các nước,
các tổ chức quốc tế trong khu vực và trên
thế giới.
Thứ năm, trong quá trình hoàn thiện
hệ thống chính sách, pháp luật về kinh tế
biển, cần xem xét gắn mục tiêu phát triển
kinh tế biển với bảo đảm quốc phòng, an
ninh trên biển; có cơ chế phù hợp, đảm bảo
tăng cường hoạt động hợp tác quốc tế của
các lực lượng thực thi pháp luật trên biển
với các nước trong khu vực, đặc biệt những
quốc gia có biển liền kề nhằm đảm bảo an
ninh khu vực
CHÑNH SAÁCH
38 Số 20(348) T10/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_kien_nghi_nham_hoan_thien_chinh_sach_phap_luat_ve_thu.pdf