Các trường hợp chấn thương vùng khuỷu
khó kể trên có chung đặc điểm là chẩn đoán
không chính xác hoặc không đánh giá hết tổn
thương. Nguyên nhân do:
Trẻ em rất khó thăm khám khi sờ nắn hoặc
làm các cử động gây đau.
Không nắm vững giải phẫu học và các điểm
mốc X‐ Quang vùng khuỷu ở trẻ em.
Vùng khuỷu ở trẻ có 7 nhân sinh xương, các
nhân này xuất hiện theo từng lứa tuổi khác
nhau, nên các gãy xương ở vùng chưa cốt hóa
rất khó chẩn đoán và khó phát hiện trên phim X‐
quang thường qui.
CT‐ scan không có giá trị chẩn đoán trong
những tổn thương vùng sụn chưa cốt hóa.
Để chẩn đoán được những trường hợp
này, cần phải: Khám kỹ và khám nhiều lần,
nắm vững giải phẫu học, các điểm mốc X‐
quang và đặc biệt là nắm rõ sự hình thành và
xuất hiện của các nhân sinh xương vùng
khuỷu theo lứa tuổi.
6 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 460 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số trường hợp khó chẩn đoán trong chấn thương vùng khuỷu ở trẻ em tại bệnh viện Nhi Đồng‐Đồng Nai, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Chuyên Đề Ngoại Nhi 224
MỘT SỐ TRƯỜNG HỢP KHÓ CHẨN ĐOÁN TRONG CHẤN THƯƠNG
VÙNG KHUỶU Ở TRẺ EM TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG ‐ ĐỒNG NAI
Phạm Đông Đoài*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Nhằm góp phần chẩn đoán chính xác các tổn thương vùng khuỷu do chấn thương liên quan đến
nhân sinh xương ở trẻ em.
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả ca lâm sàng.
Kết quả: Các trường hợp kể trên có chẩn đoán ban đầu sai do không nắm rõ đặc điểm giải phẫu và X ‐
quang vùng khuỷu, do các nhân sinh xương ở vùng khuỷu xuất hiện ở những lứa tuổi khác nhau.
Kết luận: Chấn thương vùng khuỷu ở trẻ em có thể chẩn đoán sai và bỏ sót tổn thương. Để chẩn đoán
chính xác cần phải nắm vững đặc điểm giải phẫu, X‐ quang và sự hình thành các nhân sinh xương ở vùng
khuỷu trẻ em theo từng lứa tuổi, phối hợp với các triệu chứng lâm sàng, nghĩ tới và đi tìm các loại tổn thương
trên. Trong trường hợp lâm sàng và X ‐ quang không phù hợp hoặc không giải thích được tổn thương nghi ngờ
cần phải chụp MRI đánh giá.
Từ khóa: Chấn thương vùng khuỷu – nhân sinh xương – lồi cầu trong – chỏm quay – lồi cầu ngoài – mỏm
trên lồi cầu trong.
ABSTRACT
SOME DIFFICULT DIAGNOSTIC CASES IN ELBOW TRAUMA IN CHILDREN
Pham Dong Doai* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2013: 223 ‐ 228
Objectives: The objective of this study is to diagnose precisely the elbow injuries caused by trauma relates to
the ossification center.
Methods: Describe clinical case report.
Results: All cases with wrong diagnoses on account of unfamiliarity with anatomy characteristics and X‐
ray of elbow region, and of the ossification center appears in children of different ages.
Conclusions: The elbow trauma in children can be wrongly and inadequately diagnosed. Exact diagnoses
require the intimate anatomy characteristics, x‐ray, formation of the elbow ossification center in children of every
ages, symptoms and signs, considering and detecting those. When the symptoms and X‐ray images are not
suitable or can not account for the elbow trauma, we need to use an MRI scan.
Key words: Elbow fracture – ossification center – medial condyle – radial head – lateral condyle – medial
epicondyle.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Vào cuối thế kỷ XX, Sir Robert Jones nhắc lại
ý kiến về tổn thương vùng khuỷu ở trẻ em như
sau: “Người phẫu thuật viên vẫn gặp nhiều khó
khăn để chẩn đoán chính xác, có thể có những
sai sót trầm trọng trong tiên lượng và điều trị, và
sự lo lắng do phải đối mặt với những hạn chế về
mặt chức năng theo sau những tổn thương
quanh vùng khuỷu không được đánh giá đúng
mức” và những điều này vẫn đúng cho đến
ngày nay. Ở những vùng xương khác, kết quả
tốt có thể đạt được với việc điều trị tối thiểu,
* Bệnh viện Nhi Đồng Đồng Nai.
Tác giả liên lạc: Bs Phạm Đông Đoài, ĐT: 0913989239, Email: doaiphamdong@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Nhi 225
nhưng ở vùng khuỷu, điều trị cần phải tích cực
hơn nhiều để tránh những biến chứng. Một sự
hiểu biết giải phẫu và những điểm mốc X‐
quang là nền tảng cho việc lựa chọn phương
pháp điều trị thích hợp(3).
Việc tiếp cận chẩn đoán trẻ bị chấn thương
vùng khuỷu là rất khó khăn, các triệu chứng lâm
sàng khai thác được có thể là thiếu hoặc không
chính xác vì trẻ khó hoặc không tiếp xúc và ngay
cả hình ảnh X‐ quang, là phương tiện cận lâm
sàng chính để chẩn đoán tổn thương gãy xương
vùng khuỷu ở trẻ em, cũng không thể hiện hết
các tổn thương thực sự.
Vùng khuỷu ở trẻ em có 7 nhân sinh xương
(chỏm con, chỏm quay, mỏm trên lồi cầu trong,
ròng rọc, mỏm khuỷu, mỏm trên lồi cầu ngoài,
lồi củ quay), xuất hiện theo từng lứa tuổi khác
nhau, nên chỉ có thể thấy được trên phim X‐
quang qui ước theo từng giai đoạn tăng trưởng,
vì vậy rất khó để chẩn đoán những tổn thương
xương vùng khuỷu ở những lứa tuổi chưa hoặc
mới có hình ảnh nhân sinh xương trên X‐quang.
Trong thời gian 1 năm, tại Khoa Chấn
thương chỉnh hình – Bỏng, bệnh viện Nhi đồng
Đồng Nai, chúng tôi đã gặp 5 trường hợp chấn
thương vùng khuỷu, chẩn đoán sai hoặc không
chính xác, xin trình bày dưới đây.
Mục tiêu nghiên cứu
Nhằm góp phần chẩn đoán chính xác các tổn
thương vùng khuỷu do chấn thương liên quan
đến nhân sinh xương ở trẻ em.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Các ca chấn thương vùng khuỷu nhập khoa
Chấn thương chỉnh hình – Bỏng Bệnh viện Nhi
Đồng Đồng Nai có chẩn đoán ban đầu không
chính xác.
Phương pháp nghiên cứu
Báo cáo từng ca lâm sàng.
Ca Lâm Sàng
Trường hợp 1
Bé trai, 4 tuổi
Cách nhập viện 5 tuần, bé bị chấn thương
vùng khuỷu phải đến khám tại bệnh viện, khám
và chụp phim X‐quang không phát hiện tổn
thương xương, được chẩn đoán “chấn thương
phần mềm vùng khuỷu phải”, xử trí nẹp bột và
hẹn tái khám.
Tái khám sau 1 tuần, chụp X‐quang, không
phát hiện tổn thương gì thêm.
Tái khám sau 2 tuần, chụp X‐quang, phát
hiện có một vệt cản quang nhỏ ngay dưới da
mặt trong khuỷu, chẩn đoán chấn thương phần
mềm vùng khuỷu có viêm cơ cốt hóa, cho tập
vật lý trị liệu.
3 tuần sau, bé đến khám tại một bệnh viện
khác trong tỉnh, chẩn đoán “viêm cơ cốt hóa gây
cứng khớp khuỷu”, chuyển bệnh viện tuyến
trên.
4 tuần sau, bé đến khám tại bệnh viện tuyến
trên, chẩn đoán “hạn chế gập duỗi khuỷu phải”,
cho tập vật lý trị liệu.
5 tuần sau, bé khám lại tại bệnh viện tuyến
trên, chẩn đoán “gãy cũ mỏm trên ròng rọc
khuỷu phải”, hẹn hội chẩn.
6 tuần sau, bé khám lại tại bệnh viện Nhi
Đồng Nai, khám thấy khuỷu phải còn sưng, ấn
đau mặt trong khuỷu, hạn chế cử động gấp duỗi
(ROM 00 ‐ 540 ‐ 950), X‐quang: có mảnh gãy vùng
bên trong khuỷu, có dấu hiệu bán trật khớp
khuỷu. Chỉ định CT‐ scan, phát hiện có mảnh
gãy lớn vùng trong khuỷu di lệch xa, nhưng
không xác định được mảnh gãy từ đâu. Hội
chẩn khoa CTCH ‐ Bỏng và xin ý kiến khoa
Chỉnh hình nhi BV CTCH TPHCM, kết luận
chẩn đoán “gãy kín lồi cầu trong khuỷu phải di
lệch xa, mất vững khuỷu”. Bệnh nhân được lên
chương trình mổ, với tường trình phẫu thuật
“Vào thấy gãy khối lồi cầu trong, đường gãy
ngang qua ròng rọc, khối lồi cầu trong phần lớn
là sụn đầu xương, chỉ dính một phần mô xương
ở mặt gãy xa, khối lồi cầu trong di lệch ngửa
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Chuyên Đề Ngoại Nhi 226
hoàn toàn, mặt gãy lật vào trong 1800, bao quanh
nhiều mô xơ. Xử trí: làm sạch, nắn lại ổ gãy, kết
hợp xương bằng 1 kirschner và 1 vis xốp”.
Nhập viện Sau 5 tuần CT‐scan Sau mổ
Trường hợp 2
Bé gái, 40 tháng tuổi.
Nhập viện vì chấn thương vùng khuỷu trái
sau té chống tay do nghịch leo lên lưng chó.
Khám thấy: Sưng nhẹ vùng khuỷu, không dấu
bầm tím, hạn chế sấp ngửa (35°‐0‐45°), hạn chế
gấp duỗi (90°‐0‐45°), ấn đau chói vùng chỏm
quay. X‐quang thường qui lần 1, không phát
hiện tổn thương gì. X‐quang lần 2, chếch trong
và chếch ngoài 45°, phát hiện có một vệt cản
quang nhỏ (metaphysis) cạnh đầu trên xương
quay.
Dựa trên hình ảnh X‐quang có vệt cản
quang, đối chiếu khám lại lâm sàng, thấy dấu
hiệu chỏm quay trật ra ngoài.
Chẩn đoán: Gãy kín chỏm quay_phân loại
group I _ type C _ di lệch hoàn toàn.
Xử trí: Mổ nắn ổ gãy, kết hợp xương bằng 1
kim Kirschner nội tủy từ đầu dưới xương quay
Trước mổ Có vệt mờ chỏm quay Sau mổ Sau 1 tháng
Trường hợp 3
Bé trai, 10 tuổi.
Chạy chơi trong trường, té ngã chống tay,
chấn thương khuỷu phải. Khám thấy sưng đau
khuỷu, sờ ấn chỏm quay đau chói, mất vận
động sấp – ngửa & gấp duỗi khuỷu. X‐quang
trật chỏm quay ra sau.
Chẩn đoán: trật chỏm quay.
Hội chẩn khoa xem lại thấy hình ảnh X‐
quang: Trật chỏm quay ra sau, gãy bong sụn tiếp
hợp, gãy có mảnh sụn đầu xương kẹt khớp.
Chẩn đoán xác định: gãy trật chỏm quay có
mảnh rời kẹt khớp – Salter Harris III.
Xử trí: Mổ mở, nắn trật khớp, kết hợp
xương.
Tường trình giải phẫu: Đường mổ Kocher,
vào thấy chỏm quay gãy trật ra sau, chỏm quay
gãy phức tạp, gồm đường gãy ngang sụp tiếp
hợp (physis), phần chỏm (epiphysis) có thêm
một mảnh rời và bong một mảnh sụn mặt khớp.
Xử trí, sắp xếp lại các mảnh gãy, khâu đính lại
bằng chỉ vicryl, nắn trật chỏm quay, xuyên 1 kim
giữ.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Nhi 227
Mảnh kẹt khớp Gãy chỏm nhiều mảnh Sau mổ
Trường hợp 4
Bé gái, 3 tuổi, chạy té chống tay, chấn
thương sưng đau khuỷu phải. X‐quang: gãy lồi
cầu ngoài di lệch ngửa hoàn toàn.
Chẩn đoán: Gãy kín lồi cầu ngoài phải ‐
stage III. Do có 1 phim chụp chếch, tình cờ phát
hiện thêm tổn thương gãy mỏm khuỷu, nên
chẩn đoán xác định là gãy kín lồi cầu ngoài phải
– stage III + gãy kín mỏm khuỷu phải.
Xử trí: Mổ kết hợp xương lồi cầu ngoài bằng
2 kim Kirschner + kết hợp xương mỏm khuỷu 2
kim Kirschner.
X‐Quang qui ước Chụp chếch Sau mổ
Trường hợp 5
Bé trai, 12 tuổi.
Té xe đạp chống tay tư thế duỗi, chấn
thương vùng khuỷu trái. Khám: khuỷu sưng nề,
bầm tím mặt trong khuỷu, ấn đau chói mỏm
trên lồi cầu trong, không tổn thương thần kinh
trụ, ROM gấp – duỗi : 0°‐ 15° ‐ 90°, sấp – ngửa :
đau không đánh giá được. X‐quang khuỷu có
một mảnh xương vùng khe ròng rọc khớp
khuỷu.
Chẩn đoán lúc nhập viện: gãy kín lồi cầu
trong xương cánh tay. Chẩn đoán vào khoa: trật
khuỷu trái đã nắn. Sau đó, được đề nghị X‐
quang khuỷu bên lành và chụp CT‐ scan. Cuối
cùng, dựa trên các kết quả cận lâm sàng và lâm
sàng, được chẩn đoán xác định: gãy kín mỏm
trên ròng rọc kẹt khớp và gây bán trật khớp
khuỷu. Xử trí: nắn bảo tồn theo kỹ thuật Robert,
làm bật mảnh gãy ra khỏi ổ khớp và nắn trật
khớp khuỷu.
Bên tổn thương Bên lành CT‐scan Sau nắn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Chuyên Đề Ngoại Nhi 228
KẾT QUẢ
Trường hợp 1
Kết quả sau mổ: Mảnh gãy lồi cầu trong đã
được đặt đúng vị trí, các mốc giải phẫu tương
quan ở vùng khuỷu chở về bình thường, không
còn dấu hiệu bán trật khớp khuỷu. Tái khám sau
1 tuần, thấy bé hết đau vùng khuỷu phải, gấp
duỗi chủ động khá, tập vật lý trị liệu thêm.
Trường hợp 2
Kết quả: Sau mổ, kiểm tra thấy ổ gãy đã
được nắn tốt, kim xuyên nội tủy thẳng trục. Tái
khám mỗi tuần và rút đinh sau 1 tháng. Chưa
phát hiện biến chứng sớm.
Trường hợp 3
Kết quả: X‐quang sau mổ chỏm quay đã
được nắn đúng giải phẫu.
Tái khám sau 1 tháng, chỏm quay lành tốt,
phục hồi vận động sấp – ngửa tốt.
Trường hợp 4
Kết quả: Sau mổ X‐quang kiểm tra 2 ổ gãy
nắn và giữ tốt. Bé tái khám và rút đinh sau 1
tháng, khuỷu lành xương và phục hồi vận động.
Trường hợp 5
Kết quả X‐quang kiểm tra, mảnh gãy đã bật
ra khỏi khe khớp ròng rọc, trật khớp khuỷu đã
được nắn. Ca này điều trị bảo tồn thành công.
BÀN LUẬN
Trường hợp 1
Đây là một trường hợp gãy sụn xương vùng
khuỷu khó chẩn đoán, vì trẻ 4 tuổi chưa xuất
hiện nhân sinh xương lồi cầu trong ‐ ròng rọc
(trochlea) trên X‐quang, nên không chẩn đoán
được tổn thương lúc nhập viện.
Để chẩn đoán chính xác cần phải: khám lâm
sàng kỹ, và quan trọng là nghĩ đến loại tổn
thương này, tìm những bằng chứng lâm sàng và
cận lâm sàng khác để chẩn đoán xác định, ca
này chúng tôi đã chụp CT‐scan, nhưng cũng
không xác định được tổn thương, như vậy
phương tiện chẩn đoán tốt nhất có lẽ cần chụp
MRI cho trường hợp này.
Trường hợp 2
Đây cũng là một trường hợp gãy sụn xương
vùng khuỷu khó chẩn đoán, vì trẻ dưới 4 tuổi
nên chưa xuất hiện nhân sinh xương chỏm
quay. Tuy nhiên, ca này do có nghĩ tới tổn
thương loại này, kết hợp với những dấu hiệu
lâm sàng và X‐quang, nên đã được chẩn đoán
sớm và chính xác. Việc xử trí mổ mở là phù hợp,
nhưng cần phải theo dõi lâu dài mới đánh giá
được kết quả điều trị.
Trường hợp 3
Ca này chẩn đoán lần thứ 1 không phát hiện
tổn thương gãy chỏm quay. Chẩn đoán lần thứ 2
không đánh giá hết các tổn thương chỏm quay
và mặt gãy. Khi mổ mới thấy hết các tổn thương
của chỏm quay, đường gãy, mảnh gãy và mặt
khớp. Đặt vấn đề những tổn thương vùng
khuỷu và đầu xương ở trẻ em đôi khi phải dùng
MRI mới đánh giá hết các tổn thương.
Trường hợp 4
Đây là một trường hợp cũng khó chẩn đoán,
trẻ 3 tuổi mới có một nhân sinh xương chỏm
con, và bị gãy ở vùng này. Tuy nhiên, tổn
thương mỏm khuỷu phối hợp khó có thể phát
hiện được nếu không có một phim chụp chếch.
Một lần nữa cho thấy chẩn đoán chấn thương
vùng khuỷu ở trẻ em là rất khó khăn và có thể
không đánh giá hết tổn thương.
Trường hợp 5
Bệnh nhân này 12 tuổi, hầu như đã xuất hiện
đầy đủ các nhân sinh xương vùng khuỷu, tuy
vậy, tổn thương này vẫn khó chẩn đoán xác
định do không nắn vững giải phẫu và các mốc
xương liên quan ở vùng khuỷu của trẻ em. Ca
bệnh này do đã được xem xét kỹ lâm sàng và
các hình ảnh cận lâm sàng nên được chẩn đoán
chính xác, đầy đủ tổn thương và điều trị bảo tồn
thành công.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Nhi 229
KẾT LUẬN
Các trường hợp chấn thương vùng khuỷu
khó kể trên có chung đặc điểm là chẩn đoán
không chính xác hoặc không đánh giá hết tổn
thương. Nguyên nhân do:
Trẻ em rất khó thăm khám khi sờ nắn hoặc
làm các cử động gây đau.
Không nắm vững giải phẫu học và các điểm
mốc X‐ Quang vùng khuỷu ở trẻ em.
Vùng khuỷu ở trẻ có 7 nhân sinh xương, các
nhân này xuất hiện theo từng lứa tuổi khác
nhau, nên các gãy xương ở vùng chưa cốt hóa
rất khó chẩn đoán và khó phát hiện trên phim X‐
quang thường qui.
CT‐ scan không có giá trị chẩn đoán trong
những tổn thương vùng sụn chưa cốt hóa.
Để chẩn đoán được những trường hợp
này, cần phải: Khám kỹ và khám nhiều lần,
nắm vững giải phẫu học, các điểm mốc X‐
quang và đặc biệt là nắm rõ sự hình thành và
xuất hiện của các nhân sinh xương vùng
khuỷu theo lứa tuổi.
Điểm cuối cùng là khi gặp các trường hợp
chấn thương vùng khuỷu khó chẩn đoán, cần
phải nghĩ đến những loại tổn thương này và tìm
mọi bằng chứng để xác định và trong tương lai
các tổn thương khó này nên làm MRI để được
chẩn đoán và đánh giá chính xác tổn thương.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Canale, Beaty (2007). Campbellʹs Operative Orthopaedics, 11th
edition. 33: pp 1558 – 1579.
2. Forthman C, Henket M, Ring DC (2007). Elbow dislocation with
intra‐articular fracture: the results of operative treatment
without repair of the medial collateral ligament. J Hand Surg
Am. 32(8) :pp 1200‐9.
3. James HB, James RK. (2010). Rockwood and Wilkins Fractures
in Children, 7th Edition, 13: pp 475 ‐ 479.
4. Nguyễn Quang Long (1997). Đại cương về gãy xương. Bài
giảng bệnh học chấn thương chỉnh hình và phục hồi chức năng.
5. OʹDriscoll SW, Jupiter JB, Cohen MS, Ring D, McKee MD
(2003). Difficult elbow fractures: pearls and pitfalls. Instr Course
Lect;52: pp 113‐34.
6. Radomisli TE, Rosen AL. (1998). Controversies Regarding
Radial neck Fractures in Children. Clinical Orthopaedics &
Related Research. 1(353): pp 30 – 39.
7. Võ Thành Phụng (1997). Gãy xương trẻ em. Bài giảng bệnh học
chấn thương chỉnh hình và phục hồi chức năng.
Ngày nhận bài 31//05/2013.
Ngày phản biện nhận xét bài báo 21/07/2013.
Ngày bài báo được đăng 15–09‐2013
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_truong_hop_kho_chan_doan_trong_chan_thuong_vung_khuyu.pdf