Một là, cần khẳng định nghề luật sư là một
nghề kinh doanh dịch vụ và là một nghề kinh
doanh “đặc biệt” trong xã hội vì vậy tổ chức,
hoạt động nghề nghiệp của luật sư được quy
định để góp phần bảo vệ công lý, công bằng xã
hội và pháp chế xã hội chủ nghĩa. Do vậy, hoạt
động nghề nghiệp của TCHNLS cần được xây
dựng trên những nguyên tắc là một nghề
chuyên nghiệp, nghề tự do. TCHNLS cũng
được quảng cáo dịch vụ trên các phương tiện
thông tin đại chúng. Điều này góp phần hỗ trợ,
tạo điều kiện thuận lợi cho các luật sư hợp tác
với nhau để hình thành nên các TCHNLS ngày
càng lớn mạnh và chuyên nghiệp;
Hai là, cần tạo cơ sở pháp lý thuận lợi để
phát triển đội ngũ luật sư chuyên nghiệp để đáp
ứng nhu cầu về luật sư tham gia tố tụng, tư vấn
pháp luật cho cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của họ cũng như hỗ trợ
đắc lực cho hoạt động xét xử;
Ba là, từng bước chuẩn hóa các tiêu chuẩn
luật sư phù hợp với các yêu cầu, điều kiện cụ
thể của sự phát triển kinh tế, xã hội của đất
nước, nhưng phải bảo đảm đáp ứng các chuẩn
mực về mặt chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức
nghề nghiệp, phù hợp với điều kiện hành nghề
của luật sư và TCHNLS trong khu vực và trên
thế giới;
Bốn là, nâng cao vai trò tự quản của
TCHNLS, tổ chức xã hội-nghề nghiệp của luật
sư. Đồng thời, nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước đối với TCHNLS;
Năm là, từng bước hoàn thiện hệ thống văn
bản điều chỉnh nghề luật sư, tổ chức và hoạt
động của TCHNLS, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi
cho nghề luật sư Việt Nam phát triển, hội nhập
khu vực và quốc tế.
Mặt khác, cần thể chế hóa phương hướng
tăng cường hợp tác quốc tế về hoạt động giữa
TCHNLS Việt Nam với cá nhân, với TCHNLS
các nước trong khu vực và trên thế giới. Xây
dựng cơ chế pháp lý cho việc tham gia ngày
càng nhiều hơn của luật sư và TCHNLS trong
đàm phán thương mại quốc tế, giải quyết tranh
chấp có yếu tố nước ngoài và soạn thảo, ký kết
các hiệp định song phương và đa phương giữa
Việt Nam và các nước17.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 291 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số vấn đề lý luận về tổ chức hành nghề luật sư ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Soá chuyeân ñeà “Luaät sö vaø ñaïo ñöùc ngheà luaät sö”
21
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Trần Văn Công1
Tóm tắt: Nghề luật sư có những đặc thù riêng không giống như các nghề kinh doanh, thương
mại đó là không lấy điểm xuất phát và không dựa vào vốn mà dựa vào kiến thức pháp luật và
kỹ năng hành nghề của luật sư. Hoạt động nghề nghiệp của luật sư là hành nghề độc lập và chịu
trách nhiệm cá nhân về hoạt động nghề nghiệp của mình. Trong hành nghề luật sư, để hỗ trợ
giúp đỡ nhau, để nâng cao khả năng đáp ứng nhu cầu và uy tín trước khách hàng các luật sư
có thể hợp tác với nhau thành các tổ chức hành nghề luật sư nhất định. Nội dung bài viết phân
tích làm sáng tỏ một số khía cạnh, phương diện cơ bản về các vấn đề: (1) Khái niệm, đặc điểm
và chức năng của tổ chức hành nghề luật sư; (2) Địa vị pháp lý của tổ chức hành nghề luật sư
theo pháp luật Việt Nam hiện nay; (3) Định hướng chung nhằm hoàn thiện pháp luật về luật sư
và tổ chức hành nghề luật sư ở Việt Nam.
Từ khóa: Pháp luật về tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức hành nghề luật sư, địa vị pháp lý
của tổ chức hành nghề luật sư, định hướng hoàn thiện pháp luật về luật sư.
Nhận bài:18/07/2018; Hoàn thành biên tập: 25/07/2018; Duyệt đăng: 26/07/2018.
Abstract: Lawyer has its own unique characteristics, unlike business and commercial, it
does not have a starting point and does not base on capital, but on the legal knowledge and
practicing skills. The professional activity of a lawyer is to practice independently and take
personal responsibility. In the practice of lawyers, to assist each other, in order to improve their
ability to meet the need and prestige of clients, lawyers can cooperate with certain lawyer
organizations. The article is about the following issues: (1) The concepts, characteristics and
functions of the law-practising organization; (2) The legal position of law-practicing
organization in accordance with Vietnamese law at present; 3) General orientations for
improving the law on lawyers and law-practising organization in Vietnam.
Keywords: Law on law-practising organization, law-practising organization, legal position
of law-practising organization, orientations for improving law-practising organization.
Date of receipt:18/07/2018; Date of revision: 25/07/2018; Date of approval: 26/07/2018.
1. Khái niệm, đặc điểm, chức năng của
tổ chức hành nghề luật sư
1.1. Khái niệm tổ chức hành nghề luật sư
Có rất nhiều quan điểm cho rằng tổ chức
hành nghề luật sư (TCHNLS) là “một loại hình
tổ chức nghề nghiệp do Nhà nước cho phép
thành lập, được hình thành theo quy định của
pháp luật, để hỗ trợ Chính phủ trong lĩnh vực
hoạt động tư pháp. Muốn trở thành luật sư
thành viên của tổ chức hành nghề luật sư phải
đáp ứng đầy đủ những điều kiện do pháp luật
quy định. Hoạt động nghề nghiệp của các tổ
chức hành nghề luật sư đặt dưới sự quản lý của
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và của tổ
chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư”. Có
quan điểm khác lại cho rằng TCHNLS là: Tổ
chức hành nghề luật sư là loại hình doanh
nghiệp đặc thù, do một hoặc nhiều luật sư đủ
điều kiện theo luật định thành lập hoặc tham
gia thành lập và đăng ký hoạt động theo quy
định của pháp luật. Các ý kiến trên đều có các
hạt nhân hợp lý. Tuy nhiên, chưa phản ánh
được đầy đủ các yếu tố về bản chất của mô
hình TCHNLS bởi nếu cho rằng TCHNLS đặt
dưới sự quản lý của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền và tổ chức xã hội-nghề nghiệp của luật
1 Thạc sỹ, Nghiên cứu sinh, Khoa Luật, Học viện Khoa học xã hội.
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
22
sư mà chưa quan tâm đến hoạt động tự quản
của TCHNLS theo điều lệ công ty (trường hợp
TCHNLS là công ty luật) và theo quy ước tự
thỏa thuận của luật sư (trường hợp TCHNLS
là VPLS) là chưa bao hàm các quan hệ dân sự,
quan hệ kinh tế, dịch vụ, v.vphát sinh trong
quá trình hoạt động của TCHNLS hoặc chưa
bao quát được tính hỗ trợ pháp lý trong lĩnh
vực hoạt động tư pháp hay nói cách khác là
chưa bao hàm nhiệm vụ bổ trợ tư pháp của
TCHNLS mà đề cập sâu về chức năng kinh
doanh của TCHNLS theo ngành nghề kinh
doanh có điều kiện và mục tiêu là lợi nhuận
giống như các loại hình công ty kinh doanh
thông thường.
Kinh nghiệm nước ngoài cho thấy, nhiều
nước trên thế giới hiện đã và đang có xu hướng
đa dạng hóa hình thức tổ chức hành nghề luật
sư để đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
(Mỹ, Australia, Anh, Nhật Bản, Singapore, Thái
Lan). Ngoài hình thức công ty luật hợp danh
mang tính truyền thống, pháp luật của các nước
đó còn quy định về loại hình công ty luật trách
nhiệm hữu hạn2. Có thể thấy quy định pháp luật
của các nước phát triển hình thức tổ chức hành
nghề luật sư phổ biến là: Văn phòng luật sư và
hành nghề độc lập (sole practitioner/principal)
và Công ty luật hợp danh (partnership). Một số
nước như Pháp, Canada, Bỉ, Singapore, Thái
Lan, Đức hình thức hành nghề luật sư ở các
nước này tương đối đa dạng, không bắt buộc
phải hành nghề dưới một hình thức nhất định.
Bên cạnh hình thức hợp danh, luật sư có thể lựa
chọn các hình thức kinh doanh thông thường
như công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty liên
doanh. Ngoài ra, luật sư có thể hành nghề độc
lập mà không cần thành lập văn phòng hoặc
công ty. Các nước như Argentina, Hoa Kỳ, Anh,
Singapore, v.v..., còn cho phép luật sư làm thuê.
Khách hàng mà luật sư làm thuê, họ vừa là chủ
nhưng cũng là khách hàng duy nhất của luật sư.
Tuy nhiên, về mặt nghiệp vụ, luật sư làm thuê
vẫn hành nghề độc lập mà không bị chi phối bởi
người chủ.
Trong nghiên cứu khoa học pháp lý, việc
đưa ra khái niệm tổ chức hành nghề luật sư là
việc làm tương đối khó khăn và còn nhiều
tranh luận. Bài viết này đưa ra khái niệm tổ
chức hành nghề luật sư chỉ mang tính quy ước,
quy định chung để có một cách hiểu thống nhất
và được thể hiện trên các mặt như sau: (1) Tổ
chức hành nghề luật sư là một loại hình tổ chức
nghề nghiệp do Nhà nước cho phép thành lập,
được hình thành theo quy định của Chính phủ.
Muốn trở thành luật sư thành viên của tổ chức
hành nghề luật sư phải đáp ứng đầy đủ những
điều kiện theo pháp luật quy định. Hoạt động
nghề nghiệp của các tổ chức hành nghề luật sư
đặt dưới sự quản lý của các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền và tổ chức xã hội - nghề nghiệp
của luật sư; (2) Tổ chức hành nghề luật sư là
một bộ phận của tổ chức xã hội- nghề nghiệp
của luật sư được thành lập để đại diện, bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp cho luật sư, giám sát
việc tuân theo pháp luật, quy tắc đạo đức và
ứng xử nghề nghiệp của luật sư, thực hiện quản
lý hành nghề luật sư theo quy định của pháp
luật; (3) Hoạt động tự quản của tổ chức hành
nghề luật sư là hoạt động nhân danh chính tổ
chức của mình để tham gia quản lý luật sư.
Trong một số trường hợp do pháp luật quy
định, tổ chức hành nghề luật sư hoạt động nhân
danh và đại diện của luật sư trong tổ chức hành
nghề luật sư của mình. Nhà nước thừa nhận và
bảo hộ sự tồn tại của tổ chức xã hội - nghề
nghiệp của luật sư và bảo hộ cho tổ chức hành
nghề luật sư bằng việc cho phép tổ chức hành
nghề luật sư được thành lập và quy định quyền
và nghĩa vụ pháp lý của tổ chức này.
Từ những phân tích trên đây, tác giả đưa ra
khái niệm TCHNLS là: “Mô hình tổ chức
hoạt động nghề nghiệp của luật sư, do các
luật sư đủ điều kiện thành lập hoặc tham gia
liên doanh, liên kết thành lập và đăng ký hoạt
động theo Luật Luật sư, Luật doanh nghiệp
và các quy định khác của pháp luật có liên
quan”. Khái niệm về TCHNLS này không chỉ
khẳng định TCHNLS là mô hình hoạt động có
2 Vụ Bổ trợ tư pháp - Bộ Tư pháp, Dự án luật về luật sư so sánh với pháp luật của một số nước, Nxb. Tư pháp, Hà
nội, 2006, tr.85-86.
Soá chuyeân ñeà “Luaät sö vaø ñaïo ñöùc ngheà luaät sö”
23
tư cách pháp nhân, mà còn đặt cơ sơ lý luận
cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về
hành nghề luật sư hiện nay.
1.2. Đặc điểm của tổ chức hành nghề luật sư
Xuất phát từ bản chất, vị trí, vai trò của nghề
luật sư TCHNLS có các đặc điểm như sau:
TCHNLS không có đăng ký vốn pháp định:
TCHNLS không lấy điểm xuất phát là vốn và
cũng không dựa vào vốn mà dựa vào kiến thức
pháp luật, kỹ năng hành nghề của luật sư, và
uy tín của tổ chức hành nghề luật sư.
TCHNLS có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, có tư
cách pháp nhân: TCHNLS do luật sư thành lập
hợp pháp, tập hợp được nhiều người có cùng
chung mục đích, lợi ích và cùng hoạt động
nghề nghiệp theo quy định của pháp luật với
những chức năng, nhiệm vụ cụ thể nhằm thực
hiện mục đích chung.
TCHNLS có phương thức tổ chức và hoạt
động mang tính tự quản: TCHNLS có nhiệm
vụ trọng tâm là bảo đảm sự độc lập, tự do trong
hoạt động nghề nghiệp của luật sư, hoạt động
bình quyền, bình đẳng với các cơ quan bảo vệ
pháp luật. TCHNLS không chỉ thực hiện các
chức năng kiểm tra, giám sát đối với từng luật
sư của tổ chức mà còn đại diện chung cho
quyền lợi của họ trên các lĩnh vực trong hoạt
động hành nghề.
TCHNLS có nguyên tắc quản lý đặc thù
riêng: nguyên tắc kết hợp quản lý Nhà nước
với vai trò tự quản, nguyên tắc tuân thủ pháp
luật, nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp.
TCHNLS đăng ký hoạt động tại cơ quan tư
pháp: khác với việc đăng ký kinh doanh của
công ty thông thường, TCHNLS đăng ký hoạt
động tại Sở tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương nơi có trụ sở chính hoạt động.
1.3. Chức năng của tổ chức hành nghề
luật sư
Tổ chức hành nghề luật sư ở Việt Nam dù
được tổ chức và hoạt động dưới hình thức nào
(văn phòng luật sư hoặc công ty luật), là
TCHNLS trong nước hay TCHNLS nước
ngoài tại Việt Nam đều phải tuân thủ theo một
chế định pháp luật đặc thù, hoạt động độc lập
theo pháp luật luật sư, pháp luật doanh nghiệp
và các quy định khác của pháp luật có liên
quan. Hoạt động của TCHNLS về bản chất vẫn
theo nguyên tắc hoạt động của luật sư.
TCHNLS là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân, của tổ chức và suy cho cùng là
bảo vệ quyền con người. TCHNLS có các chức
năng cơ bản sau: (1) Chức năng hoạt động
tham gia tố tụng; (2) Chức năng tư vấn pháp
luật và thực hiện các dịch vụ pháp lý khác; (3)
Chức năng nhận người tập sự hành nghề luật
sư và hướng dẫn kỹ năng hành nghề luật sư;
(4) Chức năng quản lý tự quản; (5) Chức năng
phổ biến, tuyên truyền pháp luật; (6) Chức
năng kinh doanh của tổ chức hành nghề luật
sư; (7) Chức năng tham gia vào các hoạt động
xã hội khác.
2. Địa vị pháp lý của tổ chức hành nghề
luật sư theo pháp luật Việt Nam
2.1. Địa vị pháp lý của tổ chức hành nghề
luật sư
TCHNLS tại Việt Nam là tổ chức có tư
cách pháp nhân, có tên gọi, con dấu và tài
khoản riêng, có vai trò, vị trí quyền và nghĩa
vụ hoàn toàn độc lập với Đoàn luật sư, Liên
đoàn luật sư Việt Nam nhằm thực hiện các
quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.
TCHNLS đại diện cho các luật sư trong tổ
chức nghề nghiệp của mình; bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của các luật sư thành viên;
thực hiện một số chức năng quản lý luật sư và
hành nghề luật sư được pháp luật quy định
nhằm thúc đẩy việc thực thi sứ mạng của luật
sư; hỗ trợ phát triển nghề luật sư nhằm tăng
cường vai trò của luật sư trong xã hội.
TCHNLS tại Việt Nam hiện nay có hai hình
thức phổ biến đó là: Văn phòng luật sư và
Công ty luật3.
- Văn phòng luật sư (VPLS) là TCHNLS
do một luật sư thành lập, được tổ chức và hoạt
động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân. Luật
3 Xem thêm Điều 32, Luật Luật sư sửa đổi năm 2012.
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
24
sư thành lập là Trưởng văn phòng và phải chịu
trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về
mọi nghĩa vụ của văn phòng. Trưởng văn
phòng cũng là người đại diện theo pháp luật
của văn phòng. Về cơ cấu tổ chức của mô hình
này gần giống như cơ cấu tổ chức của doanh
nghiệp tư nhân;
- Công ty luật bao gồm: Công ty luật hợp
danh và Công ty luật trách nhiệm hữu hạn.
Thành viên của công ty luật phải là luật sư4.
Công ty luật hợp danh là TCHNLS có ít
nhất là từ hai luật sư thành lập trở lên. Công
ty luật hợp danh không có thành viên góp vốn.
Xét về cơ cấu tổ chức thì hình thức tổ chức
này gần giống như Công ty liên danh, nhưng
ở đây không có thành viên góp vốn mà các
thành viên là những luật sư cùng hợp danh để
hoạt động.
Công ty luật trách nhiệm hữu hạn bao gồm
Công ty luật trách nhiệm hữu hạn hai thành
viên trở lên và Công ty luật trách nhiệm hữu
hạn một thành viên.
Công ty luật trách nhiệm hữu hạn hai thành
viên trở lên là TCHNLS do ít nhất hai luật sư
thành lập. Về cơ cấu tổ chức, mô hình này gần
giống như loại hình Công ty trách nhiệm hữu
hạn thông thường, tuy nhiên khác nhau ở chỗ
Công ty luật thì các thành viên sáng lập phải là
luật sư có đủ điều kiện thành lập công ty theo
quy định .
Công ty luật trách nhiệm hữu hạn một
thành viên là TCHNLS do một luật sư thành
lập và làm chủ sở hữu. Luật sư làm chủ sở hữu
Công ty là Giám đốc công ty và cũng là đại
diện theo pháp luật của Công ty. Về cơ cấu tổ
chức thì mô hình này gần giống như cơ cấu của
loại hình Công ty Trách nhiệm hữu hạn một
thành viên thông thường.
TCHNLS được pháp luật về luật sư và
pháp luật liên quan công nhận là hoạt động hợp
pháp sau khi đăng ký hoạt động tại Sở tư pháp
cấp tỉnh hoặc thành phố trực thuộc trung ương
và được cấp giấy đăng ký hoạt động hợp pháp.
Người có đủ tiêu chuẩn là công dân Việt Nam
trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp
và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng
cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã
qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức
khoẻ bảo đảm hành nghề luật sư thì có thể trở
thành luật sư muốn được hành nghề luật sư
phải có chứng chỉ hành nghề luật sư và gia
nhập một Đoàn luật sư5.
VPLS có tên gọi riêng, tên của VPLS do
luật sư lựa chọn và theo quy định của Luật
doanh nghiệp năm 2014 nhưng phải bao gồm
cụm từ “văn phòng luật sư”, không được
trùng tên với VPLS, Công ty luật khác hoặc
gây nhầm lẫn với tên của TCHNLS (VPLS,
công ty luật) khác đã được đăng ký hoạt động,
tên VPLS không được sử dụng từ ngữ, ký hiệu
vi phạm truyền thống lịch sử, văn hoá, đạo đức
và thuần phong mỹ tục của dân tộc6. Tên bằng
tiếng Việt của VPLS bao gồm hai thành tố đó
là: i/ VPLS có hình thức tổ chức và hoạt động
như doanh nghiệp tư nhân theo luật doanh
nghiệp); ii/ Tên riêng, tên riêng được viết bằng
các chữ cái trong bảng chữ cái tiếng Việt, các
chữ F, J, Z, W, chữ số và ký hiệu. Mặt khác,
tên VPLS có thể thêm bằng tiếng nước ngoài
và tên viết tắt, tên bằng tiếng nước ngoài là tên
được dịch từ tên tiếng Việt sang một trong
những tiếng nước ngoài hệ chữ La-tinh. Khi
dịch sang tiếng nước ngoài, tên riêng của văn
phòng có thể giữ nguyên hoặc dịch theo nghĩa
tương ứng sang tiếng nước ngoài. Trong
trường hợp tên bằng tiếng nước ngoài của phải
được in hoặc viết với khổ chữ nhỏ hơn tên
tiếng Việt của văn phòng tại trụ sở chính, chi
nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh
doanh của văn phòng hoặc trên các giấy tờ giao
dịch, hồ sơ tài liệu và ấn phẩm do doanh
nghiệp phát hành; Tên viết tắt được viết tắt từ
tên tiếng Việt hoặc tên viết bằng tiếng nước
ngoài. Tên của VPLS phải được gắn tại trụ sở
chính, chi nhánh và văn phòng đại diện của
4 Xem thêm Điều 33, Luật Luật sư sửa đổi năm 2012.
5 Xem thêm: Điều 10 và Điều 11, Luật Luật sư năm 2006.
6 Khoản 2, Điều 32, Luật Luật sư năm 2006.
Soá chuyeân ñeà “Luaät sö vaø ñaïo ñöùc ngheà luaät sö”
25
VPLS. Tên VPLS phải được in hoặc viết trên
các giấy tờ giao dịch, hồ sơ tài liệu và ấn phẩm
do VPLS phát hành7.
Tên của công ty luật hợp danh, công ty luật
trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên do
các thành viên thỏa thuận lựa chọn, tên của
công ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành
viên do chủ sở hữu lựa chọn và theo quy định
của Luật doanh nghiệp nhưng phải bao gồm
cụm từ “công ty luật hợp danh” hoặc “công
ty luật trách nhiệm hữu hạn”, không được
trùng hoặc gây nhầm lẫn với tên của tổ chức
hành nghề luật sư khác đã được đăng ký hoạt
động, không được sử dụng từ ngữ, ký hiệu vi
phạm truyền thống lịch sử, văn hoá, đạo đức
và thuần phong mỹ tục của dân tộc8.
Như vậy tên tiếng Việt của công ty luật bao
gồm:
i/ Loại hình đối với công ty luật TNHH, tên
của công ty được viết là “công ty luật trách
nhiệm hữu hạn” nếu là công ty luật TNHH có
ít nhất hai thành viên là luật sư thành lập và
công ty luật TNHH một thành viên nếu công
ty chỉ do một luật sư thành lập thì viết là “Công
ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành viên”;
đối với công ty luật hợp danh được viết là
“công ty luật hợp danh”;
ii/ Tên riêng của công ty luật được viết bằng
các chữ cái trong bảng chữ cái tiếng Việt, và bao
gồm cả các chữ F, J, Z, W, chữ số và ký hiệu.
Công ty luật có thể thêm bằng tiếng nước ngoài
và tên viết tắt tương tự như tên của VPLS bằng
tiếng nước ngoài; Tên của công ty luật được gắn
tại trụ sở chính, chi nhánh và văn phòng đại diện
của công ty. Ngoài ra tên công ty luật được in
hoặc viết trên các giấy tờ giao dịch, hồ sơ tài liệu
và ấn phẩm do công ty luật phát hành9.
TCHNLS được khắc con dấu và sử dụng
con dấu của mình theo quy định của pháp luật
về quản lý và sử dụng con dấu10. TCHNLS có
quyền quyết định về hình thức, số lượng và nội
dung con dấu của mình, đồng thời tuân thủ
theo quy định tại Điều 44, Luật doanh nghiệp
năm 201411. Về nội dung con dấu phải thể hiện
những thông tin bao gồm: i/ Tên của TCHNLS;
ii/Mã số thuế của TCHNLS (tức mã số doanh
nghiệp-theo luật doanh nghiệp). Trước khi sử
dụng con dấu, TCHNLS có nghĩa vụ thông báo
mẫu con dấu với cơ quan đăng ký hoạt động
là Sở tư pháp cấp tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương; việc quản lý, sử dụng và lưu giữ
con dấu TCHNLS phải thực hiện theo quy định
của pháp luật về quản lý và sử dụng con dấu
hoặc theo Điều lệ công ty luật nếu có thỏa
thuận khác. Con dấu của TCHNLS được sử
dụng trong các trường hợp theo quy định của
pháp luật hoặc các bên giao dịch có thỏa thuận
về việc sử dụng dấu12.
TCHNLS được đăng ký mở tài khoản riêng
cho TCHNLS của mình. Việc mở và sử dụng tài
khoản thanh toán tại các tổ chức cung ứng dịch
vụ thanh toán tại: Ngân hàng Nhà nước; Ngân
hàng thương mại, v.v và được thực hiện các giao
dịch liên quan đến tài khoản thanh toán theo quy
định tại Điều 12 và Điều 14 của Thông tư số
23/2014/TT-NHNN ngày 19/08/2014 do Ngân
hàng Nhà nước ban hành về hướng dẫn việc mở
và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung
ứng dịch vụ thanh toán13.
2.2. Các quy định về quyền và nghĩa vụ
của tổ chức hành nghề luật sư
Theo Luật Luật sư năm 2006, các quyền
của TCHNLS được thể hiện như sau: “Thực
hiện dịch vụ pháp lý; Nhận thù lao từ khách
7 Xem thêm: Điều 38 và Điều 40, Luật Doanh nghiệp 2014.
8 Khoản 5, Điều 34, Luật Luật sư năm 2006.
9 Xem thêm: Điều 38, Luật doanh nghiệp năm 2014.
10 Xem thêm: Khoản 5, Điều 8, Nghị định số 123/2013/NĐ-CP, ngày 14/10/2013 của Chính phủ.
11 Xem thêm: Điều 44, Luật doanh nghiệp năm 2014.
12 Xem thêm: Điều 12,13,14 và 15, Nghị định số: 96/2015/NĐ-CP, ngày 19/10/2015 của Chính phủ quy định về quản
lý và sử dụng con dấu.
13 Xem thêm: Điều 12 và Điều 14, Thông tư số: 23/2014/TT-NHNN, ngày 19-08-2014 của Ngân hàng Nhà nước
về hướng dẫn việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
26
hàng; Thuê luật sư Việt Nam, luật sư nước
ngoài và nhân viên làm việc cho tổ chức hành
nghề luật sư; Hợp tác với tổ chức hành nghề
luật sư nước ngoài; Thành lập chi nhánh, văn
phòng giao dịch trong nước; Đặt cơ sở hành
nghề ở nước ngoài; Các quyền khác theo quy
định của Luật này và quy định khác của pháp
luật có liên quan”. Luật Luật sư sửa đổi năm
2012, bổ sung thêm quyền cho TCHNLS là:
“Tham gia xây dựng chính sách, pháp luật của
Nhà nước; tham gia tư vấn, giải quyết các vụ
việc của cá nhân, cơ quan, tổ chức khi được
yêu cầu”. Quy định này nhằm huy động một
cách sâu rộng vai trò và sự đóng góp quan
trọng của TCHNLS đối với công cuộc cải cách
tư pháp, góp phần tạo lập môi trường pháp lý
thuận lợi cho sự phát triển của đất nước, và tạo
điều kiện để nâng cao vị trí, vai trò của
TCHNLS.
Văn phòng luật sư, công ty luật ngoài việc
thành lập chi nhánh trong hoặc ngoài tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương, đặt cơ sở
hành nghề ở nước ngoài thì còn được thành lập
văn phòng giao dịch trong phạm vi tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương để tạo mọi thuận lợi
cho hoạt động nghề nghiệp luật sư.
Nghĩa vụ của TCHNLS được quy định cụ
thể tại Điều 40, Luật Luật sư năm 2006. Theo
đó, TCHNLS có các nghĩa vụ sau: “(1) Hoạt
động theo đúng lĩnh vực hành nghề ghi trong
Giấy đăng ký hoạt động; (2) Thực hiện đúng
những nội dung đã giao kết với khách hàng;
(3) Cử luật sư của tổ chức mình tham gia tố
tụng theo phân công của Đoàn luật sư; (4) Tạo
điều kiện cho luật sư của tổ chức mình thực
hiện trợ giúp pháp lý miễn phí; (5) Bồi thường
thiệt hại do lỗi mà luật sư của tổ chức mình
gây ra cho khách hàng trong khi thực hiện tư
vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng, dịch vụ
pháp lý khác; (6) Mua bảo hiểm trách nhiệm
nghề nghiệp cho luật sư của tổ chức mình
theo quy định của pháp luật về kinh doanh
bảo hiểm; (7) Chấp hành quy định của pháp
luật về lao động, thuế, tài chính, thống kê; (8)
Chấp hành các yêu cầu của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền về việc báo cáo, kiểm tra,
thanh tra; (9) Các nghĩa vụ khác theo quy định
của Luật này và quy định khác của pháp luật
có liên quan”14. Luật Luật sư sửa đổi năm
2012 đã bổ sung thêm các nghĩa vụ sau: “(9)
Nhận người tập sự hành nghề luật sư và cử
luật sư có đủ điều kiện hướng dẫn, tạo điều
kiện thuận lợi cho người tập sự được tập sự,
giám sát quá trình tập sự của người tập sự
hành nghề luật sư; (10) Thực hiện việc quản
lý và bảo đảm cho Luật sư của tổ chức mình
tuân thủ pháp luật, tuân theo Điều lệ của Liên
đoàn luật sư Việt Nam và Quy tắc đạo đức và
ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam; (11)
Thực hiện nghĩa vụ báo cáo về tổ chức và
hoạt động của tổ chức mình theo quy định của
pháp luật”15.
Việc sửa đổi và bổ sung thêm như trên
nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người thực
tập luật sư được tập sự hành nghề luật sư, giám
sát quá trình tập sự hành nghề của người tập sự
hành nghề luật sư. Mặt khác, nhằm nâng cao
chất lượng và tính chuyên nghiệp của
TCHNLS. Và như vậy, các quy định này sẽ
nâng cao vai trò tự quản của TCHNLS.
Địa điểm hành nghề của TCHNLS
thường là trụ sở của tổ chức nên cần được
quan tâm đến các yếu tố như sau: (1) Phải
đảm bảo một cách tương đối yêu cầu của
khách hàng là cần được kín đáo, yên tĩnh, có
an ninh tốt. Vì thế, trong các quy định về
điều kiện thành lập TCHNLS, các Nhà lập
pháp cần nên quy định rõ các tiêu chí như về
diện tích tối thiểu, về vị trícủa một Văn
phòng, một Công ty luật; (2) Phải đảm bảo
môi trường xung quanh tương đối nghiêm
túc, không phức tạp, huyên náo. Vì vậy, pháp
luật về luật sư cũng cần có sự điều chỉnh hợp
lý về vấn đề cụ thể nói trên.
3. Định hướng chung để hoàn thiện pháp
luật về tổ chức hành nghề luật sư
Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính
trị“về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư
14 Điều 40, Luật Luật sư năm 2006.
15 Mục 17, Điều 40, Luật Luật sư sửa đổi năm 2012.
Soá chuyeân ñeà “Luaät sö vaø ñaïo ñöùc ngheà luaät sö”
27
pháp trong thời gian tới”16 đã đề ra những
định hướng rất quan trọng đối với việc xây
dựng và hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt
động của luật sư cho phù hợp với tình hình
mới của đất nước trước xu hướng phát triển
và hội nhập. Để đưa được các quan điểm chỉ
đạo đó trở thành hiện thực đòi hỏi chúng ta
phải tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp cơ
bản trong đó phải kể đến các biện pháp về đổi
mới nhận thức, đổi mới về công tác tổ chức,
hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt
động của TCHNLS.
Do vậy hoàn thiện pháp luật về TCHNLS
tại Việt Nam hiện nay là nhu cầu tất yếu, khách
quan và quá trình thực hiện đòi hỏi những vấn
đề như sau:
Một là, cần khẳng định nghề luật sư là một
nghề kinh doanh dịch vụ và là một nghề kinh
doanh “đặc biệt” trong xã hội vì vậy tổ chức,
hoạt động nghề nghiệp của luật sư được quy
định để góp phần bảo vệ công lý, công bằng xã
hội và pháp chế xã hội chủ nghĩa. Do vậy, hoạt
động nghề nghiệp của TCHNLS cần được xây
dựng trên những nguyên tắc là một nghề
chuyên nghiệp, nghề tự do. TCHNLS cũng
được quảng cáo dịch vụ trên các phương tiện
thông tin đại chúng. Điều này góp phần hỗ trợ,
tạo điều kiện thuận lợi cho các luật sư hợp tác
với nhau để hình thành nên các TCHNLS ngày
càng lớn mạnh và chuyên nghiệp;
Hai là, cần tạo cơ sở pháp lý thuận lợi để
phát triển đội ngũ luật sư chuyên nghiệp để đáp
ứng nhu cầu về luật sư tham gia tố tụng, tư vấn
pháp luật cho cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của họ cũng như hỗ trợ
đắc lực cho hoạt động xét xử;
Ba là, từng bước chuẩn hóa các tiêu chuẩn
luật sư phù hợp với các yêu cầu, điều kiện cụ
thể của sự phát triển kinh tế, xã hội của đất
nước, nhưng phải bảo đảm đáp ứng các chuẩn
mực về mặt chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức
nghề nghiệp, phù hợp với điều kiện hành nghề
của luật sư và TCHNLS trong khu vực và trên
thế giới;
Bốn là, nâng cao vai trò tự quản của
TCHNLS, tổ chức xã hội-nghề nghiệp của luật
sư. Đồng thời, nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước đối với TCHNLS;
Năm là, từng bước hoàn thiện hệ thống văn
bản điều chỉnh nghề luật sư, tổ chức và hoạt
động của TCHNLS, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi
cho nghề luật sư Việt Nam phát triển, hội nhập
khu vực và quốc tế.
Mặt khác, cần thể chế hóa phương hướng
tăng cường hợp tác quốc tế về hoạt động giữa
TCHNLS Việt Nam với cá nhân, với TCHNLS
các nước trong khu vực và trên thế giới. Xây
dựng cơ chế pháp lý cho việc tham gia ngày
càng nhiều hơn của luật sư và TCHNLS trong
đàm phán thương mại quốc tế, giải quyết tranh
chấp có yếu tố nước ngoài và soạn thảo, ký kết
các hiệp định song phương và đa phương giữa
Việt Nam và các nước17./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Liên đoàn luật sư Việt Nam (2011), Quy
tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt
Nam, Hà Nội.
2. Liên đoàn luật sư Việt Nam, Báo cáo số
01/BC-LĐLSVN, ngày 12/01/2018, về tổ chức,
hoạt động năm 2017 và phương hướng hoạt
động năm 2018, Hà Nội.
3. Nguyễn Văn Bốn (2016), Ba năm thi
hành luật sửa đổi, bổ sung Luật Luật sư, kết
quả, hạn chế và kiến nghị, Tạp chí dân chủ và
pháp luật, số: 10 (245) – 2016.
4. Phan Trung Hoài (2003), Cơ sở lý luận
của việc hoàn thiện pháp luật về luật sư ở Việt
Nam hiện nay, Luận án tiến sỹ luật học, Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
16 Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong
thời gian tới, Hà Nội, năm 2002.
17 Phan Trung Hoài (2003),“Cơ sở lý luận của việc hoàn thiện pháp luật về luật sư ở Việt Nam hiện nay”, Học viện
chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.162-163.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_van_de_ly_luan_ve_to_chuc_hanh_nghe_luat_su_o_viet_na.pdf