1. Không thể thực hiện được nghĩa vụ
theo quy định của pháp luật hay trên thực tế;
2. Việc thực hiện nghĩa vụ đòi hỏi
những nỗ lực hoặc khoản chi phí thái quá
(bất hợp lý so với lợi ích của bên có quyền);
3. Bên có quyền có thể vẫn nhận
được việc thực hiện một cách hợp lý từ các
phương cách khác;
4. Việc thực hiện nghĩa vụ mang tính
nhân thân tuyệt đối;
5. Bên có quyền không yêu cầu thực
hiện nghĩa vụ trong một thời gian hợp lý kể
từ thời điểm bên này biết hoặc buộc phải
biết về việc không thực hiện nghĩa vụ34.
Đối chiếu với quy định của pháp luật
hợp đồng Việt Nam, chúng ta cũng có thể
tìm thấy một số giải pháp có chức năng
tương tự. Chẳng hạn, khoản 1 Điều 356
34 Xem Điều 7.2.2 PICC.
BLDS 2015 cho phép, đối với nghĩa vụ giao
vật đặc định, nếu vật không còn hoặc bị hư
hỏng thì bên có nghĩa vụ chỉ phải thanh toán
giá trị của vật. Hay các quy định chung như
quy định về giới hạn việc thực hiện quyền
dân sự tại Điều 10 BLDS 2015 cấm các
chủ thể được lạm dụng quyền của mình,
quy định về nguyên tắc thiện chí tại Điều 3
BLDS 2015 đều có thể được giải thích bởi
Toà án để “kiềm chế” việc áp dụng chế tài
buộc thực hiện đúng hợp đồng khi nó tạo ra
sự bất công bằng thái quá cho một bên hợp
đồng. Tuy nhiên, việc tiếp cận theo hướng
giải thích quy định chung của BLDS luôn
tự thân hàm chứa trong mình tính bất ổn,
BLDS 2015 chưa có cách tiếp cận mang tính
hệ thống và đầy đủ như quy định tương tự
của PICC về việc cân bằng giữa quyền yêu
cầu buộc thực hiện hợp đồng của một bên
với lợi ích chính đáng của bên kia
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 434 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số vấn đề về biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng theo pháp luật Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ BIỆN PHÁP XỬ LÝ VIỆC
KHÔNG THỰC HIỆN ĐÚNG HỢP ĐỒNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Tóm tắt:
Bộ luật Dân sự năm 2015 có nhiều điểm mới tiến bộ hơn Bộ luật
Dân sự năm 2005 để điều chỉnh quan hệ hợp đồng, đặc biệt là chế
định xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng. Tuy nhiên, từ góc
độ pháp luật so sánh, luật hợp đồng Việt Nam hiện nay vẫn tồn một
một số hạn chế nhất định liên quan đến chế tài phạt vi phạm, xác
định mức bồi thường thiệt hại và buộc thực hiện đúng hợp đồng.
Hồ Ngọc Hiển*
Đỗ Giang Nam**
* TS. Khoa Luật - Học viện Khoa học xã hội.
** TS. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Abstract
The Civil Code of 2015 has several new improvements, as compared
to the Civil Code of 2005, to govern the contractual relationships,
particularly concerning the remedies for non-performance of
contract. However, from a comparative law perspective, the current
Vietnamese contract law still has shown a number of shortcomings
regarding the provisions about penalty clauses, calculating damages
and specific performances.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Biện pháp xử lý việc không
thực hiện đúng hợp đồng; Điều khoản
phạt vi phạm; Bồi thường thiệt hại,
Buộc thực hiện đúng hợp đồng
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 18/03/2019
Biên tập : 20/05/2019
Duyệt bài : 27/05/2019
Article Infomation:
Keywords: Remedies for non-
performance of contract; Penalty clauses;
Damages; Specific performance.
Article History:
Received : 18 Mar. 2019
Edited : 20 May 2019
Approved : 27 May 2019
1. Chức năng của chế tài phạt vi phạm
Phạt vi phạm là chế tài được ghi nhận
xuyên suốt trong các văn bản pháp luật hợp
đồng Việt Nam từ Pháp lệnh Hợp đồng kinh
tế năm 1989 cho đến Luật Thương mại năm
1997, 2005 và Bộ luật Dân sự (BLDS) năm
1995, 2005 và 2015. Bản chất của chế tài
này là việc pháp luật tôn trọng tự do hợp
đồng thông qua việc cho phép các bên được
thoả thuận trước rằng, khi một bên vi phạm
hợp đồng sẽ dẫn đến việc bên đó phải gánh
chịu nghĩa vụ phải trả một khoản tiền ấn
định trước cho phía bên kia. Tuy nhiên, lịch
sử pháp luật hợp đồng Việt Nam cho thấy
luôn tồn tại những sự khác biệt giữa các văn
bản luật về giới hạn quyền tự do hợp đồng
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
15Số 9(385) T5/2019
trong việc chỉ thừa nhận mức phạt tối đa,
hay phức tạp hơn là sự khác biệt trong xác
định mối quan hệ giữa phạt vi phạm và bồi
thường thiệt hại (BTTH).
1.1. Xác định mối quan hệ giữa chế tài
phạt vi phạm và chế tài BTTH
Có sự khác biệt lớn giữa BLDS năm
2005, 2015 và Luật Thương mại 2005 trong
việc xác định mối quan hệ giữa chế tài phạt
vi phạm và chế tài BTTH. Cụ thể, Điều 307
Luật Thương mại 2005 quy định:
“1. Trường hợp các bên không có thỏa
thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm chỉ có
quyền yêu cầu BTTH, trừ trường hợp Luật
này có quy định khác;
2. Trường hợp các bên có thỏa thuận
phạt vi phạm thì bên bị vi phạm có quyền áp
dụng cả chế tài phạt vi phạm và buộc BTTH,
trừ trường hợp Luật này có quy định khác”.
Trong khi đó, Điều 422.1 và 422.3
BLDS 2005 quy định:
“1. Phạt vi phạm là sự thoả thuận giữa
các bên trong hợp đồng, theo đó bên vi phạm
nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho bên bị
vi phạm.
2. Các bên có thể thoả thuận về việc
bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt
vi phạm mà không phải BTTH hoặc vừa phải
nộp phạt vi phạm và vừa phải BTTH; nếu
không có thoả thuận trước về mức BTTH thì
phải bồi thường toàn bộ thiệt hại.
3. Trong trường hợp các bên không có
thoả thuận về BTTH thì bên vi phạm nghĩa
vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm”.
Như vậy, theo Luật Thương mại 2005,
chế tài phạt vi phạm được kết hợp với chế
tài BTTH ngay cả khi các bên không nêu cụ
thể về sự kết hợp này (các bên chỉ cần thoả
thuận về phạt vi phạm). Tuy nhiên, BLDS
1 Đỗ Văn Đại, Các biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng trong pháp luật hợp đồng Việt Nam, Nxb Chính
trị Quốc gia, 2010.
2 Xem Điều 418 BLDS 2015.
3 Điều 378 BLDS 1995 quy định mức phạt tối đa là 5% giá trị phần nghĩa vụ bị vi phạm.
4 Bên cạnh đó, Luật Xây dựng năm 2014 giới hạn mức phạt là 12% giá trị phần nghĩa vụ bị vi phạm (Xem Điều 146, Luật
Xây dựng).
2005 lại chỉ cho phép sự kết hợp này nếu các
bên thoả thuận cụ thể trong hợp đồng.
Sự thiếu đồng bộ này đã được chỉ rõ từ
khá lâu1, nhưng cho đến nay, nó chưa được
giải quyết triệt để. Mặc dù BLDS 2015 đã
quy định rõ ràng rằng bên vi phạm chỉ phải
nộp tiền phạt mà không phải BTTH trừ khi
các bên có thoả thuận cụ thể về việc đồng
thời phải nộp tiền phạt và BTTH,2 tuy nhiên,
việc LTM Luật thương mại 2005 vẫn chưa
được sửa đổi, có thể sẽ dẫn đến việc các bên
có cơ hội lẩn tránh việc “áp dụng pháp luật”
và tạo ra sự phức tạp, bất ổn không đáng có
trong quan hệ hợp đồng.
1.2. Mức phạt vi phạm
Quy định về mức phạt vi phạm giữa
các văn bản luật còn thiếu sự đồng bộ. Trong
khi BLDS 2015 không quy định mức trần tối
đa3, thì Luật Thương mại 2015 lại áp dụng
mức này. Cụ thể, theo quy định của Điều
301 Luật Thương mại 2015, “mức phạt đối
với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng
mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên
thoả thuận trong hợp đồng, nhưng không
quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi
phạm”4.
Quy định mức trần tối đa cho thoả
thuận phạt vi phạm của Luật Thương mại
2005 đặt ra vấn đề hậu quả pháp lý của các
thoả thuận vượt trần là gì? Do Luật Thương
mại 2005 không đưa ra câu trả lời trực tiếp,
nên về nguyên tắc, Toà án có thể xử lý điều
khoản phạt vi phạm vượt trần theo 2 hướng:
thứ nhất, vô hiệu hoá “toàn bộ” thoả thuận
phạt vi phạm - không cho phép bên có quyền
được hưởng bất kỳ khoản phạt nào; hoặc thứ
hai, chỉ vô hiệu hoá phần vượt trần và quyết
định cho bên có quyền được hưởng khoản
tiền phạt bằng 8% giá trị phần nghĩa vụ bị vi
phạm. Trên thực tế, Toà án có xu hướng lựa
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
16 Số 9(385) T5/2019
chọn theo phương án thứ hai và chỉ vô hiệu
hoá phần vượt quá, qua đó tự mình hạ mức
phạt xuống chạm mức trần 8% giá trị phần
nghĩa vụ bị vi phạm5.
1.3. Nguyên nhân của sự thiếu đồng nhất
Chúng tôi cho rằng, sở dĩ có sự khác
biệt trong quy định của các văn bản luật nêu
trên là do cách tiếp cận về chức năng của
phạt vi phạm trong hệ thống các chế tài xử
lý vi phạm hợp đồng Việt Nam chưa nhất
quán. Nếu như trong BLDS 1995, phạt vi
phạm vừa được ghi nhận đồng thời là biện
pháp bảo đảm nghĩa vụ dân sự6 và khắc phục
vi phạm hợp đồng, đến BLDS năm 2005 và
năm 2015, phạt vi phạm không còn được
xếp là một biện pháp bảo đảm nghĩa vụ dân
sự. Về vấn đề này, có ý kiến cho rằng, “phạt
vi phạm mang tính chất là trách nhiệm dân
sự của bên bị vi phạm với bên có quyền hơn
là mang bản chất của biện pháp bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ”7.
Tuy nhiên, giải thích trên về chức
năng của phạt vi phạm không nhận được sự
đồng thuận cao trên diễn đàn khoa học. Có
ý kiến cho rằng, phạt vi phạm nên được hiểu
là biện pháp ngăn ngừa hành vi vi phạm, chứ
không phải là một biện pháp đền bù thiệt
hại bởi đã có biện pháp BTTH thực hiện
chức năng đó, và cũng không nên hiểu theo
hướng là một biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ vì chức năng đó được thực hiện bởi
biện pháp đặt cọc8. Quan điểm này đã phản
ánh theo hướng tiếp cận của Luật Thương
mại 2005. Cụ thể, việc nhìn nhận chế tài
phạt vi phạm và chế tài BTTH là hai chế tài
thực hiện chức năng riêng biệt sẽ luận giải
5 Đỗ Văn Đại, Các biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng trong pháp luật hợp đồng Việt Nam, Nxb. Chính
trị Quốc gia, 2010, tr. 250; Nguyễn Việt Khoa, Chế tài phạt vi phạm hợp đồng theo Luật Thương mại năm 2005, Tạp
chí Nghiên cứu Lập pháp, số 11, 2005, tr. 46-51.
6 Xem Điều 324 BLDS 1995.
7 Hoàng Thế Liên, Bình luận khoa học BLDS năm 2005- tập 2, Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2009, tr. 265.
8 Nguyễn Việt Khoa, Chế tài phạt vi phạm hợp đồng theo Luật Thương mại năm 2005, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số
11, 2005, tr 46-
9 Đỗ Văn Đại, Luật Hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án (tập 2), Nxb. Hồng Đức, 2017, tr. 557.
10 UKHL 1/7/1914, Dunlop Pneumatic Tyre Co Ltd v. New Garage & Motor Co., Ltd.
UKHL/1914/1.html Truy cập 1.3.2019
được tại sao luật quy định chỉ cần các bên
có thoả thuận phạt vi phạm, đương nhiên, có
thể đồng thời áp dụng cả hai chế tài.
Vấn đề còn trở nên phức tạp hơn với
các tranh luận gần đây liên quan đến việc
BLDS 2015, bên cạnh chế tài phạt vi phạm,
liệu có thừa nhận hiệu lực của điều khoản
BTTH ấn định trước (liquidated damages
clause) hay không?9. Quan điểm khẳng
định điều này lập luận dựa trên giải thích
theo nghĩa rộng Điều 13 và Điều 360 BLDS
2015, theo đó, các bên có thể thoả thuận về
thiệt hại phải bồi thường vào bất kỳ thời
điểm nào, kể cả tại thời điểm giao kết hợp
đồng. Ngược lại, quan điểm phản đối cho
rằng, Điều 13 và Điều 360 BLDS 2015 chỉ
có thể được giải thích theo nghĩa hẹp, theo
đó, các bên chỉ được thoả thuận về thiệt hại
phải bồi thường khi chỉ khi xảy ra hành vi vi
phạm nghĩa vụ.
1.4. Tiếp cận chức năng của phạt vi phạm
từ góc độ luật hợp đồng so sánh
Về nguyên tắc, hệ thống thông luật
phân biệt rõ ràng giữa điều khoản phạt vi
phạm (penalty clause) và điều khoản BTTH
ấn định trước (liquidated damages clause).
Trong đó, điều khoản BTTH ấn định trước
là thoả thuận có hiệu lực pháp lý, ngược lại
mọi điều khoản phạt vi phạm đều vô hiệu.
Trong án lệ Dunlop (1914), Toà án đã thiết
lập tiêu chuẩn phân biệt giữa hai điều khoản
bằng cách kiểm tra: “Tại thời điểm giao kết
hợp đồng, các bên đã đưa ra một thoả thuận
dựa trên sự đánh giá thực sự đối với các thiệt
hại có thể xảy ra hay chưa”10. Nếu có cơ sở
cho rằng các bên đã có đánh giá thực sự các
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
17Số 9(385) T5/2019
thiệt hại, đó là điều khoản BTTH ấn định;
ngược lại, nếu sự thoả thuận dẫn đến việc
một bên phải trả một khoản vượt quá so với
sự đánh giá thực sự đó, sự thoả thuận đó là
phạt vi phạm và không có hiệu lực.
Trong khi đó, hệ thống dân luật, về
nguyên tắc, thừa nhận hiệu lực của điều
khoản phạt vi phạm. Điều khoản phạt vi
phạm được cho là đóng hai chức năng chính
sau đây: (i) xác định trước, khoản BTTH;
theo đó, tránh việc phải tranh chấp về đánh
giá thiệt hại sau này; (ii) tạo ra động lực để
phía bên đối tác thực hiện đúng nghĩa vụ
bằng cách ấn định trước khoản phạt cao
nếu như có hành vi vi phạm11. Tuy nhiên,
hệ thống dân luật cũng không cho phép các
bên được tuỳ ý áp đặt mức phạt vi phạm thái
quá; tất cả các điều khoản phạt sẽ bị vô hiệu
nếu nó bất công (unfair)12.
Trong xu thế nhất thể hoá pháp luật
hợp đồng, để dung hoà sự khác biệt giữa hai
hướng tiếp cận của hệ thống dân luật và thông
luật, các đạo luật mẫu, như Bộ nguyên tắc
của Unidroit về hợp đồng thương mại quốc
tế (PICC)13 và Bộ nguyên tắc luật hợp đồng
châu Âu (PECL)14 đã thiên về giải pháp của
hệ thống dân luật, tuy nhiên, họ lại lựa chọn
thuật ngữ trung dung hơn là “Khoản tiền bồi
thường thoả thuận chi việc không thực hiện
- Agreed payment for non-performance”.
Chẳng hạn, khoản 1 Điều 7.4.13 PICC quy
định về nguyên tắc: “Khi hợp đồng quy định
bên không thực hiện nghĩa vụ sẽ phải trả
một khoản tiền bồi thường nhất định do việc
không thực hiện nghĩa vụ, bên có quyền sẽ
được hưởng khoản tiền này một cách độc
lập với thiệt hại thực tế phải gánh chịu”.
Bên cạnh đó, để tránh việc lạm dụng,
khoản 2 Điều 7.4.13 PICC trao cho cơ quan
11 R. Zimmermann, The Law of Obligations – Roman Foundations of the Civilian Tradition (Oxford: OUP, 2nd edn
1996), pp 95–96.
12 Như trên.
13 Bộ nguyên tắc Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế 2004, Nxb. Từ điển Bách Khoa, 2010.
14 Xem điều 9:509, The Principles Of European Contract Law 2002 (Parts I, II, and III); https://www.trans-lex.
org/400200/_/pecl/#head_153 truy cập 1.3.2019
tài phán quyền giảm mức bồi thường nếu nó
quá bất hợp lý. “Tuy nhiên, mặc dù có thoả
thuận, khoản tiền bồi thường có thể được
giảm một cách hợp lý nếu nó quá mức so
với thiệt hại gây ra do việc không thực hiện
và do các hoàn cảnh khác”.
Đối chiếu xu hướng trên với các quy
định về phạt vi phạm trong BLDS 2015 và
Luật Thương mại 2005 có thể thấy, cách
tiếp cận của BLDS 2015 phù hợp hơn với
thông lệ quốc tế. Thoả thuận phạt vi phạm,
theo quan niệm đó, tự thân mang trong mình
đồng thời cả 2 chức năng: chức năng răn đe
và phòng ngừa vi phạm và chức năng bồi
thường khi có vi phạm. Vì vậy, việc Luật
Thương mại 2005 quy định mặc định việc
kết hợp cả 2 chế tài về phạt vi phạm và
BTTH là không thuyết phục, tạo ra sự thiếu
đồng bộ với BLDS 2015. Bên cạnh đó, cũng
cần nhấn mạnh, quy định một giới hạn tối đa
cho mức phạt là tương đối cứng nhắc, nên
được thay thế bằng cơ chế uyển chuyển hơn
như cho phép Toà án can thiệp điều chỉnh lại
các thoả thuận gây bất công như quy định
trên của PICC.
2. Xác định mức bồi thường thiệt hại
Với tư cách là biện pháp nhằm bù đắp
các tổn thất cho bên bị vi phạm hợp đồng
khi xảy ra hành vi vi phạm hợp đồng, BTTH
đã được ghi nhận xuyên suốt trong quá trình
phát triển pháp luật hợp đồng Việt Nam, là
chế tài quan trọng và phổ biến nhất để xử lý
việc không thực hiện đúng hợp đồng. Tuy
nhiên, phải đến BLDS 2015, pháp luật hợp
đồng Việt Nam mới cơ bản thống nhất được
triết lý của chế tài BTTH là bồi thường kỳ
vọng nhằm đạt mục đích đưa bên bị thiệt hại
vào đúng vị trí mà đáng lẽ bên này sẽ được
hưởng nếu như hợp đồng được thực hiện
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
18 Số 9(385) T5/2019
đúng.15 Triết lý này đáp ứng yêu cầu của
sự an toàn pháp lý, khuyến khích các chủ
thể luật tư tham gia giao dịch và phù hợp
với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, hiện nay
khi đánh giá chi tiết các quy định về BTTH
trong pháp luật hợp đồng Việt Nam, vẫn
thấy còn nhiều sự chồng chéo, mâu thuẫn
và chưa thực sự rõ ràng giữa quy định của
BLDS 2015 và Luật Thương mại 2005 liên
quan đến việc xác định mức BTTH do vi
phạm hợp đồng.
Về nguyên tắc, bên có quyền có thể
đòi bồi thường toàn bộ những thiệt hại mà
mình đã phải chịu từ việc vi phạm hợp đồng
của bên kia16,17. Tuy nhiên, nguyên tắc bồi
thường toàn bộ có thể dẫn tới hệ quả mà bên
bị vi phạm sẽ đưa ra các kỳ vọng quá xa so
với mức độ mà họ đáng được hưởng. Chính
vì vậy, luật hợp đồng nhiều nước trên thế
giới đều cho rằng, các yêu cầu đòi BTTH
cần phải thoả mãn những điều kiện nhất
định như thiệt hại phải mang tính xác định,
thiệt hại phải dự đoán trước được và bên có
quyền đã nỗ lực để giảm thiểu thiệt hại18.
15 Chức năng của hệ thống chế tài trong luật hợp đồng là nhằm vãn hồi công lý (corrective justice) cho bên có quyền. Hay
nói cách khác, các chế tài được thiết kế để áp đặt trách nhiệm dân sự lên bên vi phạm tương xứng, bù đắp cho bên có
quyền tất cả các thiệt hại mà họ đã phải gánh chịu do hành vi của bên vi phạm đã gây ra cho họ. Muốn đạt chức năng
trên, bên bị vi phạm hợp đồng, qua việc áp dụng biện pháp xử lý vi phạm, cần phải được đặt vào đúng vị trí mà đáng lẽ
họ sẽ được hưởng nếu như không có hành vi vi phạm và hợp đồng được thực hiện đầy đủ. Hiển nhiên, vị trí đó sẽ đạt
được, nếu như luật hợp đồng cho phép Toà án can thiệp để buộc bên vi phạm phải thực hiện đúng hợp đồng. Tuy nhiên,
trong nhiều trường hợp, khi không thể buộc bên vi phạm thực hiện đúng nghĩa vụ, chế tài bồi thường thiệt hại cần được
thiết kế để trao cho bên bị vi phạm những khoản bồi thường tương xứng với lợi ích mà họ đáng lẽ được hưởng nếu như
không có hành vi vi phạm hợp đồng. Theo nghĩa đó, một trong điểm mới quan trọng của BLDS 2015 là việc BLDS
2015 đã dung nạp học thuyết về bồi thường kỳ vọng và quy định tại Khoản 2 Điều 419 về thiệt hại được bồi thường
do vi phạm hợp đồng, theo đó: “Người có quyền có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại cho lợi ích mà lẽ ra mình sẽ được
hưởng do hợp đồng mang lại. Người có quyền còn có thể yêu cầu người có nghĩa vụ chi trả chi phí phát sinh do không
hoàn thành nghĩa vụ hợp đồng mà không trùng lặp với mức bồi thường thiệt hại cho lợi ích mà hợp đồng mang lại.”
Quy định này có thể so sánh với triết lý của LTM 2005 khi cho phép bồi thường kỳ vọng đối với các khoản lợi đáng
lẽ được hưởng để đặt bên bị vi phạm vào đúng vị trí đáng có của họ. Theo quy định của khoản 2 Điều 302 LTM 2005:
“Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây
ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm.”
16 Điều 13 BLDS 2015.
17 Các thiệt hại được bồi thường, theo quy định mới của BLDS 2015 không chỉ là những thiệt hại về vật chất mà còn bao
gồm cả những thiệt hại về tinh thần (xem Điều 361 BLDS 2015). Cụ thể, theo Điều 419 BLDS 2015, Toà án có thể
“buộc người có nghĩa vụ BTTH về tinh thần cho người có quyền” và mức bồi thường do “Toà án quyết định căn cứ vào
nội dung vụ việc”.
18 Robert A.Hillman, Principle Of Contract Law, West Publisher, 2004, p.201
19 Xem Robert A.Hillman, Principle Of Contract Law, West Publisher, 2004, p. 201-205
2.1. Điều kiện thứ nhất: Tính xác định của
thiệt hại (Certainly)
Yêu cầu đầu tiên là bên bị thiệt hại
phải chỉ ra rằng, thiệt hại mà họ gánh chịu
có thể xác định một cách hợp lý. Điều đó có
nghĩa là, những thiệt hại này phải dựa trên
những căn cứ cụ thể có thể xác thực chứ
không phải là những thiệt hại mang tính giả
định19. Mặc dù vậy, cần nhấn mạnh rằng tính
xác định của thiệt hại không nhất thiết hàm
ý là thiệt hại đó cần phải xảy ra trên thực tế,
bởi lẽ có những thiệt hại trong tương lai vẫn
mang tính xác định.
Xét một cách khái quát, BLDS 2015
đã có bước tiến quan trọng khi ghi nhận điều
kiện này trong Điều 361.2, theo đó định
nghĩa thiệt hại về vật chất là “những tổn
thất vật chất thực tế xác định được, bao gồm
tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn
chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập
thực tế bị mất hoặc bị giảm sút”. Tuy nhiên,
dường như ngôn từ của BLDS 2015 đã đồng
nhất tính xác định thiệt hại với những thiệt
hại đã xảy ra trên thực tế, và không cho
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
19Số 9(385) T5/2019
phép bồi thường các thiệt hại trong tương
lai. Điều này, vô hình trung, mâu thuẫn với
chính triết lý “bồi thường kỳ vọng” đã được
ghi nhận trong BLDS và cũng khác biệt so
với thông lệ chung trên thế giới. Vấn đề mấu
chốt mà tiêu chí này hướng tới không phải
là loại trừ bồi thường các thiệt hại chưa xảy
ra, mà là việc nhấn mạnh các thiệt hại được
bồi thường phải có mối liên hệ nhân quả với
hành vi không thực hiện. Có thể nói, việc
chứng minh tính xác định của các thiệt hại
trong tương lai sẽ phức tạp hơn so với việc
chứng minh tính xác định của các thiệt hại
thực tế. Tuy nhiên đó không phải lý do loại
bỏ cơ hội bồi thường cho các thiệt hại trong
tương lai, chẳng hạn như thiệt hại do mất đi
một cơ hội, nếu nó hoàn toàn khả thi và nằm
trong phạm vi có thể trở thành hiện thực của
thiệt hại20.
2.2. Điều kiện thứ hai: Tính dự đoán trước
được của thiệt hại (Foreseeability)
Tính dự đoán trước được của thiệt hại
được hiểu là khả năng các bên có thể dự liệu
trước một cách hợp lý những thiệt hại có thể
có nếu không thực hiện đúng hợp đồng vào
thời điểm giao kết hợp đồng21. Trong hệ thống
thông luật, án lệ Hadley kiện Baxendale đã
đưa ra các quy tắc mang tính kinh điển để
đánh giá tính dự đoán trước của thiệt hại22.
Trong vụ việc này, nhà máy xay Hadley thuê
Baxendale chở trục tay quay bị hỏng đến cửa
hàng sửa chữa. Baxendale đã trì hoãn việc
chở hàng dẫn đến việc nhà máy xay Hadley
phải ngừng hoạt động dẫn đến bị thua lỗ.
Hadley kiện Baxendale đòi BTTH mà nhà
máy phải chịu trong thời gian Baxendale trì
hoãn việc chở hàng. Tuy nhiên, tòa án tuyên
rằng, nhà máy xay Hadley không được
BTTH trong quãng thời gian bị trì hoãn với
20 Xem khoản 2 Điều 7.4.3 PICC.
21 Xem Điều 7.4.4 PICC.
22 Về vụ kiện giữa Hadley và Baxendale, xem thêm Melvin Aron Eisenberg, The Principle OfHadley v. Baxendale,
California Law Review, 1992.
23 Xem Robert A.Hillman, Principle Of Contract Law, West Publisher, 2004, p.193.
24 Xem thêm Bùi Thị Thanh Hằng, Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng, Luận án TS, Đại học Luật Hà Nội, 2018,
tr. 130-131.
lập luận rằng Baxendale hoàn toàn có lý do
để tin rằng nhà máy xay có thêm một trục
tay quay khác để thay thế và trì hoãn việc
chở trục tay quay đi sửa sẽ không ảnh hưởng
đến hoạt động của nhà máy. Tòa án trong vụ
Hadley kiện Baxendale đã đưa ra một quy
tắc cho rằng người bị thiệt hại do hậu quả
của việc vi phạm hợp đồng sẽ chỉ được bồi
thường ở mức thiệt hại trung bình, trừ khi
anh ta có giải thích hợp lý về nguyên nhân
sự tổn thất cao ở mức bất thường23. Quy tắc
Hadley dường như nhấn mạnh rằng bên bị
thiệt hại sẽ chỉ nhận được bồi thường nếu
tổn thất của bên bị thiệt hại là tổn thất có thể
thấy trước vào thời điểm xác lập hợp đồng;
mặt khác không buộc bên vi phạm phải tìm
hiểu và biết tới những hoàn cảnh đặc biệt
của đối tác24.
Tính dự đoán trước được của thiệt hại
được ghi nhận trong Điều 74 Công ước Viên
1980 về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc
tế, theo đó: “Mức BTTH không thể cao hơn
tổn thất mà bên bị vi phạm đã dự đoán hoặc
đáng lẽ phải dự đoán được vào thời điểm
giao kết hợp đồng như là hệ quả có thể xảy
ra do vi phạm hợp đồng, trong đó có tính
đến các tình tiết mà họ đã biết hoặc buộc
phải biết”.
Khác với quy định trên, BLDS 2015
dường như không đưa ra yêu cầu điều kiện
về tính dự đoán trước của thiệt hại. Cho dù
điều kiện này có thể tìm thấy tương đương ở
yêu cầu về mối quan hệ nhân quả giữa hành
vi vi phạm và thiệt hại trong lý thuyết chung
về trách nhiệm BTTH. Tuy nhiên, việc ghi
nhận một cách trực tiếp điều kiện về tính
dự đoán trước được như quy định của Công
ước Viên 1980 sẽ tỏ ra hợp lý hơn, bởi lẽ
nó không chỉ làm tăng tính an toàn pháp lý
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
20 Số 9(385) T5/2019
mà còn truyền tải những thông điệp về tính
hợp tác trong quan hệ hợp đồng bằng cách
khuyến khích các bên phải tiết lộ thông tin
liên quan giao kết hợp đồng và trên cơ sở sự
trao đổi thông tin đó, các bên phải có những
dự đoán hợp lý về thiệt hại có thể xảy ra việc
vi phạm hợp đồng.
2.3. Điều kiện thứ ba: Nghĩa vụ hạn chế
thiệt hại (Mitigation of harm)
Để kiểm soát việc bên có quyền hành
xử một cách thiếu thiện chí, bỏ mặc thiệt hại
mà đáng lẽ ra họ có thể hạn chế hoặc tránh
khỏi, luật hợp đồng thường quy định bên vi
phạm sẽ không phải bồi thường cho bên bị vi
phạm những thiệt hại có thể tránh được nếu
bên bị vi phạm thực hiện những biện pháp
cần thiết để giảm nhẹ thiệt hại đó25. Hay nói
cách khác, điều này có nghĩa là bên có quyền
sẽ không thể đòi bồi thường những tổn thất
mà họ phải gánh chịu do đã không có nỗ lực
cần thiết để hạn chế các tổn thất đó.
Ngược lại, nếu bên có quyền bỏ ra
chi phí để thực hiện các biện pháp cần thiết
hạn chế thiệt hại và qua đó giảm thiểu được
những thiệt hại nhất định xảy ra thì họ có
quyền đòi đền bù cho những chi phí hợp lý
đó. Bên cạnh đó, trách nhiệm hạn chế và
giảm thiểu thiệt hại sẽ không được đặt ra
nếu bên có quyền cũng không thể thực hiện
được việc giảm thiểu tổn thất do vượt quá
khả năng họ, hay việc áp dụng những biện
pháp giảm thiểu tổn thất đó sẽ gây ra những
25 Xem thêm, Bùi Thị Thanh Hằng, Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng, Luận án TS, Đại học Luật Hà Nội, 2018,
tr. 57-59.
26 Xem Robert A.Hillman, Principle Of Contract Law, West Publisher, 2004, p.198
27 Điều 292 LTM 2005 đã xếp buộc thực hiện đúng hợp đồng ở vị trí đầu tiên trong hệ thống các chế tài, sau đó giải thích
“Buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc dùng các
biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện”. Tuy nhiên, điều đáng chú ý là với tư cách là luật gốc thì BLDS 2005 lại
về chỉ đưa ra các quy định riêng biệt mà đã không đưa ra quy định có tính nguyên tắc chung định hướng việc áp dụng
chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng như là quy tắc mặc định của luật hợp đồng. Điều này không chỉ gây ra khó khăn
về lý thuyết, mà nó đã tạo ra nhiều sự bất cập trong thực tế; chẳng hạn, nếu việc yêu cầu thực hiện đúng hợp đồng
không thuộc vào trường hợp mà BLDS đã định sẵn, thì Toà án không có cơ sở để yêu cầu bên vi phạm buộc thực hiện
đúng hợp đồng.Nhận thức điều đó, BLDS 2015 đã đưa ra cải cách căn bản khi lần đầu tiên quy định nguyên tắc chung
về buộc thực hiện đúng hợp đồng. Cụ thể, ngay sau khi đưa ra quy định bao quát “Bên có nghĩa vụ mà vi phạm nghĩa
vụ thì phải chịu trách nhiện dân sự với bên có quyền”, BLDS 2015 đã thiết kế điều 352- một luật hoàn toàn mới - để
ghi nhận một cách minh thị về trách nhiệm tiếp tục thực hiện nghĩa vụ, theo đó: “Khi bên có nghĩa vụ thực hiện không
đúng nghĩa vụ của mình thì bên có quyền được yêu cầu bên có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện nghĩa vụ”.
thiệt hại quá lớn cho người bị thiệt hại hoặc
không phù hợp với người bị thiệt hại26.
Yêu cầu này cũng được ghi nhận minh
thị trong quy định tại Điều 362 BLDS 2015,
theo đó: “Bên có quyền phải áp dụng các
biện pháp cần thiết, hợp lý để thiệt hai không
xảy ra hoặc hạn chế thiệt hại cho mình”.
Mặc dù quy định này đã truyền đạt
quan điểm rõ ràng của nhà làm luật muốn
áp đặt bên có quyền yêu cầu hành xử thiện
chí để giảm thiểu mức thiệt hại, tuy nhiên,
rõ ràng điều khoản này không chỉ rõ hậu quả
pháp lý khi bên có quyền có cơ hội giảm
thiểu thiệt hại nhưng đã bỏ mặc thiệt hại
xảy ra. Có lẽ, hướng tiếp cận của Điều 7.4.8
PICC sẽ lấp được chỗ trống đó trong BLDS
2015 khi điều luật quy định trực tiếp:
“1. Bên có nghĩa vụ không chịu trách
nhiệm đối với thiệt hại mà bên có quyền
lẽ ra có thể hạn chế được bằng những biện
pháp hợp lý.
2. Bên có quyền có thể đòi đền bù
những chi phí hợp lý đã bỏ ra nhằm hạn chế
thiệt hại”.
3. Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng
Một trong những quy định mới đáng
chú ý của BLDS 2015 là việc lần đầu tiên
BLDS Việt Nam đã minh thị buộc thực hiện
đúng hợp đồng như là chế tài mặc định xử
lý việc vi phạm hợp đồng.27 Về phạm vi áp
dụng, quy định này của BLDS 2015 còn có
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
21Số 9(385) T5/2019
thể xem là bước tiến so với quy định của
Luật Thương mại 2005 vốn chỉ giới hạn việc
buộc thực hiện đúng hợp đồng đối với một
số loại vi phạm28. Tuy nhiên, từ góc độ pháp
luật hợp đồng so sánh, có lẽ quy định trong
BLDS 2015 vẫn còn những hạn chế sau:
thiếu hiệu năng do không được thiết kế kèm
cơ chế bảo đảm thực thi hiệu quả; không
dự liệu khả năng bên có quyền có thể lạm
dụng quyền của mình ảnh hưởng thái quá tới
quyền lợi phía bên kia.
3.1 Cơ chế bảo đảm thực thi
Một câu hỏi đặt ra là trong trường
hợp ngay cả khi đã bị tuyên phải buộc thực
hiện đúng hợp đồng, nếu như bên vi phạm
cố tình không thực hiện hợp đồng, luật hợp
đồng có cơ chế bổ sung nào không để đảm
bảo thi hành chế tài buộc thực hiện đúng
hợp đồng hay không? Pháp luật dân sự Việt
Nam, trong chừng mực nhất định, đã thiết
kế cơ chế bổ sung đối với một loại trách
nhiệm cụ thể là trách nhiệm do chậm thực
hiện nghĩa vụ trả tiền. Khoản 1 Điều 357
BLDS 2015 quy định, “trường hợp bên có
nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi
đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời
gian chậm trả”29. Tuy nhiên, ngoài trường
hợp trên, BLDS 2015 đã không dự liệu cơ
chế bảo đảm thực thi có tính tổng quát cho
tất cả các loại nghĩa vụ30. Chính vì vậy, có ý
kiến đã khuyến nghị rằng, Việt Nam có thể
tham khảo kinh nghiệm của Pháp khi Toà
án Pháp được phép áp dụng biện pháp phạt
“astreinte”31 cho việc chậm hoặc không thực
hiện nghĩa vụ mà Toà án buộc bên vi phạm
28 Xem khoản 2, Điều 297 BLDS.
29 Án lệ 09/2016/AL cũng thừa nhận giải pháp tương tự khi giải thích điều 360 LTM 2005.
30 Thực ra, nếu áp dụng các quy định về thi hành án dân sự, có 2 cơ chế được pháp luật Việt Nam ghi nhận tại khoản 1
Điều 118 LTHADS năm 2008 (sửa đổi năm 2014) theo đó “ a) Trường hợp công việc đó có thể giao cho người khác
thực hiện thay thì Chấp hành viên giao cho người có điều kiện thực hiện; chi phí thực hiện do người phải thi hành án
chịu; b) Trường hợp công việc đó phải do chính người phải thi hành án thực hiện thì Chấp hành viên đề nghị cơ quan
có thẩm quyền truy cứu trách nhiệm hình sự về tội không chấp hành án”.
31 Về lịch sử của biện pháp astreinte, xem Hugh Beale, Cases, Materials and Text on Contract Law, Hart Publishing 2010,
tr.843.
32 Đỗ Văn Đại, Các biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng trong pháp luật hợp đồng Việt Nam, Sđd, tr.65
33 Xem bình luận Điều 7.2.4 PICC.
phải thực hiện32.
Thực tế, kinh nghiệm áp dụng biện
pháp astreinte được thừa nhận là rất hiệu
quả, vì nó tạo ra cơ chế bổ sung có đủ sức
răn đe bên vi phạm cần thi hành quyết định
của Toà về việc buộc thực hiện đúng hợp
đồng nếu không muốn tiếp tục gánh chịu
thêm hậu quả bất lợi nữa33. Vì vậy, PICC
đã dung nạp biện pháp trên để thiết lập một
điều khoản về chế tài bổ sung mang tính tiền
tệ, áp dụng cho mọi quyết định buộc thực
hiện, kể cả những quyết định về việc thanh
toán một khoản tiền. Cụ thể, Điều 7.2.4
PICC quy định: “1. Trong trường hợp Toà
án quyết định bên có nghĩa vụ phải thực hiện
đúng nghĩa vụ, mà bên có nghĩa vụ không
tuân thủ quyết định của Toà, thì Toà án cũng
có thể buộc họ phải trả một khoản vi phạt;
2. Khoản tiền phạt này được thanh toán cho
bên có quyền, trừ trường hợp quy phạm bắt
buộc ở nơi xét xử có quy định khác. Việc
thanh toán tiền phạt không làm mất đi quyền
đòi BTTH của bên có quyền”.
3.2 Những trường hợp ngoại lệ không áp
dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng
Liên quan đến chế tài buộc thực hiện
đúng hợp đồng trong pháp luật Việt Nam,
dường như cách thiết kế điều khoản này
trong BLDS 2015 đang theo hướng nguyên
tắc áp dụng buộc thực hiện đúng hợp đồng
là tuyệt đối, không có bất kỳ ngoại lệ nào.
Trong khi đó, pháp luật hợp đồng so sánh
đã chỉ rõ, ngay cả ở những nước theo truyền
thống dân luật khi buộc thực hiện đúng hợp
đồng là chế tài hiển nhiên cần áp dụng khi
xảy ra vi phạm hợp đồng thì nó cũng có
những giới hạn nhất định để bảo vệ quyền
của bên đối tác. Trên cơ sở đó, PICC đã khái
quát hoá các trường hợp mà bên có quyền
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
22 Số 9(385) T5/2019
cũng không thể yêu cầu buộc thực hiện đúng
hợp đồng:
1. Không thể thực hiện được nghĩa vụ
theo quy định của pháp luật hay trên thực tế;
2. Việc thực hiện nghĩa vụ đòi hỏi
những nỗ lực hoặc khoản chi phí thái quá
(bất hợp lý so với lợi ích của bên có quyền);
3. Bên có quyền có thể vẫn nhận
được việc thực hiện một cách hợp lý từ các
phương cách khác;
4. Việc thực hiện nghĩa vụ mang tính
nhân thân tuyệt đối;
5. Bên có quyền không yêu cầu thực
hiện nghĩa vụ trong một thời gian hợp lý kể
từ thời điểm bên này biết hoặc buộc phải
biết về việc không thực hiện nghĩa vụ34.
Đối chiếu với quy định của pháp luật
hợp đồng Việt Nam, chúng ta cũng có thể
tìm thấy một số giải pháp có chức năng
tương tự. Chẳng hạn, khoản 1 Điều 356
34 Xem Điều 7.2.2 PICC.
BLDS 2015 cho phép, đối với nghĩa vụ giao
vật đặc định, nếu vật không còn hoặc bị hư
hỏng thì bên có nghĩa vụ chỉ phải thanh toán
giá trị của vật. Hay các quy định chung như
quy định về giới hạn việc thực hiện quyền
dân sự tại Điều 10 BLDS 2015 cấm các
chủ thể được lạm dụng quyền của mình,
quy định về nguyên tắc thiện chí tại Điều 3
BLDS 2015 đều có thể được giải thích bởi
Toà án để “kiềm chế” việc áp dụng chế tài
buộc thực hiện đúng hợp đồng khi nó tạo ra
sự bất công bằng thái quá cho một bên hợp
đồng. Tuy nhiên, việc tiếp cận theo hướng
giải thích quy định chung của BLDS luôn
tự thân hàm chứa trong mình tính bất ổn,
BLDS 2015 chưa có cách tiếp cận mang tính
hệ thống và đầy đủ như quy định tương tự
của PICC về việc cân bằng giữa quyền yêu
cầu buộc thực hiện hợp đồng của một bên
với lợi ích chính đáng của bên kia
NGUYÊN TẮC PHÁP QUYỀN...
(Tiếp theo trang 8)
pháp quyền ở nước ta. Sự ghi nhận nguyên
tắc pháp quyền trong văn kiện của Đảng và
trong đạo luật có hiệu lực cao nhất là Hiến
pháp đã phản ánh quyết tâm rất lớn của Đảng
và Nhà nước trong việc xây dựng Nhà nước
pháp quyền với các giá trị phổ biến.
4. Kết luận
Từ các quy định của pháp luật quốc
tế, của EU, của ASEAN, của Hiến pháp một
số nước và Hiến pháp hiện hành của nước
ta đã dẫn ở trên có thể xác định pháp quyền
là nguyên tắc hiến định, là một trong những
nguyên tắc cơ bản thuộc nhóm nguyên tắc
chung không thể thiếu của Nhà nước pháp
quyền. Với tính chất đó, nguyên tắc pháp
quyền tồn tại trong mối quan hệ có tính hệ
thống và trong sự tác động qua lại với các
nguyên tắc khác của nhà nước pháp quyền.
Do đó, không thể nhìn nhận nguyên tắc pháp
quyền tách rời với các nguyên tắc khác của
nhà nước pháp quyền. Hiệu quả thực hiện
nguyên tắc pháp quyền ảnh hưởng đến hiệu
quả thực hiện các nguyên tắc khác của nhà
nước pháp quyền. Ngược lại, hiệu quả thực
hiện các nguyên tắc khác của nhà nước pháp
quyền cũng tác động, ảnh hưởng đến hiệu
quả thực hiện nguyên tắc pháp quyền. Vì vậy,
một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong
phương hướng xây dựng và hoàn thiện nhà
nước pháp quyền XHCN ở nước ta là tiếp tục
hiện thực hóa các nguyên tắc của Nhà nước
pháp quyền đã được ghi nhận trong Hiến
pháp, trong đó có nguyên tắc pháp quyền.
Việc thực hiện nguyên tắc pháp quyền cần
tiến hành đồng bộ với thực hiện các nguyên
tắc khác của Nhà nước pháp quyền
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
23Số 9(385) T5/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_van_de_ve_bien_phap_xu_ly_viec_khong_thuc_hien_dung_h.pdf