Xác định vai trò tiểu ban của Hội
đồng Dân tộc, các Ủy ban
Khoản 4, Điều 67 Luật Tổ chức Quốc hội
năm 2014 quy định Hội đồng Dân tộc và các
Ủy ban của Quốc hội thành lập các tiểu ban
để nghiên cứu, chuẩn bị các vấn đề thuộc
lĩnh vực hoạt động của Hội đồng, Ủy ban.
Trưởng tiểu ban phải là thành viên của Hội
đồng, Ủy ban, các thành viên khác có thể
không phải là thành viên của Hội đồng, Ủy
ban hoặc không phải là đại biểu Quốc hội.
Như vậy, bên cạnh Thường trực Hội đồng,
Ủy ban là cơ quan hoạt động mang tính
thường xuyên thì trong cơ cấu tổ chức của
Hội đồng, Ủy ban còn có các tiểu ban. Trên
thực tế, một số Ủy ban đã thành lập tiểu ban,
một số Ủy ban chỉ thành lập các nhóm công
tác. Với một cơ chế mở về thành viên tham
gia các tiểu ban như trên thì cần xác định
rõ vị trí, vai trò của tiểu ban để từ đó xác
định mối quan hệ giữa tiểu ban và Thường
trực Hội đồng, Ủy ban để tránh chồng chéo
trong phạm vi hoạt động và trong chỉ đạo
điều hành công công việc
trình với tư cách là một phương thức kiểm
soát quyền lực nhà nước trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
+ Thẩm tra tính hợp hiến, hợp pháp
của các dự án luật đưa trình;
+ Thẩm tra tính phù hợp ý nguyện của
Nhân dân đối với các chính sách đề ra trong
dự án luật;
+ Thẩm tra tính khả thi của các chính
sách trong dự án luật đưa trình;
+ Thẩm tra việc ủy quyền lập pháp
trong dự án luật đưa trình;
+ ĐBQH, các cơ quan của Quốc hội,
Quốc hội phân tích, bình luận, phản biện đối
với các chính sách thể hiện trong dự án luật.
Chính phủ và các cơ quan có thẩm quyền đưa
trình dự án luật phải giải trình bảo vệ, lập luận,
thuyết phục một cách khoa học và thực tiễn
các chính sách đã đề ra trước các ý kiến của
các cơ quan của Quốc hội, của các ĐBQH.
Chừng nào các lý lẽ đưa ra chưa thuyết phục
được Quốc hội thì mới “thỏa hiệp” để tìm
phương án chính sách tối ưu nhất được cả
Quốc hội và Chính phủ đồng tình.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 216 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số vấn đề về cơ cấu tổ chức của thường trực hội đồng dân tộc, các ủy ban của quốc hội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA THƯỜNG TRỰC
HỘI ĐỒNG DÂN TỘC, CÁC ỦY BAN CỦA QUỐC HỘI
Tóm tắt:
Sự thay đổi các quy định về cơ cấu tổ chức của Thường trực Hội
đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội trong các văn bản pháp luật
từ năm 2001 đến nay cho thấy còn một số vấn đề chưa được lý giải
thấu đáo, dẫn đến tình trạng thiếu thống nhất và gây lúng túng trong
thực hiện. Xác định rõ tiêu chí phân biệt các chức danh của các thành
viên, mối quan hệ giữa các thành viên trong Hội đồng Dân tộc, các
Ủy ban của Quốc hội sẽ là các giải pháp cơ bản để hoàn thiện các
quy định về cơ cấu tổ chức Thường trực Hội đồng Dân tộc, các Ủy
ban của Quốc hội hiện nay.
Hoàng Thị Lan*
* ThS. Vụ Công tác đại biểu, Văn phòng Quốc hội
Abstract
The changes of the legal regulations on organization and structure
of the standing members of the Ethnics Council, of the Committees
of the National Assembly in legal documents since 2001 shows
that there are still some issues that have not been thoroughly
addressed, which leads to the inconsistency and embarrassment in
their performance. Clear definition of the criteria for distinguishing
the titles of the members, the relationship among the members of
the Ethnics Council and the Committees of the National Assembly
is the substantial ground for proper solutions to improve the
regulations on organization and structure of the standing members
of the Ethnics Council, the Committees of the National Assembly.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Luật Tổ chức Quốc hội; các
cơ quan của Quốc hội; Thường trực
Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của
Quốc hội
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 09/05/2019
Biên tập : 12/06/2019
Duyệt bài : 19/06/2019
Article Infomation:
Keywords: Law on Organization of
the National Assembly; agencies of the
National Assembly; standing members of
the Ethnics Council, of the Committees
of the National Assembly.
Article History:
Received : 09 May 2019
Edited : 12 Jun 2019
Approved : 19 Jun 2019
1. Lịch sử ra đời của Hội đồng Dân tộc
và các Ủy ban trong cơ cấu tổ chức của
Quốc hội
Ở Việt Nam, Quốc hội đã trải qua 14
nhiệm kỳ nhưng cơ quan chuyên môn (gồm
Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban) chỉ hình
1 Ủy ban Dự án pháp luật và Ủy ban Kế hoạch và Ngân sách
thành từ nhiệm kỳ Quốc hội khóa II (năm
1960). Số lượng các Ủy ban có xu hướng phát
triển từ 02 Ủy ban1 (Quốc hội khóa II) thành
5 - 6 Ủy ban (Quốc hội khóa III-VI), tăng
thành 8 Ủy ban (Quốc hội khóa VII - XI) và
10 Ủy ban (từ Quốc hội khóa XII đến nay).
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
35Số 13(389) T7/2019
Việc tăng số lượng các Ủy ban trên cơ sở
tách nội dung để thành lập các Ủy ban mới
đảm bảo phù hợp với tính tập trung chuyên
môn. Duy nhất chỉ có một lần sáp nhập 2
Ủy ban (Ủy ban Văn hóa và Giáo dục với
Ủy ban Thanh niên, Thiếu niên, Nhi đồng)
thành Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh
niên, Thiếu niên và Nhi đồng. Tên gọi các
Ủy ban căn cứ lĩnh vực hoạt động của Ủy
ban và chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội.
Hiện nay, Quốc hội Việt Nam gồm
Hội đồng Dân tộc và 9 Ủy ban2. Chức năng,
nhiệm vụ của Hội đồng Dân tộc, các Ủy
ban của Quốc hội Việt Nam tựu chung có 3
nhóm chính: thẩm tra dự án luật, pháp lệnh,
nghị quyết, giám sát thực hiện pháp luật,
kiến nghị xây dựng pháp luật, chính sách
thuộc lĩnh vực hoạt động của Hội đồng Dân
tộc, các Ủy ban.
Trong điều kiện đất nước ta có nhiều
dân tộc và để thuận lợi trong thể chế hóa,
giám sát thực hiện chính sách dân tộc của
Đảng và Nhà nước, Hội đồng Dân tộc có
vị trí pháp lý đặc biệt hơn so với các Ủy
ban. Tính chất đặc biệt được thể hiện trong
mối quan hệ giữa Hội đồng Dân tộc với
Chính phủ, với Ủy ban thường vụ Quốc hội
(UBTVQH). Theo quy định của Hiến pháp,
Hội đồng Dân tộc không những chỉ hoạt
động trong phạm vi thẩm quyền của Quốc
hội như các Uỷ ban khác mà được tham gia
vào hoạt động của Chính phủ khi Chính phủ
quyết định các vấn đề liên quan đến chính
sách dân tộc3.
Sơ lược về lịch sử hình thành và phát
triển cho thấy, Ủy ban được hình thành từ yêu
cầu tất yếu đảm bảo tính chuyên môn trong
quyết định của Quốc hội. Các lợi ích từ việc
2 Ủy ban Quốc phòng - An ninh, Ủy ban Tư pháp, Ủy ban Pháp luật, Ủy ban Đối ngoại, Ủy ban Kinh tế, Ủy ban Tài
chính - Ngân sách, Ủy ban Khoa học Công nghệ và Môi trường, Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và
Nhi đồng, Ủy ban Các vấn đề xã hội.
3 Khoản 3, Điều 75 Hiến pháp 2013 quy định: Chủ tịch Hội đồng Dân tộc được mời tham dự phiên họp của Chính phủ
bàn về việc thực hiện chính sách dân tộc. Khi ban hành quy định thực hiện chính sách dân tộc, Chính phủ phải lấy ý
kiến của Hội đồng Dân tộc.
4 Nghị quyết Nghị quyết 730/2004/NQ-UBTVQH11 việc phê chuẩn bảng lương chức vụ, bảng phụ cấp chức vụ đối với
cán bộ lãnh đạo của Nhà nước, bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ ngành Toà án, ngành Kiểm sát
thành lập các Ủy ban được chứng minh bởi
các lý do: (i) Duy trì hệ thống Ủy ban giúp
cho công việc của Quốc hội được chia nhỏ
thành những nội dung cụ thể; (ii) Giúp cho
các đại biểu được chuyên môn hóa và dễ dàng
hơn trong việc tiếp cận với công việc phù hợp
với trình độ chuyên môn; (iii) Dễ dàng tiến
hành thu thập và xử lý thông tin làm cơ sở
cho các quyết định của Quốc hội.
2. Cơ cấu tổ chức của Thường trực Hội
đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội
Ngày 15/6/2004, Quốc hội ban hành
Nghị quyết 27/2004/NQ-QH11 về Quy chế
hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban
của Quốc hội. Đây là văn bản đầu tiên quy
định về cơ cấu tổ chức của Thường trực Hội
đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội. Theo
đó, Thường trực Hội đồng Dân tộc, các Ủy
ban của Quốc hội gồm Chủ tịch/Chủ nhiệm,
Phó Chủ tịch/Phó Chủ nhiệm và một số Ủy
viên thường trực là Ủy viên hoạt động chuyên
trách tại Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban.
Năm 2010, UBTVQH ban hành Nghị
quyết 888/NQ-UBTVQH12 sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị quyết 730/2004/
NQ-UBTVQH114, trong đó bổ sung thêm
chức danh Ủy viên Thường trực của Hội
đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội có
hệ số phụ cấp 1,25. Khi xét về tính logic của
các văn bản trên, có thể hiểu Ủy viên hoạt
động chuyên trách và Ủy viên thường trực
được “tích hợp” thành một tên gọi là “Ủy
viên thường trực”, có tính chất hoạt động
là “chuyên trách”. Tuy nhiên, Luật Tổ chức
Quốc hội năm 2014 lại quy định tách rời Ủy
viên Thường trực và Ủy viên chuyên trách
thành 2 chức danh khác nhau, trong đó Ủy
viên thường trực là thành viên của Thường
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
36 Số 13(389) T7/2019
trực Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban5. Trong
khi đó, hai chức danh đều do UBTVQH phê
chuẩn và có quyền như nhau trong việc được
mời tham dự các phiên họp của UBTVQH
(khoản 4, Điều 60).
Theo quy định của Luật Tổ chức Quốc
hội năm 2001, chức danh Chủ tịch/Chủ
nhiệm, Phó Chủ tịch/Phó Chủ nhiệm và Ủy
viên do Quốc hội bầu, UBTVQH sẽ quyết
định số thành viên hoạt động chuyên trách
của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban. Nhưng
theo quy định của Luật Tổ chức Quốc hội
năm 2014 thì chỉ có chức danh Chủ tịch/Chủ
nhiệm được Quốc hội bầu, các chức danh
khác do UBTVQH phê chuẩn theo đề nghị
của Chủ tịch/Chủ nhiệm Hội đồng Dân tộc,
các Ủy ban. Điều đó cho thấy vai trò của
Chủ tịch/Chủ nhiệm và UBTVQH trong
việc tạo thành cơ cấu tổ chức của Thường
trực Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban.
Điểm khác biệt giữa Luật Tổ chức
Quốc hội năm 2001 và Luật Tổ chức Quốc
hội năm 2014 phản ánh sự thay đổi nhận thức
về cơ cấu, cách thức hình thành Thường trực
của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc
hội. Tuy nhiên, sự thay đổi này chưa thực
sự phù hợp với tính chất hoạt động “thường
trực” của một cơ quan. Sẽ có tình trạng một
Phó Chủ tịch/Phó Chủ nhiệm kiêm nhiệm
khó dành đủ thời gian để tham gia thường
xuyên các hoạt động của Hội đồng, các Ủy
ban, trong khi một Ủy viên chuyên trách
hoạt động thường xuyên tại Hội đồng, các
Ủy ban lại không phải là thành viên của
Thường trực. Sự thiếu rõ ràng và ràng buộc
tính “chuyên trách” dễ dẫn đến việc bố trí
nhân sự không phù hợp với tính chất hoạt
động “thường trực”. Ngoài ra, chưa có cơ
sở lý luận và căn cứ pháp lý thống nhất về
điều kiện, tiêu chí, tiêu chuẩn phân biệt để
quyết định một thành viên của Hội đồng, các
Ủy ban là “Ủy viên thường trực” hay “Ủy
viên chuyên trách”. Hiện nay, yếu tố để phân
biệt Ủy viên thường trực và Ủy viên chuyên
5 Khoản 3, Điều 67 Luật Tổ chức Quốc hội quy định: Thường trực Hội đồng Dân tộc gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các
Ủy viên thường trực. Thường trực Ủy ban của Quốc hội gồm Chủ nhiệm, các Phó Chủ nhiệm và các Ủy viên thường trực.
6 Ủy viên thường trực có hệ số phụ cấp là 1,25; Ủy viên chuyên trách hệ số phụ cấp là 1.05 hoặc 1.2
trách chỉ được nhìn thấy thông qua hệ số phụ
cấp6 và các chế độ chính sách khác đi kèm
như chế độ xe, công tác phí..., nghĩa là tiêu
chí chỉ rõ khi chức danh đã được xác định,
chính xác hơn là sau khi được UBTVQH
phê chuẩn. Như vậy, việc trở thành “ai”, có
vị trí thế nào trong Hội đồng Dân tộc, các
Ủy ban của Quốc hội không được căn cứ
vào các quy định pháp luật mà phụ thuộc
vào ý chí chủ quan của chủ thể trình và chủ
thể quyết định.
3. Một số đề nghị hoàn thiện quy định của
pháp luật về Thường trực Hội đồng Dân
tộc, các Ủy ban của Quốc hội
3.1 Xác định lại cơ cấu của Thường
trực Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của
Quốc hội
Theo Luật Tổ chức Quốc hội năm
2014, Ủy viên chuyên trách của Hội đồng
Dân tộc, các Ủy ban không phải là thành
viên của Thường trực Hội đồng Dân tộc,
các Ủy ban. Trên thực tế, thành viên chuyên
trách được tham gia các hoạt động của
Thường trực, đảm bảo yếu tố về thời gian,
chuyên môn phù hợp với yêu cầu hoạt động
của Hội đồng, các Ủy ban. Do không phải là
thành viên của Thường trực nên các Ủy viên
không có quyền bỏ phiếu trong các phiên
họp Thường trực của Hội đồng, Ủy ban.
Nên hiểu “thường trực” là một trạng
thái hoạt động, “chuyên trách” để xác định
tính chuyên nghiệp và phạm vi trách nhiệm
trong việc thực nhiệm vụ. Khi đó, “thường
trực” và “chuyên trách” là các khái niệm
rất khó để so sánh và phân biệt vì hai khái
niệm này không cùng một thang bảng để đối
chiếu. Mặt khác, một trạng thái hoạt động
không nên được sử dụng để đặt tên cho một
chức danh, cụ thể ở đây là chức danh Ủy
viên thường trực.
Trước những băn khoăn về tiêu chí
phân biệt thế nào là Ủy viên thường trực,
Ủy viên chuyên trách thì chúng ta nên nhận
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
37Số 13(389) T7/2019
thức lại đúng tính chất “thường trực” của
một cơ quan để lựa chọn nhân sự phù hợp
đảm bảo tính chất hoạt động thường xuyên
của cơ quan đó. Chúng tôi cho rằng, cần dựa
vào tiêu chí về sự đảm bảo hoạt động thường
xuyên và có chuyên môn phù hợp với lĩnh
vực hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các
Ủy ban để xác định số lượng, nhân sự cụ thể.
Theo đó, Thường trực Hội đồng Dân tộc,
các Ủy ban của Quốc hội là một nhóm các
đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách
tại Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc
hội, bao gồm: Chủ tịch/Chủ nhiệm, Phó Chủ
tịch/Phó Chủ nhiệm và các Ủy viên chuyên
trách. Việc xác định chế độ phụ cấp cùng
các chế độ vật chất khác đối với các chức
danh của Thường trực Hội đồng Dân tộc,
các Ủy ban phụ thuộc vào chính sách chung
của Đảng và Nhà nước đối với hoạt động
của Quốc hội.
3.2 Tăng số lượng và nâng cao chất
lượng hoạt động của thành viên Thường
trực Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban
Hiệu quả hoạt động của Hội đồng
Dân tộc, các Ủy ban phụ thuộc vào hiệu quả
hoạt động của cơ quan Thường trực. Hiệu
quả hoạt động của Thường trực phụ thuộc
vào hiệu quả hoạt động của từng đại biểu.
Theo thống kê, số lượng các thành viên của
Thường trực Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban
tăng qua các nhiệm kỳ là một trong những
nội dung khi thực hiện chính sách tăng số
lượng đại biểu chuyên trách để hoạt động
của Quốc hội từng bước chuyên nghiệp, hiệu
quả. Tuy nhiên, tỷ lệ tăng đại biểu chuyên
trách và tăng số thành viên của Thường trực
Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban chưa tương
xứng. Số lượng đại biểu chuyên trách khóa
XIV là 34%, trong đó số thành viên Thường
trực của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của
Quốc hội đạt từ 15 - 20%7. Do vậy, để nâng
cao chất lượng hoạt động của Thường trực
Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội
thì trước hết phải tăng số lượng thành viên
tương ứng với chủ trương tăng số đại biểu
Quốc hội chuyên trách nói chung.
7 Hiện nay, Ủy ban Pháp luật có số lượng Thường trực Ủy ban cao nhất là 12 người, chiếm 28%.
8 Khoản 3, Điều 67 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014.
Cùng với việc tăng về lượng thì cần
nâng cao chất lượng hoạt động để đại biểu
chuyên trách ở trung ương phải là người
định hướng cho hoạt động của Quốc hội, của
các cơ quan của Quốc hội. Các thành viên
của Thường trực Hội đồng Dân tộc, các Ủy
ban của Quốc hội đồng thời phải phát huy
trách nhiệm với ba vai trò: thứ nhất, trách
nhiệm với cử tri; thứ hai, trách nhiệm với
Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban; thứ ba, trách
nhiệm với hoạt động của Thường trực Hội
đồng Dân tộc, các Ủy ban. Do đó, nâng cao
chất lượng thành viên của Thường trực Hội
đồng Dân tộc, các Ủy ban phải là nâng cao
chất lượng tổng thể, bao gồm các tiêu chí để
thực hiện được trách nhiệm với ba vai trò
trên, bao gồm: trình độ chuyên môn, kinh
nghiệm công tác, yếu tố thời gian công tác
và các điều kiện cá nhân khác.
3.3 Xác định rõ vị trí pháp lý của
Thường trực Hội đồng, các Ủy ban và sự
tham gia của các Ủy viên kiêm nhiệm tại
Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban
Theo quy định, Thường trực Hội đồng
Dân tộc, Thường trực Ủy ban của Quốc hội
không phải là một cơ quan có vị trí độc lập,
mà chỉ là một bộ phận thường trực giúp Hội
đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội giải
quyết các công việc thường xuyên của Hội
đồng, Ủy ban trong thời gian Hội đồng, Ủy
ban không họp8. Hiện nay, rất nhiều việc do
Thường trực Hội đồng, Ủy ban quyết định
nhưng văn bản pháp lý lại được thể hiện
dưới tên của Hội đồng, Ủy ban. Về nguyên
tắc, nếu văn bản đứng tên Hội đồng, Ủy ban
thì phải do Hội đồng, Ủy ban bàn bạc quyết
định. Trong khi đó, Khoản 1 Điều 68 Luật Tổ
chức Quốc hội năm 2014 quy định nguyên
tắc “Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc
hội làm việc theo chế độ tập thể và quyết
định theo đa số". Ngoài ra, với tỷ lệ thành
viên của Thường trực chỉ chiếm khoảng
20% trong tổng số thành viên của Hội đồng
Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội thì việc
triệu tập 80% đại biểu kiêm nhiệm để có một
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
38 Số 13(389) T7/2019
cuộc họp toàn thể của Hội đồng Dân tộc, các
Ủy ban là không phải dễ thực hiện.
Với những quy định và thực tế trên,
cần xác định rõ địa vị pháp lý của Thường
trực Hội đồng, Ủy ban để việc điều hành
công việc rõ ràng, xác định rõ vị trí độc lập
của Thường trực Hội đồng, các Ủy ban. Với
những nhiệm vụ quy định tại Điều 86 Luật
Tổ chức Quốc hội năm 2014 thì Thường
trực Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban được
xác định chỉ là cơ quan có nhiệm vụ “giúp
Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban” hay không?
Đồng thời, cần quy định rõ phạm vi công
việc nào Thường trực Hội đồng Dân tộc, các
Ủy ban được giải quyết, trường hợp nào phải
tổ chức phiên họp toàn thể. Ngoài ra, giá trị
biểu quyết của các thành viên Hội đồng Dân
tộc, các Ủy ban là ngang bằng nhau là một
quy định tạo nên tính hình thức trong quyết
định của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban.
Chúng tôi cho rằng, song song với việc
tăng số thành viên Thường trực thì cần xác
định tính độc lập của Thường trực Hội đồng
Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội. Đồng
thời quy định sự ràng buộc trong tham gia
hoạt động của các thành viên kiêm nhiệm,
giá trị biểu quyết của các thành viên kiêm
nhiệm trước khi Hội đồng Dân tộc, các Ủy
ban biểu quyết tại các phiên họp toàn thể.
3.4 Xác định vai trò tiểu ban của Hội
đồng Dân tộc, các Ủy ban
Khoản 4, Điều 67 Luật Tổ chức Quốc hội
năm 2014 quy định Hội đồng Dân tộc và các
Ủy ban của Quốc hội thành lập các tiểu ban
để nghiên cứu, chuẩn bị các vấn đề thuộc
lĩnh vực hoạt động của Hội đồng, Ủy ban.
Trưởng tiểu ban phải là thành viên của Hội
đồng, Ủy ban, các thành viên khác có thể
không phải là thành viên của Hội đồng, Ủy
ban hoặc không phải là đại biểu Quốc hội.
Như vậy, bên cạnh Thường trực Hội đồng,
Ủy ban là cơ quan hoạt động mang tính
thường xuyên thì trong cơ cấu tổ chức của
Hội đồng, Ủy ban còn có các tiểu ban. Trên
thực tế, một số Ủy ban đã thành lập tiểu ban,
một số Ủy ban chỉ thành lập các nhóm công
tác. Với một cơ chế mở về thành viên tham
gia các tiểu ban như trên thì cần xác định
rõ vị trí, vai trò của tiểu ban để từ đó xác
định mối quan hệ giữa tiểu ban và Thường
trực Hội đồng, Ủy ban để tránh chồng chéo
trong phạm vi hoạt động và trong chỉ đạo
điều hành công công việc■
ĐỔI MỚI QUY TRÌNH LẬP PHÁP...
(Tiếp theo trang 34)
trình với tư cách là một phương thức kiểm
soát quyền lực nhà nước trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
+ Thẩm tra tính hợp hiến, hợp pháp
của các dự án luật đưa trình;
+ Thẩm tra tính phù hợp ý nguyện của
Nhân dân đối với các chính sách đề ra trong
dự án luật;
+ Thẩm tra tính khả thi của các chính
sách trong dự án luật đưa trình;
+ Thẩm tra việc ủy quyền lập pháp
trong dự án luật đưa trình;
+ ĐBQH, các cơ quan của Quốc hội,
Quốc hội phân tích, bình luận, phản biện đối
với các chính sách thể hiện trong dự án luật.
Chính phủ và các cơ quan có thẩm quyền đưa
trình dự án luật phải giải trình bảo vệ, lập luận,
thuyết phục một cách khoa học và thực tiễn
các chính sách đã đề ra trước các ý kiến của
các cơ quan của Quốc hội, của các ĐBQH.
Chừng nào các lý lẽ đưa ra chưa thuyết phục
được Quốc hội thì mới “thỏa hiệp” để tìm
phương án chính sách tối ưu nhất được cả
Quốc hội và Chính phủ đồng tình.
Ba là, phát huy vai trò của Nhân dân
trong hoạt động lập pháp:
Trong tất cả các giai đoạn của quy
trình lập pháp cần có quy định vai trò giám
sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam đồng thời thu hút thực chất Nhân
dân tham gia vào hoạt động lập pháp■
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
39Số 13(389) T7/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_van_de_ve_co_cau_to_chuc_cua_thuong_truc_hoi_dong_dan.pdf