Kiến nghị hoàn thiện
Do đó, thấy rằng cần bỏ khoản 3 Điều
62 BLTTHS năm 2015 để đảm bảo tính
hợp Hiến và hợp pháp, đồng thời cũng
đảm bảo công bằng trong xã hội.
Thứ tư, cần mở rộng quyền yêu cầu của bị
hại đối với một số tội phạm khác trong BLHS
Khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015 (sửa
đổi, bổ sung năm 2017) quy định “Người
thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội
phạm nghiêm trọng do vô ý gây thiệt hại về
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm
hoặc tài sản của người khác và được người
bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự
nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm
hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm
hình sự.”
Quy định trên cho thấy pháp luật
hình sự quy định rất nhiều tội phạm
thuộc trường hợp ít nghiêm trọng hoặc
tội phạm nghiêm trọng do vô ý gây thiệt
hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm hoặc tài sản của người khác
mà bị hại hoặc người đại diện của bị hại
tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách
nhiệm hình sự thì có thể được miễn trách
nhiệm hình sự.
Điều đó cho thấy, những tội phạm
thuộc trường hợp trên cũng giống như
một số tội phạm thuộc trong những
trường hợp quy định tại khoản 1 Điều
155 BLTTHS năm 2015. Nếu không quy
định cụ thể mà chỉ quy định theo hướng
gợi mở “có thể” sẽ dẫn đến sự quyết định
theo cảm tính của những người có thẩm
quyền trong cơ quan tiến hành tố tụng và
rất dễ dẫn đến tham nhũng, tiêu cực, thấy
rằng cần khẳng định vấn đề trên cụ thể
trong điều 155 BLTTHS năm 2015 để đảm
bảo cho pháp luật được thi nghiêm chỉnh
và thống nhất.
Bên cạnh đó, pháp luật quy định chỉ
khởi tố vụ án hình sự khi có yêu cầu bị hại
thuộc trường hợp khoản 1 Điều 134. Trong
khi đó, khoản 7 Điều 134 về việc chuẩn bị
phạm tội nhưng không thuộc trường hợp
khởi tố theo yêu cầu bị hại là không hợp
lý nhưng quy định tại khoản 1 Điều 134
BLHS năm 2015 thì bị hại đã bị thương
tích nếu bị khởi tố người phạm tội sẽ chịu
hình phạt cao hơn trường hợp chuẩn bị
phạm tội. Vì thế, Điều 155 BLTTHS năm
2015 cần mở rộng thêm khoản này.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 206 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số vấn đề về quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của bị hại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
43Số 04 - 2018 Khoa học Kiểm sát
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng đầu tiên mà trong đó cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền
căn cứ vào các quy định của pháp luật tố
tụng hình sự tiến hành việc xác định việc
có (hay không) các dấu hiệu của tội phạm
trong hành vi nguy hiểm cho xã hội đã
được thực hiện, đồng thời ban hành quyết
định về việc khởi tố (hoặc không khởi tố)
vụ án hình sự liên quan đến hành vi đó(1).
Nhà nước thực hiện chức năng khởi tố vụ
án, khởi tố bị can để xử lý những hành vi
nguy hiểm đáng kể cho xã hội do người
có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện
hay pháp nhân thương mại thực hiện xâm
phạm đến quyền, lợi ích của nhà nước,
của xã hội, của người khác và trật tự an
ninh, công cộng, không phụ thuộc vào ý
chí chủ quan của chủ thể thực hiện hành
vi phạm tội. Tuy nhiên, trong giới hạn
của pháp luật hình sự quy định có một
1 Lê Cảm (2004), “Một số vấn đề lý luận chung về
các giai đoạn tố tụng hình sự”, Tạp chí kiểm sát số
tết, (2), tr.26.
số trường hợp khởi tố chủ thể thực hiện
hành vi phạm tội chỉ khi có yêu cầu của
bị hại. Chế định này được quy định cụ thể
từ khi Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS)
năm 1988 được ban hành và thông qua
(Điều 88); BLTTHS năm 2003 tiếp tục ghi
nhận chế định khởi tố vụ án hình sự theo
yêu cầu của bị hại tại Điều 105 và BLTTHS
năm 2015 được kế thừa và quy định như
BLTTHS năm 2003, cụ thể được quy định
tại Điều 155.
Nhận thấy được tác dụng to lớn của
quy định về yêu cầu của bị hại trong
trường hợp pháp luật chỉ được phép
khởi tố theo yêu cầu của bị hại tạo được
sự hài hoà của lợi ích công và tư, bởi bị
hại được phép quyết định lựa chọn cách
giải quyết khác cho mình mà họ nghĩ rằng
đó là cách giải quyết phù hợp để tự dàn
xếp mọi việc liên quan đến quyền và lợi
ích của họ, điều đó góp phần giảm số
lượng các vụ án phải xử lý (có tác dụng
* Thạc sĩ, Phó Viện trưởng VKSND thành phố Cao
Lãnh, tỉnh Đồng Tháp
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ QUYỀN YÊU CẦU KHỞI TỐ
VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA BỊ HẠI
NGÔ VĂN LƯỢNG *
Trên cơ sở những vấn đề lí luận và thực tiễn về giải quyết các vụ án hình
sự liên quan đến yêu cầu khởi tố của bị hại, bài viết chỉ ra một số bất cập
và nhận thức không thống nhất của pháp luật đồng thời kiến nghị sửa đổi,
bổ sung quy định của pháp luật để đáp ứng yêu cầu điều tra, giải quyết các
vụ án hình sự.
Từ khóa: Quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự, bị hại, Bộ luật tố tụng
hình sự.
On the foundation of the theoretical and practical issues on settling the
criminal cases regarding the victims’ requests for prosecution, this article
provides analysis of some inadequate matters, legal inconsistent recognition,
and recommendations in the applications of the law to meet the requirements
of investigation and settlement of criminal cases.
Keywords: Rights to request criminal cases prosecution, victims, the
Criminal Procedure Code.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ QUYỀN YÊU CẦU KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ...
44 Khoa học Kiểm sát Số 04 - 2018
rất lớn) cho các cơ quan tiến hành tố tụng
(có thẩm quyền giải quyết vụ án hình sự ,
giảm tải số lượng án, góp phần trong công
cuộc cải cách tư pháp nước ta)... Nhưng
bên cạnh đó, vẫn không ít những bất cập
còn tồn tại xung quanh chế định này giữa
việc quy định của luật và thực tế áp dụng,
nó gây khó khăn trong quá trình thực thi
không thống nhất ở các cơ quan tiến hành
tố tụng. Cụ thể khoản 1 Điều 155 BLTTHS
năm 2015 quy định: “Chỉ được khởi tố vụ án
hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các
điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155,
156 và 226 của Bộ luật hình sự khi có yêu cầu
của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là
người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về
tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết”.
Pháp luật quy định khởi tố vụ án
hình sự theo yêu cầu của bị hại nhưng
hình thức yêu cầu, thời hạn yêu cầu như
thế nào thì chưa được nhận thức thống
nhất cũng như một số vấn đề liên quan
đến quyền của bị hại.
Thứ nhất, về hình thức yêu cầu của bị hại
Cho đến nay, vẫn chưa có quy định cụ
thể về mẫu yêu cầu khởi tố hay yêu cầu
không khởi tố đối với những vụ án chỉ
được khởi tố theo yêu cầu của bị hại. Thực
tiễn áp dụng đến thời điểm hiện nay, cơ
quan có thẩm quyền chỉ căn cứ vào Thông
tư liên tịch số 05/2005/TTLT-VKSTC-BCA-
BQP ngày 07/9/2005 của Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc
phòng về quan hệ phối hợp giữa Cơ quan
điều tra và Viện kiểm sát trong việc thực
hiện một số quy định của BLTTHS năm
2003 để thực hiện(1). Tuy nhiên, không
phải ai cũng có thể biết cách thức làm đơn
1 Xem mục 7.2 Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT-
VKSTC-BCA-BQP ngày 07/9/2005của Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng về
quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện
kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của
Bộ luật TTHS năm 2003.
yêu cầu, khi có sự việc xảy ra bị hại đến
cơ quan có thẩm quyền yêu cầu thì người
tiến hành tố tụng chỉ dẫn mỗi nơi một
kiểu gây khó khăn cho bị hại, và đó cũng
là một trong những nguyên nhân dẫn đến
tiêu cực phát sinh.
Kiến nghị hoàn thiện
Để pháp luật thực hiện thống nhất,
tránh trường hợp khi yêu cầu không xử
lý sau đó lại khiếu nại vì những yêu cầu
chưa cụ thể và để tránh tình trạng gây khó
khăn, đảm bảo việc giải quyết một cách
thống nhất, thiết nghĩ cần có sự hướng
dẫn thống nhất chung về hình thức đơn
yêu cầu. Theo đó, đơn yêu cầu cần thể
hiện rõ tên tuổi, nơi đăng ký hộ khẩu
thường trú hay địa chỉ nơi cơ quan tổ chức
có trụ sở và người đại diện. Đối với yêu
cầu của người đại diện cho người chưa
thành niên thì phải có chữ ký và ý chí về
nội dung yêu cầu của người chưa thành
niên. Trong yêu cầu phải có cam kết về nội
dung đã yêu cầu và chịu trách nhiệm án
phí trong những điều kiện nhất định, giao
cho Chính phủ ban hành biểu mẫu hướng
dẫn thi hành.
Bên cạnh đó cần quy định cụ thể, khi
bị hại đã tố cáo các trường hợp tội phạm
thuộc trường hợp khởi tố theo yêu cầu bị
hại thì không cần phải làm đơn yêu cầu
khởi tố vụ án vì khi họ đã tố cáo là thể
hiện ý chí của họ không thống nhất với
hành vi vi phạm của người thực hiện
hành vi phạm tội.
Quy định được như trên sẽ tạo điều
kiện cho mọi người thuận lợi trong việc
đưa ra yêu cầu của mình trước cơ quan
có thẩm quyền, đồng thời đảm bảo trách
nhiệm của người đưa ra yêu cầu trước
nhà nước, tạo cơ sở cho pháp luật thông
thoáng, thuận lợi, tránh tình trạng người
NGÔ VĂN LƯỢNG
45Số 04 - 2018 Khoa học Kiểm sát
yêu cầu phải làm đơn yêu cầu nhiều lần do
không đúng theo nhận thức chủ quan của
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và
tránh sự nhũng nhiễu của người tiến hành
tố tụng.
Thứ hai, về thời hạn thực hiện quyền yêu
cầu của bị hại
Điều 155 BLTTHS năm 2015 không
quy định thời hạn cụ thể bị hại được
quyền yêu cầu khởi tố, nghĩa là họ có
quyền yêu cầu khởi tố vụ án bất cứ lúc
nào, không bị giới hạn về mặt thời gian.
Nếu vì một lý do nào đó, bị hại chưa yêu
cầu khởi tố, nhưng cũng không thể hiện
ý chí là không yêu cầu khởi tố vụ án thì
vụ án sẽ bị “treo”. Những trường hợp này
Cơ quan điều tra không thể ra quyết định
khởi tố vụ án hay không khởi tố vụ án vì
chưa có yêu cầu của bị hại. Đây là một
trong những nguyên nhân làm cho việc
giải quyết tin báo, tố giác tội phạm của cơ
quan điều tra bị kéo dài mà chưa có cơ chế
ràng buộc đối với bị hại.
BLTTHS năm 2015 quy định trong
thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi
tố, nếu thuộc trường hợp vụ việc tố giác,
tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi
tố có nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải
kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm thì
thời hạn giải quyết tố giác, tin báo, kiến
nghị khởi tố có thể kéo dài nhưng không
quá 02 tháng. Trường hợp chưa thể kết
thúc việc kiểm tra, xác minh trong thời
hạn quy định thì Viện trưởng Viện kiểm
sát cùng cấp hoặc Viện trưởng Viện kiểm
sát có thẩm quyền có thể gia hạn một lần
nhưng không quá 02 tháng. Như vậy, tối
đa với thời hạn không quá 04 tháng Cơ
quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
phải kiểm tra, xác minh và ra một trong
các quyết định: Quyết định khởi tố vụ án
hình sự; Quyết định không khởi tố vụ án
hình sự; Quyết định tạm đình chỉ việc giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến
nghị khởi tố(1).
Bên cạnh đó, pháp luật cũng quy
định rõ về thời hiệu truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với tội phạm(2) cũng như quy
định về thời hiệu yêu cầu bồi thường thiệt
hại về dân sự do hành vi vi phạm pháp
luật của chủ thể vi phạm gây ra(3). Nếu
quá thời hạn luật định thì không có quyền
yêu cầu cũng như Cơ quan có thẩm quyền
không được thụ lý giải quyết.
Quy định của pháp luật nêu trên cho
thấy, trong các vụ án dân sự hay hình sự
đều có thời hạn giải quyết nhất định. Pháp
luật tố tụng hình sự quy định thời hạn cụ
thể tối đa không quá 04 tháng phải khởi
tố hay không khởi tố. Tuy nhiên pháp
luật không quy định cụ thể thời hạn bị
hại có quyền yêu cầu giải quyết vụ việc.
Bị hại có thể cho rằng căn cứ vào hành vi
của bị hại bị xâm hại thuộc trường hợp
phạm tội ít nghiêm trọng hay phạm tội
nghiêm trọng(4) mà thời hiệu để xử lý có
thể từ 05 đến 10 năm, nên bị hại tránh
việc trả lời những vấn đề của cơ quan
điều tra đưa ra. Từ đó, nhiều vụ việc kéo
1 Theo quy định tại Điều 147 Bộ luật TTHS 2015.
2 Điểm a khoản 2 Điều 27 BLHS năm 2015 quy định:
“1. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do Bộ
luật này quy định mà khi hết thời hạn đó thì người phạm tội
không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
2. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định
như sau:
a) 05 năm đối với tội phạm ít nghiêm trọng;
b) 10 năm đối với tội phạm nghiêm trọng;”.
3 Điều 588 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định “Thời
hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại là 03 năm, kể
từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền,
lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm”.
4 Theo khoản 1 và khoản 2 BLHS 2015 thì “Tội phạm
ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung
hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là phạt
tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm;
Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức
độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung
hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên
03 năm đến 07 năm tù;”.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ QUYỀN YÊU CẦU KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ...
46 Khoa học Kiểm sát Số 04 - 2018
dài thời gian, tồn động tin báo, tố giác và
gây khó khăn cho cơ quan điều tra trong
việc xử lý tội phạm.
Kiến nghị hoàn thiện
Để pháp luật được thực thi thống
nhất, cần quy định cụ thể trách nhiệm về
thời hạn yêu cầu của bị hại. Quá thời hạn
nêu trên, người bị hại hoặc người đại diện
hợp pháp của người bị hại không có quyền
yêu cầu khởi tố vụ án. Dựa trên quy định
của Điều 147 BLTTHS năm 2015, thấy rằng
thời hạn tối đa (02 tháng) giải quyết tin
báo tố giác tội phạm của Cơ quan điều tra,
cần có một khoảng thời gian để Cơ quan
điều tra xem xét về nội dung yêu cầu, vì
thế trong thời hạn 01 tháng có đủ thời hạn
để bị hại đưa ra chủ ý yêu cầu giải quyết
hành vi xâm hại đến quyền và lợi ích hợp
pháp của mình là phù hợp. Khoảng thời
gian còn lại 01 tháng để cơ quan điều tra
xem xét có khởi tố vụ án hay không. Từ
đó đảm bảo việc giải quyết tin báo tố giác
về tội phạm kịp thời, góp phần giữ vững
trật tự trị an và xã hội.
Vì thế, Điều 155 BLTTHS năm 2015
cần quy định bổ sung vào cuối khoản 1
một đoạn như sau: “Bị hại hoặc người đại
diện của bị hại chỉ có quyền yêu cầu khởi tố vụ
án hình sự trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày
bị tội phạm xâm hại”.
Quy định như trên một mặt nâng cao
trách nhiệm, ý thức của người bị hại trong
việc cân nhắc quyền yêu cầu khởi tố hay
không khởi tố vụ án của mình, mặt khác
tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan tiến
hành tố tụng trong quá trình giải quyết
vụ án, tránh việc vụ án bị “treo” không
thể giải quyết được và tình trạng vi phạm
pháp luật một cách “bất đắc dĩ” như trên.
Thứ ba, về việc trình bày lời buộc tội của
bị hại tại phiên tòa sơ thẩm
Để bị hại bảo vệ được các nội dung
đã yêu cầu khởi tố, tại khoản 3 Điều 62
BLTTHS năm 2015 quy định “Trường hợp
vụ án được khởi tố theo yêu cầu của bị hại thì
bị hại hoặc người đại diện của họ trình bày
lời buộc tội tại phiên tòa”. Thấy rằng quyền
của bị hại được pháp luật quy định cụ thể,
đặc biệt là vụ án được khởi tố theo yêu
cầu của bị hại pháp luật quy định quyền
rất lớn cho bị hại. Tuy nhiên, xét thấy quy
định trên chưa phù hợp.
Nếu chỉ những vụ án được khởi tố
theo yêu cầu của bị hại thì bị hại mới có
quyền buộc tội còn những vụ án không
thuộc trường hợp khởi tố theo yêu cầu của
bị hại thì bị hại không được quyền buộc
tội là không công bằng cho các bị hại. Khi
những vụ án được khởi tố theo yêu cầu
của bị hại đa số hậu quả đều ít nghiêm
trọng và cũng thuộc trường hợp phạm tội
ít nghiêm trọng, chỉ có hai trường hợp là
nghiêm trọng. Trong khi đó, nhiều vụ án
khác hậu quả xảy ra rất nghiêm trọng hay
đặc biệt nghiêm trọng thì bị hại không
được quyền buộc tội.
Hơn nữa, chức năng buộc tội là chức
năng riêng biệt, Nhà nước chỉ giao riêng
ngành Kiểm sát nhân dân. Hiến pháp năm
2013 đã khẳng định “Viện kiểm sát nhân dân
thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động
tư pháp”(1). Điều đó cũng được khẳng định
trong Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân năm 2014 “Viện kiểm sát nhân dân là cơ
quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt
động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam”(2). Luật cũng đã quy định
rõ trách nhiệm buộc tội là trách nhiệm của
Viện kiểm sát nhân dân “Thực hành quyền
công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân
dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc
buộc tội của Nhà nước đối với người phạm
tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và
1 Điều 107 Hiến pháp năm 2013.
2 Điều 2 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014.
NGÔ VĂN LƯỢNG
47Số 04 - 2018 Khoa học Kiểm sát
trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử vụ án hình sự”(1).
Từ đó thấy rằng, chức năng buộc tội
chỉ có ở Viện kiểm sát, khi vụ án đã khởi tố
thì nhà nước đã giao quyền cho Viện kiểm
sát thực hiện chức năng buộc tội, bị hại
chỉ được quyền đề đạt ý kiến, yêu cầu của
mình đến cơ quan tiến hành tố tụng mà
không thể thực hiện chức năng buộc tội.
Kiến nghị hoàn thiện
Do đó, thấy rằng cần bỏ khoản 3 Điều
62 BLTTHS năm 2015 để đảm bảo tính
hợp Hiến và hợp pháp, đồng thời cũng
đảm bảo công bằng trong xã hội.
Thứ tư, cần mở rộng quyền yêu cầu của bị
hại đối với một số tội phạm khác trong BLHS
Khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015 (sửa
đổi, bổ sung năm 2017) quy định “Người
thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội
phạm nghiêm trọng do vô ý gây thiệt hại về
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm
hoặc tài sản của người khác và được người
bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự
nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm
hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm
hình sự.”
Quy định trên cho thấy pháp luật
hình sự quy định rất nhiều tội phạm
thuộc trường hợp ít nghiêm trọng hoặc
tội phạm nghiêm trọng do vô ý gây thiệt
hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm hoặc tài sản của người khác
mà bị hại hoặc người đại diện của bị hại
tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách
nhiệm hình sự thì có thể được miễn trách
nhiệm hình sự.
Điều đó cho thấy, những tội phạm
thuộc trường hợp trên cũng giống như
một số tội phạm thuộc trong những
trường hợp quy định tại khoản 1 Điều
155 BLTTHS năm 2015. Nếu không quy
1 Điều 3 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014.
định cụ thể mà chỉ quy định theo hướng
gợi mở “có thể” sẽ dẫn đến sự quyết định
theo cảm tính của những người có thẩm
quyền trong cơ quan tiến hành tố tụng và
rất dễ dẫn đến tham nhũng, tiêu cực, thấy
rằng cần khẳng định vấn đề trên cụ thể
trong điều 155 BLTTHS năm 2015 để đảm
bảo cho pháp luật được thi nghiêm chỉnh
và thống nhất.
Bên cạnh đó, pháp luật quy định chỉ
khởi tố vụ án hình sự khi có yêu cầu bị hại
thuộc trường hợp khoản 1 Điều 134. Trong
khi đó, khoản 7 Điều 134 về việc chuẩn bị
phạm tội nhưng không thuộc trường hợp
khởi tố theo yêu cầu bị hại là không hợp
lý nhưng quy định tại khoản 1 Điều 134
BLHS năm 2015 thì bị hại đã bị thương
tích nếu bị khởi tố người phạm tội sẽ chịu
hình phạt cao hơn trường hợp chuẩn bị
phạm tội. Vì thế, Điều 155 BLTTHS năm
2015 cần mở rộng thêm khoản này.
Kiến nghị hoàn thiện
Từ đó, cần thiết nên quy định mở
rộng hơn nữa phạm vi các tội mà cơ quan
có thẩm quyền chỉ được khởi tố khi có yêu
cầu của người bị hại.
Cụ thể, Điều 155 BLTTHS năm 2015
cần quy định theo hướng sau: Chỉ khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án
những người thực hiện tội phạm ít nghiêm
trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng do vô ý gây
thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm hoặc tài sản của người khác, các
tội phạm quy định tại các khoản 1 và khoản 7
Điều 134 và khoản 1 các điều 135, 136, 138,
139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật
hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người
đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi,
người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể
chất hoặc đã chết./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_van_de_ve_quyen_yeu_cau_khoi_to_vu_an_hinh_su_cua_bi.pdf